← Quay lại trang sách

Chương 10 Cu ly thầy bói, cu ly thần

Quả thật con cu ly bé nhỏ là vật nuôi trí mơ tưởng của người Giarai nhiều hơn cả, cõi mơ tưởng được rừng bảo dưỡng, cõi mơ tưởng “hoang dã” theo nghĩa tốt nhất của từ này; nhưng ta biết rừng ấy không chỉ có muông thú và cây cỏ của nó, nó còn là một chốn ngoài kia và là một biểu tượng, là dấu hiệu của một thứ khác. Cùng với hổ, con cu ly là con vật thường được gợi đến hơn cả (và gợi đến một cách nghi thức) trong huyền thoại. Tuy nhiên, không có người-cu ly như đã có người-hổ, bởi vì cu ly được coi như là tổ tiên của con người; không phải là kẻ ngang hàng, không phải là kẻ tranh chấp, nó ở nơi kia, ở bên trên, trên cây.

Dù cái tên cu ly (loris) có trong tất cả các từ điển, nó không quen tai người Pháp... nhất là đó là một từ Hà Lan: loeris, có nghĩa là thằng hề (clown, trong tiếng Anh). Danh từ này, nguyên được người Hà Lan ở Mã Lai gán cho một động vật linh trưởng có đôi mắt to buồn, đã hình thành từ chỉ giống loại Lorisidae (phân bộ cu ly), một nhóm gần với Lémuriens (phân bộ vượn cáo). Các nhà động vật học phân biệt giống Loris , được đại diện ở Ấn Độ bởi con cu ly gầy (Loris tardigradus) , và giống Nycticebus , được đại diện ở Đông Nam Á bởi các con culy chậm: Nycticebus pygmaeus và Nycticebus coucang (tên Mã Lai của nó là kukang ). Nói cách khác con cu ly của chúng ta là một con nycticèbe; gọi theo cách này hay cách khác thì ta cũng không nói tiếng Pháp. Từ khoa học Nycticebus trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “khỉ-đêm”, không nên nhầm nó với tất cả các con - cebus của động vật học. Những người bản địa Đông Dương cũng làm như vậy khi gọi nó là “khỉ-tre” ( kra alé trong tiếng Nam Đảo, dô’ glé trong tiếng Nam Á); ai cũng biết nó không phải là một con khỉ. Tuy nhiên, con người ở nhiều điểm thuộc cựu lục địa đã bị mê mẩn vì các loài Lorisidés và Lémuriens, phần lớn hoạt động về đêm, như tên gọi “lémures”, bóng ma của người chết hiện lên ban đêm.

Con nycticèbe của chúng ta, một cái cục tròn to bằng hai nắm tay, quyến rũ hơn là đẹp. Khi ta đưa thức ăn cho nó - thích nhất là con sâu to - nó bắt đầu ra vẻ chê, còn tệ hơn một con mèo khó tính; rồi, bất ngờ duỗi hai chân trước ra, nó nắm lấy và nhai ngốn ngấu, như một con hổ nhai mồi. Bị quấy rầy, nó có thể nổi cơn hung dữ, kêu lên những tiếng đáng sợ, nó có thể cắn sâu và không chịu nhả ra. Ban ngày, nó mơ màng, mắt mở, và buồn rầu ngắm nhìn chúng ta. Không phải một con dã thú, không phải một con người, đấy chính là cõi mơ tưởng hiện hình.

Bây giờ hãy rời cái chốn quan sát này, trở lại với cách nhìn của người Giarai, ở đó kra alé đóng vai trò ưu tiên là kẻ trung gian, giữa các loài. “Chủ nhân của tất cả các loài chim và các loài có vú”, nó được gắn với các vị tổ tiên được thần thánh hóa của các thị tộc Giarai; trong huyền thoại nó đóng vai trò đồng đẳng của cặp Mẹ Rú-Drit. Nó thuộc về thế giới con người và thế giới loài vật; nó làm thành cái cầu nối cần thiết cho tư duy Giarai vốn rất sợ sự gián đoạn. Việc nó bị cấm không được săn - còn hơn cả hổ - là có thể dễ hiểu trong bối cảnh đó.

“Khi, từ trên cây, nó nhìn ta, rồi đưa cánh tay dụi lên mắt, để tự che mắt, bởi nó khóc cho ta; ấy là dấu hiệu ta sắp chết”. Cử chỉ được quan sát thật đúng, cách giải thích thật giàu ý nghĩa. Vì sao nó buồn? Bởi vì nó biết .

