QUYỂN III TRẠNG THÁI ĐI VẮNG, CƠN ĐIÊN ĐÃ ĐI QUA Nguy hiểm của chiêm bao
Chiều, chiều nay ta bất thường bạn ơi
Chiều, chiều nay ta rối loạn, em ơi
ta là một con điên, lễ vật trên mộ
ta là con rồ, ngoài nghĩa trang
xấu quá, tan vỡ, điên loạn
ấy là do các thần bắt ta.
Lời hát ứng khẩu của mẹ-cái-Hprèn.
Chương 14 Nguy hiểm của chiêm baoBây giờ, quyển sách này, không còn tự kiểm soát được nữa, đi theo ba phương hướng: giấc mơ, chuyện thầy pháp, sự điên loạn - ba tình thế “đi vắng”.
Rökut pit , “đi vắng ngủ”, người ta nói về người đang ngủ như vậy; anh ta đi vắng - ta sẽ xem là trong nghĩa nào. Rökut cũng dùng để nói về người vắng nhà, đi du lịch hay ở nơi xa; tôi đi thăm một người bạn, vợ anh ta bảo tôi rằng anh ta “không có nhà”, rökut .
Con người là một đôi gồm có pô + böngat . Trong khi ngủ, pô nằm trên chiếu; dù có xảy ra chuyện gì (kể cả cái chết), mọi người vẫn nhìn thấy nó. Nếu có giấc mơ, thì là cái böngat đang đi chơi; những gì nó thấy trong khi đi chơi cung cấp các hình ảnh cho giấc mơ. Các hình ảnh ấy thường được kể lại khi tỉnh dậy (ta sẽ thấy như thế nào và vì sao), với những lời khuôn sáo cũng gần chất truyền thống như ngôn ngữ của các huyền thoại v.v..., các tác phẩm văn chương truyền khẩu khác. Không bao giờ chúng ta thuật lại một giấc mơ bằng các từ ngữ mà chúng ta đã mơ - điều đó sẽ là không thể được, bởi không có một ngôn ngữ chung giữa trạng thái chiêm bao (trong đó một giả-ngôn ngữ phát hiện cho chúng ta, một cách đã chuyển vị, những nhu cầu, ham muốn, lo sợ, tước đoạt của chúng ta) và trạng thái tỉnh thức (trong đó chúng ta giao tiếp một cách có chủ định với những người khác; nhưng không nên quên các lầm lẫn, mà tôi không bỏ qua không ghi nhận); sự phân tích đành phải bằng lòng với bản dịch ở cấp thứ hai là truyện kể lại, người phân tích (tâm lý học hay dân tộc học) có thể hình dung ra cõi mơ tưởng của đối tượng bằng cách tự hòa mình vào họ - bao giờ người ta cũng chỉ tự nói về chính mình. Diễn từ của truyện kể mang tính chất văn hóa, các hình ảnh của giấc mơ cũng vậy (có thể ở một mức độ ít hơn), điều ấy nằm ở bên trong (cái tiềm ẩn) và quá trình kép của sự chuyển vị (sự mã hóa) có thể phổ quát hơn.
Các tộc người có cần tồn tại để cho người ta bảo vệ các lý thuyết về họ không? Dường như cái đó là được làm ra cho những dân tộc, nếu không phải hoàn toàn là tưởng tượng, thì cũng chỉ được kẻ mô tả, giàu trí tưởng tượng, mới thoáng biết qua thôi, còn hội đồng giám khảo thì biết càng ít hơn. Khi người ta đã tưởng tượng, thì chí ít cái đó cũng là... có thể nghĩ ra được - điều không phải không lý thú đối với những ai nghiên cứu về cõi mơ tưởng. Vả chăng, đôi khi dường như một tộc người càng ít tồn tại hơn đối với một “nhà bác học”, thì ông ta càng dễ xây dựng một lý thuyết về họ hơn. Chẳng dễ gì mà luận thuyết, dù là một cách hậu nhiệm, khi người ta đã bị “dính vào cuộc”. May chăng là người ta có thể minh mẫn và tự mình giải thích những gì đang diễn ra, những gì đang diễn ra trong chính mình. Có phải vì muốn thoát khỏi sự quyến rũ mà tôi đã viết về những người Giarai? Dẫu sao thì chính họ đã kể lại các giấc mơ của họ với ý định tự giải thoát.
