NHIÊU LỘC, DÒNG RẠCH DÒNG ĐỜI
Ðối với cuộc đời của nhiều người dân sinh ra ở đất Sài Gòn - Gia Định, con rạch Nhiêu Lộc gần gũi với đời sống hằng ngày và chảy dọc theo đời họ. Con rạch ngoằn ngoèo chảy qua những cây cầu, cầu Bông, cầu Kiệu, cầu Công Lý rồi đến cầu Trương Minh Giảng… Cầu Cao Miên, Bến Tắm Ngựa… dăm cái tên người già thích nhắc. Đường đi học qua cầu Trương Minh Giảng. Chuyến tắc xi chiều chủ nhật từ Phú Nhuận ra Sài Gòn xem xi nê băng ngang cầu Công Lý. Cùng đám bạn mím môi đạp xe vượt cầu Thị Nghè đến Sở Thú xem cọp xem voi. Những kỷ niệm tản mạn ai cũng có.
Đi ngang cầu là mở mang tầm mắt, nhìn con rạch tuy không rộng lớn như sông nhưng chính vì vậy mà sông nước gần gũi hơn nếp nhà ven rạch.
Người già cả nhớ cây cầu bắc qua Sở Thú bị sập khi coi pháo bông thời ông Diệm.
Bỗng dưng con rạch Nhiêu Lộc - Thị Nghè bị gọi bằng con kinh dù chẳng ai đào nên nó. Nên tôi chỉ muốn gọi đúng tên của nó: Rạch Nhiêu Lộc.
Buổi tối, một nhóm bạn tóc hoa râm cùng chơi với nhau thuở thiếu thời ngồi trong ánh sáng đèn vàng, uống vài chai bia lạnh với vài con mực nướng ở bờ kè dọc con rạch nay đã trở nên một công trình đẹp này. Họ từng là những đứa trẻ của ngoại ô Sài Gòn, đứa ở gần Cầu Bông, đứa dân Ông Tạ, còn tôi ở Phú Nhuận. Trong đêm mùa hè trời đầy sao ở phía ngôi chùa Pháp Hoa “đẹp nhất bờ Nhiêu Lộc”, chúng tôi sung sướng tận hưởng bầu không khí mát rượi của con rạch thân yêu nay đã sạch và đẹp hơn rất nhiều, không phải bịt mũi nếu đi bộ hay nín thở khi lái xe qua cầu như ở những năm 1980, 1990. Có nhiều người ví rạch Nhiêu Lộc như sông Sein của Sài Gòn, hay Hoàng Phố của Thượng Hải. Riêng tôi nghĩ nó là diện mạo bên trong của một thành phố sông nước, soi lồng lộng đời sống của người Sài Gòn – Gia Định ba trăm năm qua.
Xưa đã có lúc trong leo lẻo, rồi lại đục ngầu hôi hám rác rến, rồi lại trong xanh, đời con rạch như một đời người ba chìm bảy nổi. Cũng chỉ mong đã trong lại được thì đừng nhuốm đen lần nữa. Mới đâu đây vậy mà đã hai mươi năm, đưa bạn nước ngoài qua cầu bỗng dưng anh dừng lại xin chụp ảnh nhà ổ chuột chập chùng từ trên cầu với khung cảnh ấn tượng nhất nhìn từ cầu Trương Minh Giảng.
Dũ sống trên căn nhà nửa trên bờ, nửa chìa ra rạch Thị Nghè. Phần nửa chìa ra được đặt trên cột bê tông hẳn hoi nên khá chắc chắn vững chãi. Ở vậy mà sướng, gió sau nhà thổi lồng lộng qua mặt nước xanh trong. Những năm đầu thập niên 1970 cho đến 1980, nước vẫn còn trong, có thể nhìn thấy đồng xu chìm xuống chỗ nước cạn. Lũ nhỏ đi bắt cá, lươn... đến lúc vớt được nhiều con trùn chỉ để bán là biết nước rạch đã bắt đầu ô nhiễm, trong nhà đã nghe mùi nồng hôi và chung quanh đã ken đầy những căn nhà cất tạm. Khu “Khăn đen suối đờn” gần đó, mang tên một tiệm bán khăn xếp ở Bình Dương, đã bị suy diễn là do trong khu đó có con rạch nhỏ dài và đen như cái khăn và tiếng nước chảy róc rách như tiếng đàn.