Nếu một người Giarai, tình cờ, nhìn thấy một con nycticèbe trên một cái cây (chỗ trú ngụ duy nhất của nó), anh ta sẽ tận dụng cơ hội đó để khai thác các khả năng bói toán của con vật kỳ lạ. Anh ta đưa cho nó một cây gậy, vừa hỏi: “Ta sẽ giàu có không? Ta có sống lâu không?” Nếu con nycticèbe nắm lấy cây gậy, thì câu trả lời là có. Về nhà, người được phúc dâng một lễ cúng cho kra alé để cảm ơn nó, thanh toán món nợ của mình (về những khoản lợi được báo trước); trong lời khấn nghi thức anh ta gọi nó là öi ya (ông bà), giống như khi anh khấn tổ tiên, anh ghép nycticèbe vào đó - và ta biết các vị tổ tiên ấy, được kể ra hàng loạt, chủ yếu là đàn bà, các vị xa nhất được liệt vào các thần, cũng như kra alé . J.E. Kemlin cũng nhận thấy lối thần thánh hóa con cu ly như thế ở người Rơ Ngao (tộc người Nam Á sống ở phía bắc người Bana), ông lưu ý rằng “nhất là con nycticèbe được coi như là người khai tâm cho những phù thủy đo lường”, nó đưa cây gậy lại cho người nó muốn kết ước (những người “phù thủy” này đo hai lần liên tiếp sải cánh tay của họ trên một đoạn tre; sự khác nhau giữa hai lần đo đó được coi là câu trả lời cho câu hỏi được đặt ra. Người Giarai cũng làm cách này). Kemlin cũng lưu ý rằng sự kết ước với con nycticèbe đem lại “thành công trong săn bắn”, bögap (hẳn là cùng một từ với mögap người thợ săn Giarai) - kết ước với hổ đặc biệt có lợi cho việc đi săn những con mồi lớn.

Tuy nhiên, phải khá mạnh để có thể kết ước với con nycticèbe - lời đề nghị kết ước có thể đưa ra trong một giấc mơ tiền định - và ngay cả việc gợi cho nó bói. Người ta thường tránh nhìn nó; nếu ta thấy một con cu ly chết, thì phải rời bỏ ngay nơi đó, kiêng không được trồng bất cứ thứ gì ở đó. Đây là một con vật “thiêng” ( mau yang ), có những quyền lực khác thường; người ta bảo đánh nhau nó mạnh hơn tê giác, voi và trăn. “Sức mạnh” đó ( pran ) của những kẻ nhỏ (cu ly trong rừng hay Drit trong huyền thoại), là sức mạnh vật chất chỉ vì trước hết nó là sức mạnh tâm thần, và nó bắt nguồn từ một hiểu biết; nó làm cho người ta vượt qua thắng lợi mọi thử thách. Không hề có chút mưu mẹo nào trong này cả, đây là một sự siêu-hiểu biết nó tạo nên các quyền lực, đặc biệt là quyền buộc mọi sinh linh phải nghe theo. Những kẻ mạnh trong cõi mơ tưởng của người Giarai không phải là những lãnh chúa oai phong cũng chẳng phải những con rồng khủng khiếp, yêu tinh hay các loại anh hùng rơm khác, kỳ thực bao giờ cũng là những kẻ nhát gan, mà những kẻ nhỏ bé là kẻ biết, từ người đi săn cho đến thầy pháp, với kra alé là “thượng đẳng”.

... Trán-lớn sống với cô em gái. Họ bị bố mẹ bỏ trong rừng, rồi được bọn yêu tinh nuôi, sau cùng họ giết hết bọn yêu tinh. Bây giờ họ sống với nhau như vợ chồng; chàng đi săn, bên ngoài; nàng, trong nhà, lo dệt khố cho chàng.

Trong một lần Trán-lớn đi vắng, nàng tiếp Chó-mũi to đến chơi, nó xin cưới nàng. “Tôi không dám, vì có anh tôi... - Chuyện bỡn! Chỉ cần bảo anh ấy đi hái trái cây dâu da [Baccaurea] do Cu ly giữ trong rừng!” Nó định như thế sẽ ám hại được người anh đối thủ.