Người bố và cậu con trai đi đánh lưới quăng; cậu con trai khoảng mười tuổi. Ném lưới mãi chán rồi, họ nghỉ; họ bị ướt mèm, họ lạnh. Người bố ngủ, cậu con trai thức. Plo-oác, thế là một con nhện đỏ chui ra từ nách người bố; nó bò đi, cậu con trai đi theo. Nó gặp một dòng nước, không thể vượt qua; một con cóc định đớp nó, nó leo lên một gốc cây aroh [Amorphophallus, Aracées]. Cậu con trai đuổi con cóc. Con nhện tiếp tục đi; cậu con trai vẫn đi theo. Nhện gặp một cái xác thối, là một con thú bị hổ vồ; tai con thú bị rách, hổ không ăn thịt nó. Nhện leo lên thân con thú, từ đầu đến cuối, rồi nó quay lại, tìm thấy lại cọng Amorphophallus, leo lên đấy để xem nên đi đường nào; rồi nó leo xuống và cuối cùng trở vào trong người bố, ông thức dậy và kể cho con nghe: “Ái chà chà, ta ngủ ngon quá! Ta thấy một con người to mênh mông, to chẳng còn biết bằng cái gì, đi theo ta... - Đấy là con đấy, bố ạ! - Một con tê giác [con cóc] định húc ta; ta bèn leo lên một cái cây họ dầu [cái cây to đó kỳ thực là cây ráy bé tí]. Người kia đuổi con tê giác; thế là ta leo xuống được. Rồi ta gặp một con nai bị hổ bứt đứt mất tai - Hổ thẹn vì không rứt được cổ họng nai, nên bỏ luôn... - Con đã theo dõi mọi chuyện đó, bố ạ. - Đừng có ngắt lời ta, giấc mơ còn tiếp mà. - Con ở sát đây mà, bố!” Cậu con trai bèn dắt bố đi, ông bố cứ lộn đường mãi; cuối cùng họ tìm thấy xác con nai. Ông bố đã hiểu những gì diễn ra (trong giấc mơ của mình) (Tl. 9. 67).
“Hồn-nhện” của người bố - nó đã đi ra và ông ta đi vắng - đã nhìn thấy mọi thứ trong một tấm gương dị dạng (đúng hơn là đảo ngược, như sẽ chứng minh sau đây): người khổng lồ là cậu con trai mười tuổi của ông, cái cây lớn là một loài cỏ, v.v… Cái böngat đã đi ngao du, ở đây dưới dạng con nhện, ở chỗ khác thì dưới dạng con gián:
Đang là mùa mưa; mưa đến nỗi không bước ra được khỏi nhà, ai nấy đều ở nhà. Trong một ngôi nhà kia có một chàng rể; ông nhạc của anh ta vót mây để đan thúng. Chàng rể ngủ, ông nhạc thức. Plut, thế là “hồn” [böngat] chàng rể chui ra khỏi nách anh ta, dưới dạng một con gián. Người bố vợ canh chừng và đi theo nó. Con gián lang thang trong nhà, từ đầu này đến đầu kia, rồi nó theo một cây cột bò xuống đất; người bố vợ xuống, theo đường cầu thang. Xuống đến đất con gián bị dòng nước từ mái tranh chảy xuống ngăn lại. Ông bố vợ lấy hai cái cành nhỏ bắc thành một cái cầu, thế là con gián vượt qua được. Nó gặp một con lợn đang ỉa, nó liếm và ăn phân lợn; ông bố vợ vẫn theo mãi. Con lợn đánh nhau với một con khác, con gián leo lên một gốc cây hoa dền, mà bọn lợn xô phải. Sau trận đánh nhau ấy, con gián trở xuống, tìm đường, trở lại cây cầu nhỏ, leo lên theo thân cột, trở vào trong nách chàng rể. Anh ta thức dậy: “Ui dà, con mơ thấy ăn một con lợn; có một người nào đó, gần giống như bố - anh ta nói với ông bố vợ - bắc cho con một chiếc cầu. Bên kia cầu, người ta quay một con lợn và con được ăn thỏa thuê. Sau đó bọn voi đánh nhau; con phải leo lên một cái cây họ dầu, bọn voi xô phải; rồi con leo xuống.”
Cách nhìn của người Giarai là như vậy đấy, cái böngat cũng như cái pô; nó có thể chui ra khỏi nách hay lỗ tai, không bao giờ là miệng (Tl. 6a. 67).