Kha có hàm râu quai nón bạc trắng như Hemingway lúc về già. Khi rời căn nhà sát cầu Ông Tạ để ra nước ngoài gần bốn mươi năm trước, trong ký ức Kha không thể hình dung con rạch này đã có lúc đen hôi một cách kinh hoàng như thập kỷ 1980 và sau đó nữa. Và cũng không hình dung nổi là nó đẹp như bây giờ. Dù đã bắt đầu bị lấn chiếm làm nhà ở từ hồi lứa chúng tôi mới năm sáu tuổi, rạch Nhiêu Lộc lúc ấy vẫn còn nét hoang sơ và không đến nỗi bẩn thỉu. Mùa mưa, nước rạch dâng lên chảy tràn hai bờ khu Ông Tạ. Con đường Thoại Ngọc Hầu (nay là Phạm Văn Hai) ngập lênh láng, xe hơi, xe gắn máy bị nước vào ống bô không đi lại được. Phía bên kia cầu về hướng rạp Đại Lợi mỗi lần ngập như trong một cái hồ, nước lên tới nửa thước. Nhà ở khu này đều thủ sẵn những tấm ván gỗ để chặn nước ở cửa cho khỏi vào trong nhà. Kha kể sau khi đất nước thống nhất độ một hai năm, dân chúng khu này đồn là ở cầu Ông Tạ có ma. Câu chuyện truyền miệng lan dần, họ nói trong chiến tranh đạn lửa, ma quỷ sợ hãi nên ẩn dưới cõi âm. Hòa bình đến, ma quỷ hiện hình lên để thanh toán nợ đời. Cư dân quanh cầu kháo nhau trong những ngày đó, chó của các nhà gần cầu không hiểu vì sao cứ khoảng bốn năm giờ sáng là sủa vang rân suốt mấy tuần liền. Những người đi mổ heo từ sớm, khi trời chưa sáng hẳn kể rằng: đi ngang cầu Ông Tạ, họ thấy có một bóng đen đứng bên cầu, leo lên thành cầu và nhảy từ thành cầu tới trước cửa nhà bác Thìn. Bị chó sủa ầm ĩ, cái bóng đó nhảy băng qua đường trước cửa nhà ông Phó Cúp thì chó bên đó lại sủa. Có người bạo gan, mang đèn pin tới soi thì thấy cái bóng quay về cầu Ông Tạ, nhảy ùm xuống kinh Nhiêu Lộc và biến mất. Rọi đèn pin dõi theo nhưng không tìm thấy cái bóng đâu cả. Thiên hạ lại đồn có một em nhỏ chết trôi theo rạch Nhiêu Lộc trong một lần mưa nước ngập. Bị chết oan nên hồn không được siêu thoát. Mấy nhà gần đó như nhà bác Thìn, bác Quyền và ông Phó Cúp mấy tuần lễ liền cứ phải cúng tế cho vong hồn em nhỏ này sớm được siêu thoát để đi đầu thai kiếp khác.
Từ khi có chuyện ma đồn đại ở cầu Ông Tạ, lũ trẻ không dám vào trong rạch Nhiêu Lộc để bắt cá. Nhà Kha ở gần cầu, trước đó thường cùng đi với mấy đứa bạn hàng xóm lội nước ở rạch Nhiêu Lộc bắt cá lòng tong, cá sặc, cá phướn, có hôm bắt được cả cá xiêm. Sau lại bị cấm không cho vào rạch vì sợ chết đuối. Thêm vào đó, nước dưới con rạch Nhiêu Lộc đã bắt đầu ô nhiễm.
Tôi không có kỷ niệm nào về con rạch này thuở thiếu thời, nhưng khi lớn lên đi làm, ấn tượng không hề nhỏ. Nhớ thời bao cấp năm 1982, làm lớp trưởng, tháng nào tôi cũng phải giúp chị lớp phó phân phối gạo, thịt và nhu yếu phẩm cho sinh viên cùng lớp. Trong lớp có một cô thuộc loại xinh, luôn diện những đồ đắt tiền như gợi lại thời Sài Gòn trước 1975. Một lần gạo về trường nhưng cô này không đến lấy, tôi cong lưng đạp xe chở bao gạo tìm địa chỉ nhà tiểu thơ. Vào con hẻm nhỏ, tôi bất ngờ bước vào khu ổ chuột với những căn nhà cất trên rạch khúc gần cầu Trương Minh Giảng. Nắng tháng tư hầm hập bốc mùi hôi nồng nặc. Cô bạn mệt mỏi bước ra trên nền ván ọp ẹp, bận chiếc váy sang trọng ở nhà không tương thích nổi với căn nhà. Mấy ông anh ngồi trong bên trong, nước da trắng nổi lên trong bóng tối của căn nhà buổi trưa nóng hầm hập. Đó là một gia đình đã từng sống sung sướng ở ven biển miền Trung trước kia và trôi dạt về Sài Gòn mấy năm trước khi chiến sự dâng cao, góp thêm một căn nhà ván trong khu ổ chuột tùm hum này.