Trán-lớn về; ở nhà, chàng không thấy có cơm đã nấu; ngay cả bếp cũng tắt. “Có chuyện gì vậy, em? - Em thấy khó ở; em muốn ăn quả dâu da do Cu ly giữ trong rừng”. Sáng hôm sau, Trán-lớn lên đường, chàng thấy các quả ấy, chàng hái. “Ai hái quả của ta đó? Phải xin ta trước đã chứ! - Tôi không biết! - Vậy thì ta đánh nhau!” Trán-lớn và Cu ly đánh nhau, Trán-lớn thắng, chàng tìm một cái dây leo để trói kẻ bại trận. “Thôi đừng làm vậy, anh ạ, tôi ở lại với anh!” Họ cùng đi về, mang quả dâu da về cho cô em.

Hôm sau, Trán-lớn và Cu ly đi vắng. Chó-mũi to đến. “Thế nào, anh cô chết rồi chứ? - Còn lâu, Cu ly còn đi về cùng anh ấy nữa kia!”

Anh chàng tán gái khuyên cô gái liên tiếp đòi anh đủ các thứ: quả dứa do Tê giác giữ, chuối do Voi giữ, mật ong ở chỗ Gấu, một miếng vẩy Rồng - Lần nào, Cu ly cũng đánh thắng các loài vật nguy hiểm, bọn chúng lần lượt trở thành đồng minh của Trán-lớn - Mạnh hơn tất cả, Cu ly thống trị các loài dã thú, tát cạn nước biển - Sau trận chinh chiến cuối cùng trở về, Trán-lớn và các bạn của chàng bắt gặp đôi trai gái ở nhà. Cô em gái và Chó-mũi to biến mất trong lòng đất (Hj. 4).

Người kể chuyện bình luận: “Vì cái quyền lực đó của kra alé mà chúng tôi sợ nó. Sống, thì nó nắm rừng núi; chết, nó nắm đất” - nghĩa là: sống, nó là chủ của núi rừng (lĩnh vực hoang dã); chết, nó là chủ của đất đai (canh tác được) ở đó không ai được làm rẫy.

Các tên ghép của hai “người” là dấu hiệu cho người nghe huyền thoại: người anh, quá gần gũi, loạn luân; kẻ kia thì quá xa, không chỉ là người ngoài (không phải Giarai), mà không phải là người, một con chó. Nhưng không phải các hệ biến hóa đó, mà là cái chuỗi ngữ đoạn khiến ta chú ý. Nhân vật, có phần là thợ săn, dù sao cũng quen thuộc núi rừng, gặp Cu ly một đồng minh ngoại lệ; nhờ có đồng minh đó, những kẻ thù tiềm tàng trở thành những người bạn thực, kẻ này thêm vào người kia giúp chàng thắng tất cả các khó khăn và cuối cùng để cho chàng là người chiến thắng duy nhất. Song cái dãy này là lấy lại từ một dãy khác ( Hj. 99 ), trong đó Drit (tương đồng của Trán-lớn, là kẻ suy nghĩ và biết) đặt bẫy bắt được một dãy con vật, chúng từ là kẻ thù quay lại thành bạn, nhờ có nàng Trắng Ngà, từ một ngà voi ma-mút chui ra. Chiếc bẫy đó, có thật và do cô gái-rừng làm cho hiệu nghiệm, đảo ngược và làm mất hiệu nghiệm chiếc bẫy ẩn dụ do kẻ tình địch (Chó Mũi-lớn hay lãnh chúa) giăng bẫy nhân vật chính. Điều đó cho phép chúng ta nhận ra một sự tương đương:

Cu ly = [bẫy + cô gái - rừng]

Chương sau sẽ cho thấy chiếc bẫy có một nội hàm nữ; khi đó công thức có thể rút gọn: Cu ly là tương đương với các cô gái-rừng; cho nên người thợ săn, sau khi đã khóa chặt vợ ở nhà rồi, có thể kết ước với Cu ly hay các cô gái-rừng, mà anh ta gặp lại trên đất săn. Điều đó khiến tôi nghĩ rằng Cu ly phải được người Giarai coi là giống cái - và ta không thể có cách nào biết được điều đó ngoài các lời đọc phả hệ trong đó kra alé được kể cùng với Mẹ Rú và các nữ tổ tiên xa xôi. Như vậy, Cu ly, vô tính như người đàn bà-cây, sẽ không là “thầy bói” hay “phù thủy” (giống đực), mà là người nữ biết, người khai tâm cho những kẻ hèn mọn có thể lắng nghe nó.