Hai văn bản vừa kể, từ hai người khác nhau và ở những vùng xa nhau, là bằng chứng về những hình ảnh chung và được diễn đạt bằng những sáo mẫu văn hóa giống nhau, dù các thế hệ có đảo ngược: bố/con hay con rể/bố vợ. Cái cây được tưởng tượng ở cả hai trường hợp đều chú ý sự gần nhau trong cách nhìn này với cách nhìn của các kan ngai: böngat đi ra ngoài, dưới dạng sâu bọ, là tinh chất của cái “mình” cũng như cái kan ngai là một sự thu nhỏ của con người. “Hồn” đi ra ngoài dưới một vẻ bề ngoài có thể nhìn thấy được đối với người thân và khác với cái giá đỡ pô của nó, vẻ ngoài của một sinh vật bé tí, cái hình thức mà người thầy bói-chữa bệnh đưa hồn trở vào trong đầu người bệnh của mình, theo một sợi chỉ (thao tác nghi thức thông dụng). Việc böngat đi ra ngoài bao giờ cũng là một hoạt động mạo hiểm - nằm mơ là một việc nguy hiểm; böngat có thể vắng mặt, trong một thời gian: ngắn, thì đó là giấc mơ; dài, thì là ốm; nếu người chữa bệnh không đưa nó trở vào kịp thời, thì là chết. Giả như cái böngat không muốn ở lại với pô, hay nó không muốn kéo theo pô trong cuộc ngao du của nó, thì đó sẽ là điên.
Sau những lời nói như vậy về giấc mơ, có thể coi như đã lý thuyết hóa, rất có ích để hiểu những gì người Giarai “nhìn thấy” (hay tuyên bố là nhìn thấy), đây là những liên hệ của các giấc mơ, chỉ tự phát hơn đôi chút, bởi vì, chúng ta biết, đây là những sự trình bày một cách có ý thức và, hơn thế nữa, cho một người nghe - nghĩa là cho môi trường xã hội - văn hóa.
Tôi bị ốm rất nặng, gần chết đã từ nhiều ngày. Và tôi mơ thấy như thế này: tôi [cái böngat của anh ta] đi ngược sông Apa, rất xa; tôi đến xứ sở của yang ngọn sông. Ở đấy có những người [böngat của những người chết, các yang lấy về phục vụ mình] đông vô số, làm việc cho Ông Chủ. Những người gác bên đường muốn giữ tôi lại. “Ở lại đấy mà làm việc cùng với những người này, nhưng không được quấy rầy Ông Chủ!” Tôi không thèm chú ý và cứ tiếp tục đi cho đến một ngôi nhà mênh mông nhiều tầng. Tôi đi vào; toàn là kính, hoa, thật tuyệt. Tôi gõ một cánh cửa. “Ai đấy?” Tôi xưng tên. Ông Chủ đến, to lớn, oai vệ, râu dài đến rốn. Ông vồn vã: “Nhưng con là con của bạn kết nghĩa của ta! Con làm gì ở đây thế này? - Con đến làm việc cho ông. - Không, không, con không làm việc ở đây, mà phải trở về nhà, thật bình yên. Đừng đi theo con đường con đã đến đây, vì người ta sẽ bắt con lại và buộc con làm việc đấy. Ta sẽ đi với con.” Ông đi ra cùng tôi bằng một cửa khác, cho tôi lên thuyền của ông, và chúng tôi xuôi theo sông Apa cho đến giọt nước1 của làng tôi. Tôi lên bờ, trở về nhà. Tôi nhìn lại, đúng là nhà tôi rồi [đến đây là tỉnh dậy]. Tôi bảo vợ đưa cho cái ống điếu và thuốc, tôi lại hút thuốc; tôi đã lành bệnh. Tôi kể lại giấc mơ cho vợ, chúng tôi cúng con lợn và một ghè rượu cho các yang ngọn sông Apa, mà từ nay tôi gọi là “cha”.