Cầu Thị Nghè bắc qua rạch Nhiêu Lộc đủ đẹp để thiếu nữ Sài Gòn chụp ảnh lưu niệm đầu thập niên 1970
• Tư liệu gia đình anh Bùi Hữu Bằng ở Phú Nhuận
Tôi nhớ về anh bạn tên Châu trong một lớp khiêu vũ phong trào ở một nhà văn hóa. Châu phụ giúp thầy dìu học viên mới những bài khó. Gặp tôi, Châu hay xin vài đồng mua thuốc hút. Châu kể nhà mình nghèo, mẹ bán ve chai, em làm nghề ép nhựa sách báo lề đường. Có lần Châu nói với tôi: “Đời Châu sẽ không khổ hoài đâu, Châu tin như vậy. Thế nào cũng có tương lai ngon lành!”. Châu kể ba là lính cộng hòa mất trước 1975, có chú ruột là nhà thơ C. từng được nhà thơ Đinh Hùng khen ngợi khi bình thơ trên đài phát thanh Sài Gòn hồi xưa, bây giờ đang đạp xích lô. Nhà Châu trước kia cũng đã có lúc sống thoải mái. Một bữa trưa gần Tết, tôi nghe tin Châu vô nằm bệnh viện nhưng chưa kịp vô thăm thì nghe tin đã mất, mang về nhà. Hôm đó, tôi tới nhà Châu. Khu Phan Xích Long dạo đó là vùng nước ngập trồng toàn rau muống. Đến cái cầu gỗ, tôi dắt xe qua được một phần ba cầu thì có thằng bé dắt một đàn dê lên cầu. Những con dê nối nhau, vừa đi vừa ngúc ngoắc đầu. Thấy vậy, tôi dắt lùi xe trở lại bờ nhường đường cho đàn dê đi qua. Đó là lần đầu tiên tôi thấy một đàn dê được chăn dắt ở ngay cái thành phố từng mang tiếng là phồn hoa này. Nhà Châu, chính xác là cái chòi lá dựng ngay mép nước bờ rạch Nhiêu Lộc. Lúc đó nước đang lên nhưng mùi vẫn nặng. Nắng cuối năm mà nồng như nắng mùa hè, không khí ngột ngạt. Trong chòi, một bà cụ gầy còm đi qua lại, mặt đầy nếp nhăn nhưng vẻ mặt thản nhiên, cam chịu. Người chú nhà thơ của Châu rít thuốc nói: “Sống ở cái xóm nhà lá hôi hám này, rồi cũng chết sớm thôi”.
Rạch Nhiêu Lộc ngày nay. Ảnh: Nguyễn Đình
Chiến cuộc, nghèo đói đã đưa đẩy họ về sống bên bờ rạch này. Và họ là chứng nhân cho một đoạn đời của thành phố, của con rạch và của chính gia đình họ.
Một con rạch nhỏ chảy trong một thành phố lớn. Chứa đựng trong lòng nó là một câu chuyện dài nửa thế kỷ với bao thăng trầm của chính nó. Một viên ngọc từng hoen ố đã được chùi bóng và chỉ mong sẽ được gìn giữ cho sáng mãi.
Ảnh: Nguyễn Đình
CÁI TI VI DENON VÀ TRUYỀN HÌNH NỬA THẾ KỶ TRƯỚCNăm 1966, trong nhà tôi xuất hiện một vật quý mà cả nhà không thể tưởng tượng được. Đó là một cái ti vi hiệu Denon thuộc hãng Columbia của Nhật, 19 inch. Khi ba mở ti vi trong thùng ra, anh em tôi hét lên vang xóm và lập tức trẻ con trong hẻm chạy đến ngay, bu đầy cửa cái và cửa sổ. Đây là cái ti vi thứ hai của xóm mà ba tôi mua với giá 5.075 đồng tiền lúc đó, mua lại của một người quen đang cần tiền bán gấp. Trước đó, chỉ có nhà dượng Hai Mỹ, một ông Chủ sự (trưởng phòng) tại Air Việt Nam làm việc ở sân bay Tân Sơn Nhứt mới mua nổi.
Xóm toàn dân lao động nên ti vi là một sân khấu miễn phí được xem hằng tối. Nhà dượng Hai Mỹ có sân rộng nên số người ngồi trước sân nhìn vào cái ti vi nhỏ cũng phải tới sáu, bảy hàng. Dượng Hai phải mở âm thanh hết mức cho tới tai người hàng cuối. Ban đầu chỉ phát mỗi ngày có một giờ, sau lên hai ba giờ. Cái ti vi nhà tôi gánh bớt người xem cho nhà dượng Hai, luôn đầy ắp người đến xem, nhất là tối cuối tuần có cải lương. Họ đến giữ chỗ khi ti vi chưa mở, ngồi cho tới hết chương trình mới lao xao đứng dậy tìm dép. Mỗi ngày đều trôi qua như vậy cho đến mấy năm sau.