Đến lúc này, cuốn sách của tôi phải dành chỗ cho khúc cantilène về Cu ly mà tôi đã được nghe hát bằng một giọng thở than - tiếng nói kỳ lạ, từ nơi chốn ngoài kia vọng lại, tiếng nói của một người Giarai già, chuyên gia về các loại bẫy và bác sĩ của những giấc mơ.

Khung cảnh được tưởng tượng là nghi lễ đám rước trum trước khi hiến tế một con trâu. Ba người mỗi người mang một chiếc chiêng lớn, người thứ tư mang một chiếc trống; họ chơi, theo điệu riêng của nghi lễ này, vừa quay vòng quanh con trâu được buộc vào cây cột tế. Ở đây vòng tròn chuyển thành hàng thẳng, đám rước kéo đi, trong một cảnh trí rất thực, dọc theo con sông Ayun và sông Apa, từ vùng Pleiku đến vùng người Mdhur thuộc Apa hạ, như vậy đi ngang qua gần hết vùng lãnh thổ của người Giarai. Các nhân vật gồm có: Hổ, Gấu, Dúi (chuột tre), Nhím, Mẹ Rú và Cu ly, không kể con trâu mà họ kéo theo sau. Lời thoại (không chỉ rõ người nói) làm thành bài hát, nhịp theo tiếng chiêng.

(Cu ly) Ơi Mẹ Rú, mang cồng, mang chiêng ra đây! Và gấu thì cố mà tập đánh trống!

(Gấu) Hu hu mật ngọt, mật ong, về nhà mà ăn mật, để quên ở nhà, để quên ở nhà.

(Cu ly) Bạn ơi, thế thì về đi, về mà ăn mật, mật ở nhà bạn.

Ơi Mẹ Rú, mang cồng ra đây, mang chiêng ra đây! Hổ hãy cố mà tập đánh trống!

(Hổ) Hu hi thịt ôi ở nhà, thịt nai ôi, ở nhà.

(Cu ly) Bạn hổ ơi, vậy thì về nhà đi, về nhà mà ăn thịt nai ôi, thịt nai ôi của bạn ở nhà.

Ơi Mẹ Rú, mang cồng ra đây, đánh chiêng lên đi, để cho bạn nhím tập đánh trống!

(Nhím) Hi hui trái chín, bỏ quên trái chín ở nhà, trái chín ở nhà.

(Cu ly) Bạn Nhím ơi, vậy thì về đi, về mà ăn trái cây, trái cây ở nhà.

Ơi Mẹ Rú, đem cồng ra đi, đánh chiêng lên đi, để cho bạn Dúi tập đánh trống!

(Dúi) Huet huet tôi bỏ quên những cái rễ của tôi ở nhà, rễ tre, tre ở nhà.

(Cu ly) Thế thì bạn về đi, về mà ăn rễ của bạn, tre của bạn ở nhà.

Ơi Mẹ Rú, mang cồng ra đi, đánh chiêng lên đi, Cu ly sẽ đánh trống đây.

Bit bing, bit bing

trâu đã giết

nhìn xem ta ăn mặc mới đẹp sao

trăng rằm bit bing

cú kêu trong rừng

plat plang hãy đánh plat plang

bạn Dúi ơi, chẳng vui sao?

bạn ơi, bạn cười

bạn Nhím chùi cái mũi dài.

Lời bình. Người này người khác nối đuôi nhau trở về nhà, vì họ không mang theo lương thực cho cuộc hành trình này. Ở nhà, họ nghe thấy Cu ly đánh trống. Dúi, là anh chàng khỏe hơn cả, ra về sau cùng. Đến xứ người Mdhur, Cu ly và Mẹ Rú đã hiến tế trâu. Vì vậy người Mdhur, trẻ già, đều biết đánh trống rất giỏi (Tl. 10. 67).

Trong thực tế, chỉ có đàn ông mang chiêng và trống; nhưng điều đó không hề cho chúng ta chút chỉ dẫn gì về giới tính của các nhân vật tưởng tượng. Cu ly cặp đôi với Mẹ Rú; nó còn là người khai tâm về âm nhạc, người khai tâm cho tất cả những người Giarai mà đám rước đi qua. Có thể Gấu, Hổ, Nhím và Dúi là biểu thị bốn nhóm Giarai tương ứng sinh sống dọc sông Ayun và Apa: Hödrung, Chor, Hroai và Mdhur.

