Ngày Tết của Cải Cúc
Từ bé đến lớn, tôi nhận ra một điều, cái cảm nhận về Tết ở mỗi lứa tuổi rất khác nhau. Như những ngày còn nhỏ, tôi cực kì mong ngóng đến Tết. Đó là những tháng ngày thiên đường, cha mẹ không còn cau mặt bắt lỗi mỗi khi mình hư hoặc làm việc gì sai. Mọi người cùng nhau dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị đón Tết. Rồi được nghỉ học, được nhận lì xì, được mặc quần áo mới đi chơi... Thế mà càng lớn, tôi càng thấy Tết nhạt dần. Đó là khi mọi người lo lắng đến mất ngủ cho những khoản chi tiêu cuối năm. Đó là lúc mẹ tôi ngao ngán dọn mâm ra rồi dọn mâm vào. Đó cũng là lúc tôi trở về nhà rất muộn sau khi đã đi một vòng chúc hết người này người khác, lòng tự hỏi: “Ủa, kì nghỉ của mình sắp chấm dứt rồi sao?” Thế đấy, tôi nhận ra có không ít người lớn bắt đầu không thích Tết.
Nhưng tụi nhóc thì khác. Trẻ con luôn có một tình yêu chung thủy với Tết. Như bé Cải Cúc của nhà tôi chẳng hạn. Cải Cúc là con gái của anh chị tôi, trong nhà bé nhất nên cũng được cưng nhất. Mỗi lần đến ngày cúng ông Công ông Táo về trời, Cải Cúc lại khiến căn nhà nhỏ của chúng tôi lao xao với những câu hỏi: “Bao giờ Tết về hả ba? Tết này nhà mình có về quê chơi như năm ngoái không nội? Năm nay chú út nhớ lì xì cho con nhiều hơn mọi năm nghen...” Thay vì hình ảnh con én báo xuân về, cả nhà ngầm định vui với nhau là từ giờ Cải Cúc sẽ được coi là “thông báo viên” Tết về của gia đình. Nhận chức mới, con nhỏ ra chừng hãnh diện lắm.
Nhà có đứa trẻ thì bao giờ cũng vui, hẳn vậy. Nhưng phải ở trong nhà tôi mới cảm nhận hết được niềm vui khi có Cải Cúc. Khách đến chơi nhà, con bé mũm mĩm chạy ra chào từ tận cửa, nhoẻn cười khoe cái răng sún do tật ham đồ ngọt của cô nàng. Khách về, lại là Cải Cúc lũn tũn tiễn khách. Năm nào tôi cũng trêu: “Năm nay Cải Cúc bội thu tiền lì xì rồi, cho chú vay nha.” Con nhỏ lại ỏn ẻn... giấu ngay sấp tiền cho mẹ nó. Cả nhà cười ồ lên.
Năm nay cũng thế, chưa đến Tết mà Cải Cúc nhà tôi đã quýnh hết cả lên. Không những chỉ lo đòi quần áo, bút, thước mới như tụi bạn, không hiểu nghe được ai, con nhỏ đòi năm nay cả nhà phải luộc bánh chưng. Ông nội nhìn bà nội, bà nội nhìn sang bố mẹ Cải Cúc, bố mẹ Cải Cúc lại nhìn tôi... Rồi ba tôi tặc lưỡi: “Thôi thì cũng lâu rồi, năm nay luộc lấy nồi bánh, rồi chia cho cả bà con xóm giềng nữa.”
Và năm nay nhà tôi có thêm điệp vụ “bánh chưng của Cải Cúc”. Như một hoạt náo viên, con bé lăng xăng khắp nơi, giúp bà nội rửa lá, ngắm nhìn người lớn trong nhà cất nồi bánh. Được hứa sẽ gói riêng cho mấy cái “bánh chưng nhí”, nhỏ Cải Cúc quyết tâm ngồi trông nồi bánh cho bằng chín mới thôi. Để đến lúc anh trai tôi phải bế bé vào khi đã ngủ gật ngon lành.
Chưa bao giờ nhà tôi có một cái Tết vui như thế. Những kỉ niệm ngày xưa được ôn lại bên nồi bánh. Cái lần bố tôi bế anh hai chạy băng băng đi cấp cứu trong đêm. Ngày Tết đầu tiên mỗi anh em được hẳn một bộ cánh mới... Cho tới cả kỉ niệm Tết năm nào vẫn còn Milu, con chó khôn hết biết đã sống cùng chúng tôi ngót chục năm. Ai cũng thấy mình trẻ lại.
Giờ này Cải Cúc hẳn đang ngủ ngon lành. Cả nhà lại quay về với guồng quay bận rộn cuối năm. Nhưng có một lúc nào đó, khi mọi người chững lại, nhìn cái Tết qua con mắt trẻ thơ, lại thấy biết bao nhiêu là hi vọng. Là niềm vui sum vầy dịp Tết đến xuân về, là những ước ao năm mới được sức khỏe và mãi ở bên nhau. Ừ, thì bởi vì mỗi năm lại bắt đầu bằng một mùa xuân, nên con người ai cũng hi vọng. Như trong giấc mơ của Cải Cúc, cháu tôi, con bé từng hi vọng lúc đi học mang hẳn vài cặp bánh chưng tới khoe với bạn bè...