Đến giờ, tôi vẫn nhớ những chương trình thật hay của đài truyền hình Sài Gòn trong suốt tuổi thơ của mình. Đó là chương trình ca nhạc thiếu nhi Tuổi Xanh của kịch sĩ Kiều Hạnh, chương trình Quê ngoại đậm đà tình quê hương của Nhạc sĩ Bắc Sơn. Về ca nhạc có chương trình của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ với nhạc kịch Ả đào say , ban hợp ca Thăng Long với các ca khúc Ly Rượu Mừng, Ngựa phi đường xa , ban diễn tấu AVT. Cải lương thì ban Dạ Lý Hương, ban Thanh Minh - Thanh Nga... Xem qua đài Mỹ thì có các phim Wild wild west, Combat, Lạc trong không gian, Lỗ tai lừa ... Thời sự chiến tranh hay các chương trình của người lớn thì lứa chúng tôi còn nhỏ nên không màng tới. Sắm ti vi trở thành niềm mơ ước của nhiều gia đình miền Nam. Nguyệt san Thời Nay tả lại chuyện này: “Máy truyền hình đã xuất hiện tại VN, lần đầu tiên, năm 66. Một chiếc Denon, 12 inches, giá 16.500 đồng, 19 inches: 30,000 đồng... Mặc dù kỹ thuật còn lỉnh kỉnh, như: vô tiếng tàng hình, chương trình cao su, hát nói nhiều hơn hình ảnh, TiVi - một danh từ mới - đã được “khán thính giả” VN chiếu cố kỹ. Nhà nhà đều có TV. Ai không có thì đi coi cọp. Ăng ten mọc như mắc cưởi, hướng loạn trên các mái nhà, nhất là ở các tỉnh. Chương trình được hâm mộ nhất là... cải lương và... Đài Mỹ. Batman xuất hiện khắp hang cùng ngõ hẻm. Lúc đó điện còn yếu, mỗi nhà một survolteur cho TV”.
Theo báo chí miền nam trước đây, kế hoạch phát triển truyền hình tại miền nam đã có từ rất sớm, cách nay nửa thế kỷ rồi. Đầu năm 1963, vài hãng doanh thương Nhật Bản đã đề nghị với chính quyền Việt Nam cộng hòa ký hợp đồng để được quyền khai thác vô tuyến truyền hình (VTTH) một thời gian và sau đó sẽ trao lại cho chính quyền. Nhưng đề nghị này không được chấp thuận.
Sau khi ông Diệm bị lật đổ, người Mỹ thiết lập hệ thống VTTH cho quân đội của họ tại Việt Nam. Đồng thời họ giúp thành lập một đài truyền hình và đào tạo chuyên viên Việt Nam để tự điều hành các hoạt động.
Năm 1966, chính phủ Việt Nam cộng hòa khánh thành đài vô tuyến truyền hình đầu tiên, đồng thời thành lập Nha vô tuyến truyền hình Việt Nam đặt tại Trung tâm điện ảnh. Nhiệm vụ của Nha là hằng ngày cung cấp các chương trình cho Đài VTTH Sài Gòn trên băng tần số 9.
Lúc đó, tuy ngành truyền hình tương đối mới mẻ nhưng đã thu hút người xem vì đã có một số máy đặt nơi công cộng và các nhà khá giả đã mua máy thu hình kể cả một số nhà trong hẻm sâu như nhà tôi.
Để đào tạo chuyên viên, chính quyền Sài Gòn cử tám người sang Đài Loan thụ huấn trong 6 tháng, học về kỹ thuật, làm chương trình và đạo diễn. Đến Đài Bắc, các học viên được tập huấn tại Quang Khải Xã, đài truyền hình lớn nhất Đài Loan lúc ấy. Họ được làm quen với tất cả các công đoạn làm chương trình truyền hình như lập kế hoạch, viết bản tóm lược, phân cảnh, đạo diễn, quay phim, thu hình, âm thanh, bày trí phông, hướng dẫn diễn viên và hóa trang. Người hướng dẫn là chuyên viên thuộc Quang Khải Xã và từ hai đài truyền hình ở Đài Trung và Đài Nam. Họ được sử dụng máy móc giống như dàn thiết bị mới được trang bị ở Sài Gòn. Trong khi lưu lại, họ được dự các buổi phúc khảo hoặc việc sản xuất thực tế của các chương trình thường xuyên của Quang Khải Xã. Khóa huấn luyện kết thúc vào cuối tháng 3 năm 1967. Sau khi về nước, họ đã có thể sản xuất trọn vẹn một chương trình và nhanh chóng bắt tay vào việc.
Cần nhắc lại, trước đó, từ tháng 1 năm 1966 đến tháng 12 năm 1967 hệ thống VTTH Sài Gòn chỉ có một phim trường rất nhỏ tại Trung tâm Điện ảnh số 15 Thi Sách, Sài Gòn. Trong thời gian này, các chương trình kể cả tin tức đều được thu vào băng từ hình (Video tape) rồi được chuyển lên hai máy bay Constellation để phát theo hệ thống Flying station, vì thế hình ảnh thường bị rung, mờ, không rõ.