Một lần nữa, Cu ly (ở đây có Mẹ Rú đi theo) tỏ ra là bậc trên; là chủ soái của các loài vật, nó dẫn đám rước và bao quát tình thế. Ngoài ra, với chức năng văn hóa mới này, nó lại nhắc nhớ đến những người con gái-rừng trong vai trò khai hóa của họ, mang các kỹ thuật đến cho con người; cũng như họ và cùng với họ, nó biết. Sự hiểu biết của chúng ta phải chăng là đến từ rừng và từ ban đêm, từ giấc mơ?

Tiến hành, theo lối Giarai, bằng kết hợp các âm thanh và ý nghĩa, tôi điều tra về các loài linh trưởng, bắt đầu từ con kra alé ấy và tất cả các con kra khác. Tôi đã rất nhanh chóng nhận được một số rất lớn các từ mà mấy người bạn Giarai, trong đó có những người thợ săn già, kể ra một cách dễ dàng, cứ như tôi đã khởi động cả một dãy có sẵn trong ký ức.

Tôi bỏ qua các con khỉ, vượn thờ 1 , khỉ đuôi, vượn, chỉ giữ lại những con mà tôi không thể nhận dạng và ở chúng cái “rào chắn” giữa các giống loài động vật học và các con vật tưởng tượng hay hoang đường đã được vượt qua. Sau đây là tên của chúng, với những mô tả và truyền thuyết tôi được nghe, và theo thứ tự được kể:

1 Nguyên văn: semnopithèque. Một số tài liệu dịch là: con Dộc, khỉ đuôi dài - ND.

nah tan - không có lông; da nó như da người, mặt nó cũng vậy. Nó ăn cuống cây cọ, cua và cá. Sống thành đàn. Các cánh tay của nó phía phải có một lưỡi gươm, phía trái có một hòn đá mài. Bàn chân nó quay ngược, gót ra trước và ngón ra sau. Phía Núi Đen có rất nhiều. Một hôm, một người đi săn đã gặp một con cái, tóc nó rất dài, anh ta đã dẫn về nhà làm vợ. Họ có một đứa con. Một hôm, cô nàng để lưỡi gươm của mình dưới chân cầu thang, một người đàn bà quét nhà thấy được, chiếm lấy luôn. Ngay lúc đó nah tan biến mất; cô nàng đã trở về rừng cùng với dòng giống của mình. Người ta bảo họ còn một người hậu duệ ở làng Breng. Những người này sống hoàn toàn trần truồng; người ta cho đó là những người bị ám.

Kan ngai (hay kat ngai) - nhỏ hơn chúng ta nhiều. Khi nó săn chuột, nó coi đó là con mồi lớn; nó gọi cây hoa dền bé tí là cây họ dầu to lớn. Một người ( mönuih ta , “người chúng ta”, đối lập với các giống khác nhưng dường như hoàn toàn có thực ấy) đuổi một con chuột, anh ta lấy chân mà giẫm nát nó; một kan ngai nhìn thấy, kinh ngạc vì sức mạnh phi thường ấy, nó mời anh ta về nhà nó, mời anh ăn cơm trong một cái lá cây xương khô.

Khuc - to gần bằng chúng ta; dấu chân của nó giống như dấu chân trẻ con, nhưng nó cực kỳ khỏe, nó có thể xê dịch các tảng đá lớn. Nó ăn cua và sâu bọ. Nó sống trên núi. Nó nói như chúng ta. Ít ra là ngày xưa, vì bây giờ không còn ai thấy nữa; đấy là trước khi có con người (trong bảng xếp loại, người ta sắp nó vào hạng cô, dành cho người, chứ không phải droi riêng cho thú vật).

Klöng và krum - da sẫm như người Giarai chúng ta. Chúng ăn người. Chúng bắt trẻ con để nuôi cá sấu, rồi chúng ăn cá sấu. Người ta thấy chúng làm việc trên các đồn điền chè; nhưng chính phủ đã cho chúng về nhà. Chúng có lông và ăn thịt sống.

kömrii - nó giống như một con khỉ, thân hình cỡ con người, khỏe như voi. Lông và tóc nó rất dài. Nó ở trong rừng rậm, phía núi. Một hôm, một kömrii đi ra rẫy của một người; nó hái dưa và chất lại thành đống. Người chủ rẫy đến, thấy kömrii , anh ta sợ, anh ta bị nó đuổi theo. “Tôi đi coi bẫy mà!” Kẻ kia cũng đáp lại: “Tôi đi coi bẫy mà!” Khiếp đảm anh ta ngã xuống đất. “Hi hi hi” kömrii cười. Bọn kömrii này cũng ăn thịt người.