Bức thư tình của ông nội
Ông nội mất đi để lại cả một quãng thời gian buồn lê thê trong nhà. Đôi khi, tôi tỉnh dậy từ sớm, mơ hồ nghe tiếng ba toong của ông gõ nhịp trên sàn nhà. Bữa cơm ba người trở nên vội vàng và lặng lẽ hơn bao giờ hết. Ánh mắt bố trở nên xa xăm. Mẹ ngồi tha thẩn gập lại quần áo cũ của ông, để vào trong tủ, khóa lại. Là người gần gũi với ông nội nhất, khỏi cần nói tôi buồn đến thế nào. Chỉ cần nghĩ tới lúc sẽ không còn được gác chân lên ông ngủ, hoặc không còn được ông giảng Kiều cho nghe nữa, tôi buồn đến nao lòng.
Một lần, trong lúc dọn dẹp lại tủ để đồ cá nhân của ông nội, tôi bắt gặp một vật lạ lùng. Giữa đống sách cũ, bao kính... của ông tôi, hiện ra một xấp thư được bọc kín bằng giấy bóng. Mở ra xem, tôi thấy bên trong là hàng loạt thư được gửi đi từ Huế, và cũng từ một cái tên khác, không phải bà nội tôi. Nét chữ con gái mảnh và nghiêng. Đặc biệt phong bì nào cũng in hình một cô gái mặc áo dài tha thướt bên sông Hương thơ mộng.
Qua người bạn thân của ông nội tôi, một nhà thơ già, tôi được nghe kể về chuyện tình của ông nội mình. Thời gian còn dạy học ở một trường tư tại Huế, ông tôi đem lòng yêu cô gái là nữ sinh Đồng Khánh. Bà có cái tên thật đẹp. Được một thời gian, khi mối tình giữa anh giáo trẻ và cô nữ sinh đang mặn nồng, ông bị gia đình gọi về cưới vợ. Bà nội là người cùng làng, không phải một trang nhan sắc nhưng cũng hiền lành, chịu thương chịu khó. Giữa hạnh phúc cá nhân và chữ hiếu với cha mẹ, ông nội ngậm ngùi chọn cách về quê lấy vợ. Mối dây liên lạc của ông và cô gái kia cũng thưa dần. Thế mà thật lạ, như sau này các bác và bố tôi kể lại, suốt quãng thời gian sống với bà, chưa bao giờ thấy ông to tiếng với bà một lời nào. Ngay cả khi bà tôi mất sớm vì ung thư, ông nội ở vậy nuôi con chứ không đi bước nữa. Thậm chí, từ bỏ chức vị cao trong Bộ giáo dục lúc bấy giờ, ông xin về hưu sớm, toàn tâm toàn ý cho gia đình. Hồi còn nhỏ, thỉnh thoảng tôi để ý, khi giảng cho tôi nghe ý nghĩa của những câu Kiều, đôi mắt ông nội lại thoáng buồn. Lúc ấy tôi có gặng hỏi, ông tôi chỉ cười xòa: “Người miền Trung, đôi mắt ai cũng đượm buồn hết.”
Được sự cho phép của bố mẹ, tôi bắt đầu chuyến đi xa một mình đầu tiên vào năm mười sáu tuổi. Bằng đủ mọi cách, tôi lùng tìm được địa chỉ “người yêu cũ” của ông nội. Trên xe, tôi nghĩ ra đủ thứ chuyện để nói với bà. Sẽ hỏi thăm ông nội tôi hồi đó, có lãng mạn hệt như thằng cháu đích tôn máu văn thơ bây giờ không. Tôi cũng sẽ hỏi bà và ông nội tôi quen biết thế nào, rồi bà sẽ không phiền lòng nếu đọc cho tôi nghe một trong những bức thư ấy chứ. Các ý nghĩ miên man cứ chạy mãi trong đầu tôi suốt cả nẻo đường đi.
Nhà của bà khuất trong căn ngõ nhỏ, nhờ sự chỉ dẫn nhiệt tình của bác xích lô mà tôi mới tìm thấy được. Hiện ra trước mắt tôi là một bà lão già nua nhưng phúc hậu, mái tóc còn dày dù đã bạc xóa. Tuy nhiên ánh mắt nhuốm màu tuổi tác, đã mờ đục cùng với năm tháng. Một vài suy nghĩ lướt nhanh qua đầu. Tôi bấm chuông cửa, một cô bé chắc nhỏ hơn tôi chừng một, hai tuổi ra mở cổng. Chưa kịp ngỡ ngàng vì người lạ nói giọng Bắc, tôi đưa cho cô bạn xấp thư, nhắn có người nhờ gửi. Rồi cũng vội vàng như khi xuất hiện, tôi lặng lẽ biến mất.
Bà nội không phải là người ông tôi yêu nhất. Nhưng chẳng tìm đâu ra người thứ hai trên đời thương và trân trọng bà nhiều như ông tôi cả. Sau này lớn lên, mỗi khi có việc đi xa trở về, nhìn tấm ảnh ông nội trên bàn thờ, nụ cười móm mém, đột nhiên tôi thấy yên bình kì lạ. Cháu hiểu rồi ông ạ. Rằng ta có thể yêu một ai đó đậm sâu, nhưng thương mến một người và ở bên họ suốt đời thì không phải ai cũng làm được. Như cái cách mà ông nội đã dành “tình yêu” cho bà nội, dẫu chưa bao giờ gửi đi một lá thư tình.
HẾT