(Giấc mơ của bố-cái-Hiang, Tl. 10. 57)
1 Tức bến nước đầu làng, theo cách gọi quen thuộc và đầy tình cảm của người Tây Nguyên - ND.
Vị thần (ở đây là nam và chúng ta sẽ còn gặp lại dưới cái tên là Diung) ngọn sông Apa là một trong những vị thần lớn nhất của hệ các thần Giarai; ông được khấn vái theo nghi thức, hết sức kính trọng. Để cho một người Giarai có thể tự cho phép mình gọi ông là “cha”, một sự đổi mới có thể không được xã hội ưa thích, thì phải có cả một quá trình chết đi và sống lại. Bởi bố-cái-Hiang đã thấy mình chết thật rồi, ông ta đã chuẩn bị làm việc cùng với các linh hồn của những người chết; cái böngat của ông đã được chính thần đặt trở lại vào trong pô của ông, thần đã làm đúng như một thầy bói-chữa bệnh. Nhưng cái böngat ấy phải đi theo một con đường khác (đi ra cửa khác, trên thuyền xuôi sông - trong khi chuyến lên phải đi trên bãi cát sỏi), điều ghi chú sẽ lại thấy trong các giấc mơ tiếp sau, cũng như các hình ảnh mượn của xã hội Việt - phương Tây (nhà lầu, kính...).
Tôi đi dọc theo bãi; tôi đến một con sông. Tôi gặp Thun, Lun, Tiol, Pop, Blao [những người em của Hdit vợ anh ta]; tôi muốn đi ỉa. Lun [đứa ranh ma nhất trong số năm cậu con trai xinh xắn] bảo tôi: “Đến nhà ông thợ rèn mà ỉa!” Tôi làm theo; ông thợ rèn hét lên: “Ai lại đến ỉa ở nhà tôi thế này?” Ông cầm gươm đuổi theo tôi; tôi leo lên cây, ông ta không thể đuổi theo tôi được nữa. Khi ông đã bỏ đi, tôi trèo xuống; tôi gặp các anh em rể của tôi. Lun hỏi tôi đi đâu. “Tôi muốn đi lên nhà Ông Trời.” Chỉ có Thun [người lớn tuổi nhất và dễ tính nhất] đi theo tôi; bốn người kia trở về nhà. Thun và tôi leo lên, chúng tôi gặp hai cái bót gác; ở bót thứ hai thấy có một lối vào, tôi để Thun ở đấy còn tôi đi vào. Tôi thấy tôi ở giữa một đám ruộng, tôi đi đến giữa ruộng thì gặp ông chủ. “Mày đến đây làm gì? - Tôi đã lên đến đây, tôi muốn đến chỗ Ông Trời, vì ở dưới đất có một người đuổi theo tôi và muốn chém tôi. Ông Trời ở đâu? - Ở đây làm việc cho ta đã, nhổ cỏ đi, rồi ta chỉ cho.” Tôi nhặt cỏ, rồi tôi nói với ông ta: “Abbaih, tôi còn có vợ và con ở nhà! - Sao mày lại để chúng dưới ấy? - Tôi sẽ đi tìm họ! - Thì đi đi!” Tôi muốn tìm chỗ tôi đã đi vào lúc nãy, nhưng không sao tìm được. Tôi gọi ông chủ ruộng, ông mở cho tôi một cánh cửa khác, tôi trở xuống đất; tôi trở về nhà [ böngat trở vào trong pô của nó] và tôi thức dậy (giấc mơ của bố-cái-Hju’, Tl. 2. 65; ông ta mơ thấy giấc mơ này khoảng sáu năm trước).
Tuy đối tượng không bị ốm, rõ ràng mô hình giấc mơ gần giống như giấc mơ trước: lên trời, đến chỗ một “ông chủ”, những người đầy tớ lao động, trở xuống bằng con đường khác; chỉ có tên những người anh em rể làm cho giấc mơ mang cá tính riêng. Các trạm “gác” (gak trong văn bản, từ mới mượn của Pháp đã trở thành thông dụng) cho thấy ảnh hưởng của quân đội Pháp trong vùng này - hẳn là trước khi có giấc mơ này, nhưng sau đó lại còn có quân đội Việt Nam; từ ấy vẫn còn lại. böngat của bố-cái-Hju’ (mà ta sẽ thấy là möyut ở cuối sách này) đã suýt ở lại trên ấy (và có nhiều cách để “ở lại trên ấy”) cũng như böngat của bố-cái-Hiang; trong cả hai trường hợp phải có một người nhà trời mới đưa được họ đúng đường trở về. Đi quá xa thì nguy hiểm.