Buổi truyền hình đầu tiên phát vào ngày 29 tháng 1 năm 1966. Trong buổi phát, máy bay vận tải Super Constellation 4 động cơ đặt tên là Ô-xanh 2 bay ở độ cao ổn định là 3.150 mét. Mỗi tối máy bay này chở 56, 5 tấn máy móc rời phi trường Tân Sơn nhất lên tới độ cao nhất định tại một địa điểm phía đông nam Sài Gòn khoảng 32 km rồi từ đó bay theo một lộ trình không thay đổi, lập lại mỗi đêm với tốc độ ổn định là 271 km/giờ. Máy bay bay suốt bốn giờ liên tục từ 7 giờ đến 11 giờ đêm mới hạ cánh lại Tân Sơn Nhất. Từ 8 giờ máy bay phục vụ cho chương trình truyền hình thứ nhì loan tin và giải trí cho quân đội Mỹ đến 11 giờ. Trong máy bay có hai máy truyền hình mạnh 2.000 kw, hai máy thu hình và tiếng vào băng, hai hệ thống kiểm soát âm thanh, hai hệ thống vô tuyến điện ảnh dùng phim 16 ly, tất cả đặt trong một không gian nhỏ hẹp trên máy bay. Phía sau phi cơ có một máy chạy dầu cặn để chạy một máy phát điện 100 kw dùng cung cấp điện cho hệ thống máy lạnh nặng trên 10 tấn. Ngoài thân máy bay còn đưa ra 8 ăng ten để phát các làn sóng điện vô tuyến truyền hình. Các máy móc ấy trị giá nửa triệu đô la thời ấy. Các làn sóng điện đem theo hình ảnh và âm thanh có thể được tiếp nhận tới các nơi xa Sài Gòn như Cam Bốt (cách 120 km), Đà Nẵng (608km), Cà Mau (206km). Tuy nhiên Sài Gòn và bảy tỉnh lân cận mới tiếp nhận hoàn hảo.
Trong phim trường Đài Truyền hình Sài Gòn năm 1967, các chuyên viên thu hình và thu thanh đang làm việc để dàn dựng tiết mục
Bên trong một cửa hàng bán máy truyền hình tại Sài Gòn. Khi ngành truyền hình phát triển, nghề sửa và điều chỉnh ti vi cũng phát triển theo.
Vào khoảng cuối năm 1967, hệ thống này được mở rộng hơn, hai máy bay Constellation được thay bằng máy bay Blue Eagle. Sau đó, kế hoạch xây cơ sở truyền hình quốc gia bắt đầu được thực hiện. Cơ sở này gồm ba tòa nhà: một tòa dành cho hai máy truyền hình mạnh, mỗi máy 25.000 watt và hai cái dùng đặt tại văn phòng, phòng thu hình và thu thanh, kho vật dụng... dựng một trụ sắt cao 90m, trên nóc trụ gắn một ăng ten cao 24m phát đi các làn sóng điện. Chi phí lúc đó là 28 triệu đô la Mỹ một phần do nước Mỹ đài thọ. Đến tháng 3 năm 1968, khi đài truyền hình mới đã được xây xong tại số 9 Hồng Thập Tự (nay là trụ sở Đài Truyền hình TP.HCM) thì nhờ có trụ phát tuyến cao nên hình ảnh được rõ ràng, không còn mờ rung như khi phát hình bằng máy bay nữa. Từ đó các chương trình đầy đủ và phong phú hơn với thời lượng phát là ba giờ mỗi đêm, trong khi trước kia chỉ khoảng một đến hai giờ.
Năm 1968, khi xảy ra cuộc Tổng tiến công Mậu Thân, Ba tôi đưa ti vi vào phòng trong. Cả nhà chui xuống bộ ván dày có chất bao cát phía trên để tránh đạn pháo và ló đầu ra theo dõi màn hình ti vi đang chập chờn. Tôi không nhớ gì về chương trình truyền hình lúc đó nhưng ti vi vẫn có ca nhạc có lẽ được thu trước và tin chiến sự đang xảy ra trong thành phố.
Tuy mục đích lớn là thông tin tuyên truyền cho chính quyền trước đây, Đài Vô tuyến Truyền hình Sài Gòn đã xây dựng nhiều chương trình văn nghệ và giáo dục hấp dẫn với rất nhiều tiết mục hay của các ban nhạc, đoàn cải lương, đoàn kịch tư nhân với nhiều tâm huyết trong việc cổ súy lối sống lành mạnh, không lai căng và hướng về dân tộc. Đặc biệt, hầu hết các ca sĩ thời đó được yêu cầu nghiêm ngặt trong trang phục, đa số nữ ca sĩ bận áo dài khi ca hát hay diễn kịch trong vai phụ nữ Sài Gòn hiện đại. Nhiều vở kịch phản ánh rõ đời sống của người dân nghèo thành thị trong hoàn cảnh tao loạn chiến tranh, những cảnh đời bi đát và những nhân vật cố chống lại sự tha hóa trong đạo đức, đó là các vở kịch của đoàn Kim Cương, Dạ Lý Hương như Dưới hai màu áo, Lá sầu riêng, Tấm lòng của biển, Con gái chị Hằng ... làm rớt nước mắt từ già đến trẻ. Có lẽ đó chính là những dấu ấn tốt đẹp không phai mờ mà người Sài Gòn còn nhớ về một thời xem truyền hình trước kia ở thành phố này.
