← Quay lại trang sách

PHẦN II - ÁNH SÁNG ĐÊM MỞ MÀN I: THẮP LỬA-LONDON, 13 VÀ 14 THÁNG MƯỜI, 1886

Có vô vàn ánh sáng trong rạp xiếc, từ lửa hồng, đèn lồng, đến ánh sáng của những vì sao. Từng nhiều lần nghe người ta nhắc đến “trò chơi của ánh sáng” khi mô tả khung cảnh Le Cirque des Rêves, nên tôi đã đôi lần đồ rằng bản thể rạp xiếc ấy chính là một tổng hòa phức tạp những ảo giác từ ánh sáng.

- FRIEDRICK THIESSEN, 1894

* ĐÊM MỞ MÀN I: THẮP LỬA LONDON, 13 VÀ 14 THÁNG MƯỜI, 1886

Ngày mở màn, hay đúng hơn là đêm mở màn, thật ngoạn mục. Từng chi tiết cuối cùng được lên kế hoạch, và đám đông khổng lồ tụ tập bên ngoài cánh cổng từ rất lâu trước buổi hoàng hôn. Khi cuối cùng có thể vào, ai cũng tròn mắt đi từ lều này sang lều khác, càng đi mắt càng mở to hơn.

Từng yếu tố của rạp xiếc hòa quyện vào nhau trong một tổng thể nhịp nhàng kỳ diệu. Những tiết mục từng dàn dựng và tập luyện ở các nước khác nhau tại những lục địa khác nhau, giờ được trình diễn trong những căn lều san sát, mỗi phần hòa mình vào dòng chảy chung. Mỗi phục trang, mỗi động tác, mỗi bảng hiệu ở mỗi căn lều liên tục trở nên hoàn hảo hơn.

Tiết trời thật lý tưởng, trong lành, khô ráo và mát mẻ, sực nức những mùi hương, âm thanh cám dỗ và níu giữ bước chân hết khán giả này đến khán giả khác.

Đúng nửa đêm, nghi thức thắp lửa sẽ được tiến hành. Suốt nửa đầu buổi tối chỉ có cái vạc không, đứng yên như một tác phẩm điêu khắc bằng sắt uốn. Mười hai hỏa cung thủ lặng lẽ tiến vào khuôn viên, mang theo những bục nhỏ, đặt quanh mép sân như các con số trên mặt đồng hồ. Chính xác một phút trước nửa đêm, mỗi người đứng dậy từ bục của mình, gỡ cánh cung và rút mũi tên đen lấp lánh từ trên lưng xuống. Ba mươi giây trước nửa đêm, họ thắp sáng đầu mũi tên bằng những đốm lửa vàng nhảy nhót. Những khán giả trong đám đông lúc trước chưa kịp để ý thì giờ lặng đi quan sát. Mười giây trước nửa đêm, hỏa cung thủ giương cung, ngắm những mũi tên cháy hướng về phía cái vạc bằng sắt uốn đang chờ đợi. Khi đồng hồ gần cổng vào bắt đầu điểm, cung thủ đầu tiên bắn mũi tên bay vút qua đám đông, găm trúng đích trong một cơn mưa những tia lửa rực rỡ.

Đống lửa bùng lên một cột vàng rực.

Hồi chuông thứ hai liền theo, cung thủ thứ hai bắn tên vào cột lửa vàng, nó lập tức chuyển màu thành trong xanh như bầu trời.

Hồi chuông thứ ba ngân cùng mũi tên thứ ba, lửa ngả sang ánh hồng tươi ấm áp.

Lửa mang màu bí ngô chín ửng sau hồi chuông thứ tư. Hồi thứ năm, lửa rực lên màu đỏ thắm.

Hồi thứ sáu đổi màu lửa lung linh trong gam đỏ trầm. Bảy, lửa phừng lên màu của rượu mạnh.

Tám, lửa óng ánh tím. Chín, tím ngả thành chàm.

Hồi chuông thứ mười, mũi tên thứ mười, quầng lửa chuyển màu xanh thẳm của bầu trời đêm.

Vào hồi chuông áp chót, lửa bập bùng biến sắc từ xanh sang đen, từ thời khắc đó, khó có thể phân biệt được cột lửa với phần chân vạc bên dưới.

Đến hồi chuông cuối cùng, lửa đen nhường chỗ cho một cơn mưa những tia lửa trắng sáng chói lòa, vút lên không trung rồi rơi xuống như hoa tuyết. Những cuộn khói trắng khổng lồ cuồn cuộn cuốn lên nền trời đêm.

Đám đông phấn khích vỡ òa ra. Những khán giả vốn lưỡng lự muốn ra về lập tức quyết định sẽ nán lại chút nữa, sôi nổi bình luận về màn đốt lửa. Những người không được tận mắt chứng kiến khó có thể tin nổi câu chuyện được kể lại chỉ vài phút hoặc vài giờ sau đó.

Người ta hò reo kéo nhau từ lều này sang lều khác, miên man theo những lối đi giao cắt đan xen nhau, chừng như kéo dài vô tận. Có những người gặp lều nào cũng vào xem, còn những người khác chỉ chọn một số căn sau khi cân nhắc kĩ lưỡng những tấm bảng hiệu treo bên ngoài. Có những người thấy màn trình diễn ở một lều nào đó hấp dẫn quá đến mức chẳng muốn ra, cả buổi chỉ ngồi lỳ đấy. Người này kháo với người kia khi gặp nhau trên lối đi, chỉ trỏ những căn lều thú vị họ đã vào. Những lời giới thiệu luôn được hồ hởi đón nhận, dù đôi khi những người được giới thiệu chưa kịp đến những nơi thú vị kia thì đã bị hút vào những căn lều khác cũng hấp dẫn không kém.