Giấc mơ chịu ảnh hưởng những kỷ niệm đời lính của đối tượng lẫn những hồi tưởng của huyền thoại - mà ta phải biết các yếu tố chính để có thể hiểu được đôi điều gì đó trong các hình ảnh của giấc mơ. Ít khi có việc nghiên cứu đồng thời các huyền thoại và các giấc mơ của một dân tộc, tuy nhiên đó là việc có thể rất có ích. Diung và Dio’ (hai “anh em” kỳ thực chỉ là một) là những nhân vật (bao giờ cũng là chiến binh), trong nhiều anh hùng ca: một cuộc chiến đấu của người Giarai chống người Bana ( Hj. 90 ), cuộc báo thù của hai người con trai, mẹ bị một lãnh chúa giết chết (Hj. 114b ), và nhất là các cuộc chiến tranh của những bán-thần, có liên hệ với Ông Trời, được coi như là các thần của ngọn sông Apa ( Hj. 111 ). Bên bờ trái sông, gần phía trên chỗ nó gặp sông Ayun, phía đông nam nhóm làng Ploi Pa, có một ngọn núi đất bazan chân hình vuông; đấy là núi Mô’, gắn với nhiều truyền thuyết. Mỗi mặt núi có một cái tên: mặt Tây là Mô’, là phần núi dễ nhìn thấy hơn cả từ nhóm làng tên Mô’ cũng là tên chung của cả ngọn núi; mặt Bắc là Mom, mặt Nam là Sak, mặt Tây là Diung, mặt không nhìn thấy được.
Tôi bị ốm, tôi ngủ. Tôi thấy nhiều người: tôi không biết họ từ đâu ra. Họ mặc quân phục. Người chỉ huy của họ tên là Diung; người ta gọi họ là Diung và Dio’. Tôi đã nhìn thấy anh chàng Diung ấy, anh ta to khỏe; bảy người đánh anh ta cũng không ngã. Anh ta mặc màu vàng và mũ đỏ, anh ta mặc quân phục của người Pháp ngày trước, anh ta nói tiếng Pháp; anh ta không rời chiếc gậy cầm tay mà anh ta cứ quất vào bắp chân mình. Anh ta bắt tôi để làm lính dưới sự chỉ huy của Dio’; anh chàng này thì tôi thấy luôn, nước da anh ta sẫm, râu nhiều. Tôi viết tên những người đăng lính. Khi Dio’ đứng với tôi, tôi không nhìn thấy làng tôi nữa; mỗi khi anh ta đi vắng, tôi lại nhìn thấy những người làng Ploi Pa. Có một người cứ đi theo tôi mãi; tôi hỏi tên anh ta, anh ta tên là “Bliah” [“vô hình”]. Ở đấy người ta không ăn, không uống, người ta không thấy đói, không khát. Rất đông người trong ngôi nhà ba tầng ấy, xây trên một tảng đá. Cả đám người ấy ồn ào; khi Dio’ vừa xuất hiện, là “suỵt” mọi người lặng yên, vì người ta sợ anh ta. Khi Dio’ quay lưng, tôi tự bảo: nhưng tôi làm gì ở đây mới được chứ? Tôi đang ở trên núi Mô’! Diung, tôi không thường thấy anh ta. Khi Dio’ đi vắng, tôi nhìn thấy cây cối, làng mạc; khi anh ta ở đó, tôi chỉ nhìn thấy ngôi nhà trên tảng đá.
Khi tôi kể lại những chuyện đó cho người làng, họ bảo tôi: “Mày đã bị đăng làm lính núi Mô’! Làm gì bây giờ? - Phải cúng, một con lợn và một ghè rượu, trên con đường giữa nhà mày và làng phía trên”. Tôi đã làm theo. Trở về nhà, họ hàng đã làm lễ lih cho tôi để gọi böngat của tôi về. Nhưng đêm sau, tôi lại ra đi; thần núi Mô’ đưa tôi ra khỏi nhà tôi. Tôi lại chạy trốn và lại thấy mình ở chỗ huấn luyện lính mới. Nhờ có lễ vật dâng cúng, các sĩ quan muốn cho tôi về nhà. “Mày có thể về nhà - Làm sao về được, vì tôi đang tập để trở thành lính núi Mô’? - Nhưng người ta bảo là mày đã được thả ra, mày còn ở đây làm gì? - Đ. mẹ! Tôi không phải tập hàng tháng để rồi người ta lại đuổi tôi!” Từ đó tôi không còn nhìn thấy Dio’ và Diung; nhưng trước đó thì tôi thấy tất cả: Mom, Cörom, Sak, tất cả các vị chỉ huy, mặc quân phục. Mom là “sếp ga” [tiếng Pháp trong văn bản], anh ta lo chuyện xe treng [train - tàu hỏa]; tàu đi qua đèo và đến một ngọn núi; tôi phải đưa hàng hóa xuống, toàn là vũ khí, đủ các cỡ. Mom là vị thần của ngọn núi trông coi các con tàu (Giấc mơ của bố-thằng-San, Tl. 9. 67).