Quảng cáo ti vi và radio của hãng National - Nhật Bản trên bìa báo xuân miền Nam trước 1975
VUI BUỒN HẺM D CƯ XÁ CHU MẠNH TRINHCư xá Chu Mạnh Trinh trước kia có tên là Cư xá Ngân hàng Đông Dương, nằm trong hẻm số 215 đường Chi Lăng, ấp Đông Nhất, xã Phú Nhuận, quận Tân Bình, tỉnh Gia Định, ngoại vi Sài Gòn. Đây là một con hẻm có quy hoạch cho khu cư xá, gồm một hẻm trục lớn và các hẻm nhỏ tỏa nhánh thẳng góc hai bên, đánh số 215 A, B, C, D, E, F cho tới G. Khoảng năm 1962 hay 1963, trường Chu Mạnh Trinh được lập nên ở phía đầu hẻm nên dân quanh vùng gọi là cư xá Chu Mạnh Trinh. Năm 1957, gia đình nghệ sĩ Năm Châu mua căn nhà ở đây khi sinh cậu con trai thứ sáu tên Long. Lúc đó, đạo diễn Hồng Dung, con gái của ông, vừa lên hai tuổi. Lớn lên một chút, chị Dung còn nhớ chung quanh là các vi-la song lập hình chữ L chỉ có tầng trệt không có tầng lầu, cùng kiểu giống nhau, ngang khoảng tám mét, không sâu lắm, khoảng 12, 13 mét. Mặt tiền nhà chia phân nửa, một bên là nơi ở, một bên là dãy bếp và nhà vệ sinh thụt vào trong với sân phía trước để ô tô. Trước kia, cư xá này dành cho các công chức Pháp của ngân hàng, số người trong nhà không đông. Sau 1954, người Pháp dần rút về nước và người Việt trung lưu, công chức tìm đến mua để ở.
Gia đình nghệ sĩ Năm Châu có lẽ là gia đình nghệ sĩ đầu tiên đến ở, còn nhận giấy chủ quyền bằng tiếng Pháp. Dần dà có nhiều gia đình trong giới nghệ sĩ tìm đến. Có thể vì đó là một khu cư xá với nhà cửa thiết kế hiện đại và hợp lý, yên tĩnh, lại không xa trung tâm Sài Gòn hay Bà Chiểu là thủ phủ tỉnh Gia Định. Trong số đó, gia đình nhạc sĩ và danh ca Dương Thiệu Tước, Minh Trang ở cùng với con gái là danh ca Quỳnh Giao ngay tại nhà ông Năm Châu trong hẻm D. Hẻm C đối diện là nhà nghệ sĩ Thẩm Thúy Hằng. Hẻm E có nhà nhạc sĩ Phạm Duy ở ngay đầu hẻm cùng với danh ca Thái Hằng, Thái Thanh, Duy Quang, Thái Hiền... bên trong là nhà của Nghệ sĩ cải lương Kim Thoa. Hẻm F đối diện có nhà của đôi vợ chồng nhà báo - nhà văn Hồng Tiêu và Bà Tùng Long. Trong hẻm của gia đình ông Năm Châu còn có nhà của nhà văn Duyên Anh. Sau này, qua từng thời kỳ có lúc cư xá là nơi tá túc của đạo diễn Hoàng Anh Tuấn, nữ danh ca Mộc Lan, danh ca Anh Ngọc, nhạc sĩ Lê Dinh, đạo diễn Lê Mộng Hoàng…
Nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Thành Châu, nghệ danh Năm Châu đứng trước nhà trong khu cư xá Chu Mạnh Trinh, Phú Nhuận. Ông cùng gia đình sống ở đây 21 năm trước khi mất năm 1978
Chị Hồng Dung nhớ thuở ban đầu, cả xóm có mỗi nhà ba chị có xe hơi. Ông Năm Châu thích chơi xe, đổi xe hơi liên tục. Lúc đầu ông đi chiếc Chevrolet Rambler, sau đổi sang chiếc Ford Taunus và Peugeot.
Vợ chồng nghệ sĩ Năm Châu - Kim Cúc tại Hà Nội năm 1946
Những năm đầu thập niên 1960 là những năm tháng rất vui với bầy trẻ hẻm D cư xá Chu Mạnh Trinh. Các con nhà đôi nghệ sĩ danh tiếng Năm Châu - Kim Cúc vốn là con nhà nòi nên dẫn dắt trẻ nít hẻm D trong các trò vui, chủ yếu là diễn tuồng. Lúc đó cả xóm từ người lớn đến trẻ nít đều mê sân khấu, đều hâm mộ các vở diễn của nghệ sĩ Năm Châu dàn dựng và diễn. Xóm thành lập một gánh hát trẻ con, do chị em nhà Hồng Dung đứng đầu. Sân khấu là bộ ván ngựa của nhà bà Hai Mùi nhà gần bên. Cứ mỗi buổi chiều, lũ trẻ được người lớn lùa đi học bài sau khi ăn cơm chiều. Sau đó mới đến thời gian dành cho “sân khấu” cho tới 9 giờ tối mới tan. Lũ trẻ tập các tuồng quen thuộc như Sơn Tinh Thủy Tinh, Trọng Thủy Mỵ Châu... màn trướng là cái mền ủi đồ có vài cái lỗ thủng, gối nằm đem ra làm đồi núi, gối ôm làm ngựa cưỡi... Mê diễn quá nên đêm nào cũng tập hay diễn, nhưng chỉ trong các ngày trong tuần. Đến tối thứ bảy và chủ nhật, cả xóm từ người lớn đến con nít rúc hết vô nhà để cùng nghe cải lương trên radio. Đến thời kỳ điện ảnh Ấn Độ phổ biến sang Sài Gòn sau đó một chút, sân khấu bắt đầu gặp khó khăn vì người ta mê loại phim này lắm. Nghệ sĩ Năm Châu tham gia chuyển âm phim Ấn cho các hãng phim. Lũ trẻ cũng nhanh chóng chuyển sang múa Ấn Độ trên sân khấu của mình. Gánh hát trẻ con do chị Nguyệt Thu, con gái thứ của ông Năm Châu làm bầu, chị Hồng Dung làm công chúa. Nhà má Hai Mùi có ba con tham gia đủ, trong số đó có chị Ngọc Vân sau này trở thành một thư ký trường quay giỏi của điện ảnh hiện nay. Đến khoảng năm 1963, gia đình nhà văn Duyên Anh về đây và mấy đứa con của ông cũng nhập cuộc đóng vai Django, Cowboy... theo trào lưu phim Mỹ đang nổi lên. Trong số đó có chú bé Thiên Chương, tức nhân vật Chương Còm trong truyện của ông Duyên Anh. Và cả chú bé Hưng Mập, ở cùng hẻm. Hai nhân vật tiểu thuyết có thật này đều đang sống ở nước ngoài.