Bọn klöng và krum có thể là người. Phải chăng đấy là những người Dayak, mà các chủ đồn điền đưa từ Bornéo sang để tập cho người Giarai hái chè? Trong con mắt người Giarai, mọi người nước ngoài đều có thể có vẻ hoang dã - và những người Dayak kia cũng không phải là hiền dịu.

Bọn kan ngai và khuc, mà người ta coi gần như là người, gợi nhớ tới những người négritos lùn có thể đã ở đây trước những người bản địa Đông Dương hiện nay và ta còn thấy những đại diện ở bán đảo Mã Lai (Bang Perak và Kelantan). Như vậy người Giarai có những tia sáng về thời tiền sử của xứ sở mình; huyền thoại hay lịch sử, thì sự hiểu biết của họ cũng thật đáng ngạc nhiên; họ “có ký ức” về loài ma-mút, mà họ gọi là arap , và các con bang buai (Mégathérium? 1 ) và b ring iok (mastodonte? 2 ). Nhưng làm sao có thể biết hơn được nữa, nếu chính mình không phải là Cu ly?

1 Con đại thú.

2 Voi răng mấu.

Còn về bọn nah tan và nhất là kömrii (mà tôi dồn lại ở đây trong khi chúng được kể ra ở hai mút đầu của chuỗi tên), lối mô tả chúng có phần giống con đười ươi, loài này hiện nay chỉ có đại diện ở Sumatra và Bornéo, nhưng không có bằng chứng ngày xưa nó không từng có ở Đông Dương, hơn nữa lục địa cũng chỉ tách ra khỏi các đảo này tương đối gần đây thôi. Orang hutan nguyên là một từ Mã Lai có nghĩa là “người rừng”, chỉ những giống người nguyên thủy, ít nhiều hoang dã, sống trong rừng (ngày nay gọi là orang asli, “Người gốc xa xưa”), chứ lúc đầu không phải là con vật lớn có dạng người kia. Sự lẫn lộn đã diễn ra như thế nào? Từ orang-outan có từ tương đương chính xác trong tiếng Chàm, trong đó orang glai chỉ một dân tộc nguyên thủy sống trong nội địa: người Raglai ( glai chỉ là dlei Giarai, rừng). Người hay khỉ? Trò chơi của trí tưởng tượng lại cộng thêm vào sự lẫn lộn chung này.

Nguyên từ kömrii không thể không nhắc nhớ đến từ sömri Sre, đã thấy trên kia, và có thể giúp chúng ta hiểu ra đôi điều gì đó ở đây. Cõi mơ tưởng được nuôi dưỡng bằng rừng. Một con linh trưởng lớn có thể gợi ra hình ảnh những con vật có dạng người ăn thịt người... và những con yêu tinh. Nhưng tôi chủ yếu không định hợp lý hóa mọi sự trước khi cố xem các dân tộc này hình dung ra thế nào.

Klöng, krum và kömrii (kể theo thứ tự) “có lông” - như thế là có nghĩa xấu. Trừ ngoại lệ, người Giarai nhẵn nhụi, họ thích da láng (đối với cả hai giới). Một kẻ có lông chỉ có thể là thuộc về rừng... hay quỷ - như người phương Tây, được coi là rất xấu. Ăn thịt sống và nhất là ăn thịt người là kinh tởm; đấy chỉ có thể là hổ hoặc yêu tinh. Dù hai loại này không được nhắc đến trong danh sách (chúng ta đi vào loài linh trưởng, bắt đầu từ kra ), tôi ngỡ rằng, bằng hình ảnh mắt xích về việc ăn thịt người sống, bọn kömrii gắn với các yêu tinh trong huyền thoại, gọi là Tölum (Hj. 4) hay Rökai (Hj. 16, 34), khi không chỉ đơn giản là römung (hổ, hay người-hổ). Bọn này không nhất thiết và không phải bao giờ cũng ác - có khi một con yêu tinh hồi sinh nhân vật chính, đúng hệt như kiểu Mẹ Rú, nhưng chúng được coi là sợ sệt và, nhất là, chúng không biết , ngược với Cu ly - con vật bé nhất, bạn đường của Mẹ Rú, tương đương với Drit và “chủ” của những người thợ săn.

Nhưng mơ tưởng bắt đầu từ đâu?