Bố-thằng-San, cũng còn gọi là “trung úy Jan”, quê ở làng Ploi Pa, ông lấy Hté, con gái làng Bblany, sẽ được nói đến sau đây. Quá khứ quân đội của ông và các ký ức huyền thoại của ông đã tạo nên một mớ lộn xộn làm chất liệu cho giấc mơ hay, ít ra trong câu chuyện kể của ông. Các vị thần bốn mặt núi Mô’ đều được kể ra, đó là những yang cü’, ít nguy hiểm hơn các yang dlei và đôi khi tốt lành (đặc biệt đối với những người chữa bệnh). Nhưng, qua cuộc gặp của ông ta với Diung, ông trung úy đã vượt qua phía bên kia cái ranh giới bazan; hơn thế nữa, ông cảm thấy phải chạy đến đó, vị thần khiến ông thoát ra khỏi chính mình. Lúc khởi đầu, dường như chỉ là một lời nói lảm nhảm mê sốt; nhưng đã có lễ cúng rồi, giấc mơ vẫn tái diễn, trở thành ảo ảnh ám ảnh - là điều khiến nó nằm giữa một giấc mơ đơn thuần và trạng thái bị ám.
Khi chúng ta mơ thấy các thần yang , ấy là kỳ thực chính các thần gây ra giấc mơ ấy, cho cái böngat của chúng ta gặp các thần. Các thần thường hiện lên như những con người, nhưng mà “khác lạ”; “ở chúng tôi không có những người như vậy”. Điều thần cho chúng ta thấy và nghe là một chỉ dẫn, cần giải ra. Khi đó phải kể lại cho các cụ già làng, buổi sáng, lúc mới thức dậy; như vậy ta có thể biết yang dùng một “lời nói trực tiếp” hay “lời nói-rừng”. Trong trường hợp đầu, nếu ta thấy một cái cần câu, thì đấy là chỉ dẫn nên đi câu; nếu ta thấy một người đã chết đưa cho ta một chiếc rìu, thì ta phải cúng cho sinh khí của người chết ấy và ta sẽ có được sự khéo léo của người ấy trong việc đốn gỗ. Trong trường hợp thứ hai, chẳng hạn nếu ta thấy một người đánh chiêng, thì đấy là có một vụ kiện.
Một người làm ruộng ở cạnh hồ Đất sét trắng (gần Ploi Pa). Anh ta nằm mơ và thấy “người chết Đất sét trắng”: ông ta có khuôn mặt người, đầu rất to, hoàn toàn trần truồng; đấy là một yang . Sau giấc mơ đó, người ấy bị điên. Từ đó, không ai dám làm ruộng ở đấy nữa. Từ những mẩu đối thoại đó có thể thấy: 1) không có sự khác biệt rõ rệt giữa thần và người chết, cả hai đều là những sinh linh của một thế giới khác và có thể hiện lên dưới dạng người; 2) nằm mơ có thể có lợi nhưng cũng có thể rất đáng sợ, tùy chỗ mơ thấy cái gì. Mơ thấy các vị thần hay người chết cùng giới với mình thì thường không quá nguy hiểm, ta sẽ quay trở về được; nhưng nếu họ thuộc giới khác, thì ta có nguy cơ bị mê đắm, bị ám, hóa điên. Chính đó là lúc xuất hiện diễn từ, lời nói của người nằm mơ, để tự giải thoát ra khỏi sự quyến rũ. Người ta kể lại giấc mơ để mà thoát khỏi nó. Nhiều người đàn bà Giarai, vào buổi tinh mơ, đã đến kể cho tôi nghe câu chuyện nhằm giải thoát về các giấc mơ của họ, nhất là khi tôi là người họ nằm mơ thấy.
Nếu trong khi nằm mơ, tôi thấy các cô gái-rừng, một lần, hai lần, đến lần thứ ba tôi phải nói cho người khác biết; nếu tôi nói bóng gió đến chuyện đó, người ta sẽ bảo tôi: “Cứ kể hết đi, đừng giấu gì cả!” Vậy là tôi kể cho những người đầu tiên tôi gặp buổi sáng. Các cô gái-rừng nhìn thấy và chạy trốn bởi vì tôi đã kể. Nếu tôi không kể ra, thì họ sẽ tấn công tôi.