Vợ chồng đi thăm đền vua Đinh - vua Lê đầu thập niên 1950
Chiếc xe hơi hiệu Chevrolet Rambler của gia đình khi mới dọn về cư xá Chu Mạnh Trinh năm 1959
Đối với lũ trẻ hẻm D Cư xá Chu Mạnh Trinh, được sống vui trong cái xóm nhỏ của mình với tình chòm xóm gắn bó vậy là nhờ người lớn trong xóm sống rất gắn bó và tôn trọng nhau. Nghệ sĩ lão thành Năm Châu như một người trưởng thượng, trí thức và chân tình, luôn biết gắn kết mọi người, thường được nhờ cậy hòa giải cả những xích mích vài đôi vợ chồng trong xóm. Những đêm Trung thu thuở đó là những ngày đáng nhớ. Cả xóm đưa bàn ra trước nhà bày cỗ trông trăng. Lũ trẻ ăn bánh, trái cây, cộ đèn. Ông Năm Châu cùng với các ông trong xóm, đa số là công chức bậc trung và mấy ông nhà văn thì ngồi nhâm nhi rượu tây, đánh vài ván bài... Ngày Tết thì có một số gia đình về quê, những nhà còn lại bày bàn ra sân cúng Giao thừa trong không khí mát lạnh của khu cư xá cùng tiếng pháo đì đùng... Ngày Tết là lúc bận rộn với nghệ sĩ vì có lịch diễn kín mít, nhưng sau Tết một chút là có thể rảnh rỗi tiếp khách ăn Tết muộn. Các nghệ sĩ Duy Lân, Năm Nở là bạn thân thiết với ông Năm Châu thường đến chơi nhà. Thời gian đó, hai nghệ sĩ Út Bạch Lan, Thành Được còn là vợ chồng rất thương các con của ông bà Năm Châu - Kim Cúc. Hai nghệ sĩ này không có con nên cứ đến dịp Noel, Tết Nguyên đán là đi chiếc xe mui trần chở đầy đồ chơi đến để làm quà cho lũ trẻ.
Nghệ sĩ Kim Cúc cùng các con ở trước nhà, năm 1966
Các em bé hẻm D chơi với nhau. Bé gái phía sau là Đạo diễn Hồng Dung cùng hai em trai (bên phải). Bé trai góc trái là nguyên mẫu nhân vật Chương Còm trong truyện cùng tên
Bày bàn, bận áo dài cúng giao thừa
Các chị em trong gia đình. Lớn nhất là chị Nguyễn Thu Hợi, bên phải là Hồng Dung.
• Ảnh trong bài là tư liệu gia đình nghệ sĩ Năm Châu
Chị Hồng Dung bồi hồi nhớ về người cha khả kính của mình. Là một nghệ sĩ tiên phong của giới sân khấu cải lương miền nam, ông có học, soạn tuồng giỏi, bản tính nghệ sĩ rất mạnh. Trải qua bao biến động của sân khấu, của thời cuộc, ông cố giữ niềm tin vào bộ môn nghệ thuật cải lương, đeo đuổi lý tưởng tạo dựng sân khấu cải lương “thật và đẹp”. Tuy biết các con mình là con nhà nòi nghệ sĩ, ông muốn hướng các con theo các ngành nghề khác để sống an bình và không gặp phải những hệ lụy của nghiệp sân khấu mà ông hiểu rõ. Mặt khác, ông hiểu các con đều ít nhiều có máu nghệ sĩ nên ông giúp các con sống vui với điều đó. Ông khuyến khích các con học ngoại ngữ để có thể đọc sách nước ngoài trông xa thấy rộng, cho học nhạc cụ như piano, violon để có lúc cả nhà có thể hòa nhạc cùng nhau cho thỏa nghệ sĩ tính. Ông dạy các con khiêu vũ và cho phép mở tiệc khiêu vũ ngay tại nhà, mời bạn đến chơi trong dịp sinh nhật, Noel... Với việc hôn nhân của con, ông có ý kiến thẳng thắn về ý trung nhân của con nhưng chấp nhận sự chọn lựa của con mình cho dù có lúc không vừa lòng. Sau này các con ông, có nghệ sĩ Thanh Hương (con cùng danh ca Tư Sạng) và Nguyệt Thu là theo nghiệp diễn xuất. Có người đã là tiến sĩ giảng dạy ngoại ngữ, giảng viên âm nhạc, đạo diễn, giảng viên sân khấu...