Khó khăn lắm mới có thể mời các khán giả ra về khi bình minh bắt đầu ló rạng. Họ chỉ xuôi xuôi khi được đảm bảo rằng đến hoàng hôn họ sẽ được chào đón trở lại.

Ai ai cũng tấm tắc rằng đêm mở màn là một thành công không thể phủ nhận.

Chỉ có xíu xiu biến cố, một sự kiện bất ngờ. Nó diễn ra nhưng các khán giả tới rạp hoàn toàn không nhận thấy, còn nhiều nghệ sĩ trong đoàn xiếc chỉ hay biết sau khi chuyện đâu đã vào đó.

Ngay trước khi mặt trời lặn, khi công tác chuẩn bị vào phút cuối đang khẩn trương (chỉnh sửa phục trang, nấu chảy caramel), vợ của người luyện mèo rừng bất ngờ trở dạ. Khi thể trạng không trong thời kỳ nhạy cảm, cô là phụ tá biểu diễn cho chồng mình. Vắng cô màn biểu diễn phải điều chỉnh chút chút, nhưng lũ mèo có vẻ náo loạn. Cô vợ mang song thai và dự kiến vài tuần nữa mới đến ngày sinh. Sau đó mọi người thường đùa rằng có lẽ hai đứa nhóc không muốn lỡ đêm mở màn rạp xiếc. Một bác sĩ được mời đến trước khi rạp mở cửa cho công chúng. Bác sĩ được bí mật dẫn vào hậu trường để chăm sóc sản phụ (cách này dễ dàng hơn nhiều so với việc đưa sản phụ tới bệnh viện).

Sáu phút trước nửa đêm, Winston Aidan Murray chào đời.

Bảy phút sau nửa đêm, em gái nó, Penelope Aislin Murray, ra theo.

Khi tin đến tai Chandresh Christophe Lefèvre, ông thoáng thất vọng vì cặp sinh đôi không giống nhau hoàn toàn. Ông đã tính đến rất nhiều vai trong rạp xiếc cho cặp sinh đôi thể hiện khi chúng đủ lớn. Nhưng sinh đôi một trai một gái thì thiếu tính sân khấu mà ông vẫn mong đợi. Dù vậy ông vẫn bảo Marco mang hai bó hồng nhung lớn đến chúc mừng.

Cặp sinh đôi là hai sinh linh bé bỏng, mái tóc tơ đỏ hoe và dày đáng ngạc nhiên. Chúng hầu như không khóc, ngoan ngoãn nằm, nhìn nhau bằng cặp mắt xanh lam tròn xoe. Chúng được bọc trong mấy vuông lụa và xa- tanh không dùng đến, màu trắng cho bé gái và màu đen cho bé trai.

Các diễn viên trong đoàn xiếc lần lượt tranh thủ đến thăm chúng giữa các tiết mục, thay nhau bế ẵm và không thể không xuýt xoa rằng chúng thật biết chọn đúng thời điểm chào đời. Ai cũng bảo chúng sẽ cực kỳ hợp với rạp xiếc, chỉ trừ món tóc đỏ thôi. Có người đề xuất cho chúng đội mũ, đến khi nào đủ lớn thì nhuộm tóc. Mấy người khác cho rằng màu tóc đẹp như vậy mà đem nhuộm thì phí, một sắc đỏ kỳ lạ còn tươi tắn hơn cả màu tóc nâu đỏ của mẹ chúng.

“Đó là màu của hồng phúc và may mắn,” Tsukiko nói nhưng không chịu giải thích hàm ý của mình. Cô đặt môi hôn lên trán hai đứa trẻ, sau đó còn gấp hạc giấy, xâu lại thành dây treo quanh nôi của chúng.

Chớm bình minh, khi khu rạp không còn khán giả, chúng được cho ra đi dạo quanh các căn lều và đến sân giữa. Mục đích có vẻ như để ru hai đứa ngủ, nhưng chúng vẫn thức thao láo, mở to mắt nhìn đèn đuốc, phục trang biểu diễn và những sọc đen-trắng trên những căn lều xung quanh, tỉnh táo một cách kỳ lạ dù chỉ mới được vài giờ tuổi.

Mặt trời lên hai đứa mới chịu nhắm mắt, nằm bên nhau trong cái nôi bằng sắt uốn màu đen, đắp tấm chăn kẻ sọc đã được chuẩn bị để đón chúng, dù cặp sinh đôi ra đời sớm. Nôi và chăn là món quà được gửi đến từ mấy tuần trước đó, không kèm theo danh thiếp hay lời nhắn nào. Vợ chồng Murray cho rằng đó là quà của Chandresh, nhưng khi họ cảm ơn ông, Chandresh bảo ông hoàn toàn không biết họ đang nói đến quà gì.

Cặp song sinh khá thích món quà, bất kể nguồn gốc chẳng rõ từ đâu.

Sau đó chẳng ai nhớ chính xác ai đã gọi nựng chúng là Poppet và Widget. Cũng như cái nôi, chẳng ai nhận đó là quà của mình.

Nhưng biệt hiệu vẫn gắn với hai anh em, vì những biệt hiệu là như vậy mà.