Khi người ta mơ thấy những giấc mơ xấu, thì phải kể lại cho bãi cứt của mình khi ngồi ỉa, hay kể cho bãi nước đái của mình khi đi đái; hành vi đó khiến các giấc mơ ấy bị vấy bẩn; giấc mơ bị vấy bẩn thì sẽ vô tác dụng. Người Giarai thực hiện như vậy đấy, họ kể lại rồi, thì cũng như họ chưa hề mơ thấy gì cả (Tl. 11. 67).
Người xưng “tôi” ở đây là một người đàn ông; nhìn thấy những cô gái-thần-rừng ( dra yang dlei) khiến anh ta bị nguy hiểm - nguy cơ bị họ quyến rũ, khi ta không phải là mögap . Việc kể lại đẩy họ ra xa, cứ như là điều đó khiến họ ghen tị, hay tệ hơn là làm cho họ bị ô uế khi câu chuyện được kể lại cho bãi phân.
Không nên quên quyền lực đáng kể của lời nói trong những nền văn minh chỉ hoàn toàn truyền khẩu (ở đó tờ giấy viết ngoại lệ, nếu nó được coi là nghiêm túc, có thể mang một uy quyền kỳ lạ), quyền lực không chỉ thông tin mà là hành động - dầu đó là những lời khấn nghi lễ khiến cả thần và atau chẳng còn đáng ngại, các lời hòa giải giải quyết xong hẳn một vụ việc không cần bất cứ cấp hành pháp nào khác, những lời thề kết nghĩa có thể dẫn đến cái chết của kẻ bội thề, những câu chuyện kể về các giấc mơ hay về cuộc sống giải thoát tức thời đối tượng bằng cách đặt anh ta trở lại trong chuẩn mực xã hội làm vững lòng vì nó hữu hình, hay cả những cuộc trò chuyện giản dị ở đó người ta tự kể về mình để áp đặt một hình ảnh nào đó của chính mình trong chừng mực người ta không tự tin lắm.
Tự hạn chế mình ở đây một cách cố ý trong một cõi mơ tưởng nhất định chỉ bộc lộ qua lời nói, tôi muốn lưu ý thêm đôi điều về mối quan hệ giữa huyền thoại và giấc mơ, với “ngôn ngữ” của chúng.
Một người nói trong khi đang ngủ. Cái tôi- böngat của anh ta, lúc ấy đang rong chơi, phát biểu bằng cơ quan của cái tôi- pô, đang nằm trên chiếu. Một mặt, là diễn tiến của một hành động và, mặt khác là dấu hiệu bộc lộ ra bằng lời nói - liên quan đến trải nghiệm xã hội của anh ta ở trạng thái thức. Như vậy, ở đây không phải là hai cấp độ của hiện thực mà là hai mức độ trải nghiệm của một hiện thực tổng quát, hai điểm nhìn từ hai trạng thái của chung một cái tôi (nó là “đôi”) nó mơ (hành động) và nói (hành ngôn). Việc đọc huyền thoại, thông thường về đêm và thường trong tư thế nằm, cũng tương tự như vậy: đó là diễn từ, nghe được đối với người chung quanh (không nhất thiết phải hiện diện), của người kể chuyện, biểu đạt một trải nghiệm, do một người khác thực hiện (nhưng đối với anh ta cũng thật như điều kiện cụ thể hiện tại của anh ta), về một thực tế bao gộp cả anh ta và anh chịu trách nhiệm lấy lại về mình bằng cách nắm lấy cái huyền thoại như một hành động mà anh đóng vai, phục hoạt lại một hành ngôn mà anh ta đã biến thành của mình. Còn cần phải nói thêm rằng, rất thông thường, huyền thoại được học thuộc trong khi đang ngủ: một người kể chuyện kể về đêm; một người trẻ hơn lắng nghe, đôi lúc ngủ thiếp đi, nhưng lời nói vẫn tiếp tục được ghi âm vào trong anh ta đến mức anh ta có thể, sau nhiều lần nghe, tự mình thuật lại nguyên bản...
Thế giới được kể lại, của huyền thoại (và của giấc mơ), là một vũ trụ được xây dựng lại, một sự sắp đặt có ý nghĩa, như là một khuôn mẫu tưởng tượng, nhưng không phải là một “khuôn mẫu” quá khứ để tái tạo, cũng không phải là một lý tưởng tương lai để vươn tới; đúng hơn là nó thay cho một hành vi được miễn phải thực hiện, như một giải pháp đề xuất mà tự ảo tưởng rằng ta đã hoàn tất nó rồi. Có khi một người Giarai kể lớp nào đó trong một anh hùng ca, chẳng hạn, cứ như là kể chuyện những hành động của chính mình trong một cuộc chiến, trong khi kỳ thực anh ta chẳng hề làm gì như thế cả - cũng giống như ông tướng già gàn trong Thằng ngốc của Dostoevski, lẫn lộn chuyện bịa với hiện thực.
Dường như từ đó có thể suy ra một sự vô cá tính nào đó của đối tượng, điều chẳng có gì là lạ lắm trong một xã hội truyền thống, trừ trong trường hợp những người sống bên lề xã hội. Những hình ảnh thị giác và những khuôn mẫu bằng lời trong truyện kể về các giấc mơ, cũng như chuyện đời, mang dấu ấn của một sự thẩm lậu văn hóa và cả những tiếp thu văn hóa liên tiếp, hẳn là vì hình ảnh chiêm bao đã bị xã hội và các trải nghiệm mà đối tượng ghi dấu theo cách đó. Chẳng còn lại bao nhiêu chỗ cho một cá tính độc đáo. Phải chăng giấc mơ cũng được chia sẻ như “ký ức tập thể” của xã hội?
Trong giấc mơ (độc đáo, ngược lại với “diễn từ về”) có khi những hình ảnh nặng, những hình ảnh-biểu tượng, cưỡng lại sự bay hơi của cái khung, của cái cảnh mà nó đã được định vị, và hiện lên trở lại trong giấc mơ tiếp sau, mang theo với nó một chủ đề mới. Ví dụ, người ta tìm một vật gì đó, không sao tìm ra? Mất rồi chăng? Giấc mơ dừng lại ở cảm giác lo sợ; lại bắt đầu một giấc mơ mới, bắt đầu bằng cái vật bỏ quên (và toàn bộ lớp này xoay quanh cái vật mà những người hay hoàn cảnh nào đó ngăn không cho ta lấy lại nó); đấy cũng là trường hợp, đã bị câu chuyện làm loãng đi, của hình ảnh mạnh về Dio’ đã mê hoặc trung úy Jan. Một quá trình như vậy cũng có thể nhận ra trong truyện kể huyền thoại ở đấy một hình ảnh (hay chỉ là một âm thanh) móc theo một lớp mới và dẫn đến triển khai một bắt đầu mới từ chủ đề-móc nối. Mặt khác, một số giấc mơ dừng lại đột ngột ở chỗ bắt đầu một lớp đã từng thấy được triển khai trong một hay nhiều giấc mơ trước đó, cứ như là nó muốn nói: “…”; đấy vẫn đúng là điều diễn ra trong các truyện kể (thông thường là bộ phận) của những huyền thoại dài, chúng dừng lại ở những dấu chấm lửng... “ta đã biết phần tiếp theo rồi”.
Về những truyện kể được dẫn ra, chúng ta chỉ có được những diễn từ về các hình ảnh “tiềm tàng”, thị giác và thính giác (rất ít khi khứu giác), không thể nắm bắt được và được đặt ở một tầng mức đúng là chống lại sự nhận thức; tuy nhiên, diễn từ ấy, rất chặt chẽ, ngược với sự rời rạc của cái nhìn trong chiêm bao, mang lại một thông tin về một cõi mơ tưởng ở cấp thứ hai, như nó được cá nhân có ý thức nắm lại.
Một bộ phim lắm lời, rườm rà và nhấn mạnh đi lại các hình ảnh và nhất là triển khai nặng nề và vô ích các lời thoại, thì lại nói được ít hơn một bộ phim câm. Đấy cũng là vấn đề của cuốn sách này: nó có nhiệm vụ hé lộ một miền mơ tưởng, nhưng nó chỉ có thể làm việc đó bằng các từ, viết thêm vào đó. Đương nhiên, cõi mơ tưởng không phải là chiêm bao, nhưng chúng có quan hệ với nhau, và nhất là chúng có thể được xây dựng theo cùng một cách - là điều mà các ví dụ sau đây muốn gợi ý.