Căn nhà của nghệ sĩ Năm Châu đến nay vẫn còn ở cư xá Chu Mạnh Trinh sau gần sáu mươi năm ấp ủ một gia đình an vui. Con hẻm chính đã có tên mới là đường Đoàn Thị Điểm thuộc quận Phú Nhuận. Các biệt thự xây từ thời kỳ đầu trong cư xá, với mái ngói đỏ, kết cấu một tầng đã thay đổi thành nhà đúc, lầu cao. Các nghệ sĩ của Sài Gòn một thuở, những bóng sắc huyền thoại, những danh ca một thời, những nhà văn nhà báo của nửa thế kỷ trước từng sống ở đây hầu như không còn ai ở lại cư xá này, trừ căn nhà 215D/16 năm xưa của nghệ sĩ Năm Châu, nay đã ngăn thành hai căn cho gia đình hai người con và đổi địa chỉ mới. Nhà không xây lại, vẫn còn mái ngói cũ lấp ló trên cao. Buổi sáng mùa hè có tiếng dương cầm vẳng ra từ phần nhà bên phải. Chị Hồng Dung pha ly cà phê tiếp khách. Mùi hương gợi nhớ những buổi sáng xa xưa, cuối thập niên 1960 khi ba chị còn khỏe, thức dậy từ bốn giờ rưỡi sáng để pha cho mình một tách cà phê xong rồi lần lượt pha thêm mười tách nữa cho các con uống trước khi đi làm hay đi học và xem đó là niềm vui. Những âm thanh, mùi hương cũ của một thời vẫn còn đâu đây, như khi sân khấu cải lương Sài Gòn và danh tiếng nghệ sĩ lão thành Năm Châu đang là thời kỳ vàng son nhất.
Bìa kịch bản Sân khấu về khuya , vở kịch rất nổi tiếng của nghệ sĩ Năm Châu
BẢNH TRAI SÀI GÒNNgười ta hay nói về tính cách đàn ông Sài Gòn với đầy đủ tính tốt, tật xấu. Không mấy ai nói về diện mạo của đàn ông thành phố này. Sài Gòn thuộc miền Đồng Nai, nơi mà trai xứ khác mong đến được để có thể vỗ ngực “Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng” hay là “Nai Rịa Rí Rang” gì cũng biết, nên tính quy tụ rất cao. Là đất cảng thông thương với quốc tế từ xưa, là nơi mốt mới du nhập nhanh, phim ảnh sách báo đến sớm từ các chuyến bay, chuyến tàu từ xưa nay. Lại là nơi nhiều môn nghệ thuật phát triển thịnh hành nên không thể thiếu người đẹp, nam và nữ.
Lâu nay, các ngôi sao màn bạc Sài Gòn luôn tạo nên sức hút kinh khủng với người thưởng ngoạn. Những năm gần đây, đi diễn ở các tỉnh, họ dùng vệ sĩ đi theo để bảo vệ, nếu không sẽ bị đè bẹp trước làn sóng xin chữ ký của người hâm mộ. Từ đó cũng xuất hiện những chuyện lỡ lầm của các thôn nữ chỉ vì mê bóng sắc lời ca tiếng hát, vai mã thượng anh hùng của các tài tử kép hát ca sĩ hào hoa. Chuyện đó có nhiều, không cần kể lể.
Người đẹp, ngoài vóc dáng khuôn mặt, còn nhờ trang phục và cách chưng diện thời thượng và có phong cách. Kể từ thời Pháp thuộc, khi Sài Gòn thuộc về Cochinchine là xứ thuộc địa, người Sài Gòn, nhất là giới làm việc cho Tây nhanh chóng thay bộ áo dài khăn đóng để bận âu phục cho phù hợp với công việc. Rồi xuất hiện lớp thợ cắt tóc theo đúng kiểu tây cho giới quan chức, lính thuộc địa Pháp và cắt tóc cho cả giới quan chức Việt và người làm ăn kinh doanh. Thanh niên Sài Gòn cắt tóc sớm nhất trong khi miền Trung và Bắc vẫn phổ biến tóc dài búi tó và ít ra cho đến giữa thập niên 1920 vẫn còn ảnh hưởng Khổng giáo từ cách ăn mặc, nói năng. Đầu thập niên 1920, khá đông công chức Sài Gòn lương tháng 6 đồng hoặc 4 đồng “đã đua nhau diện âu phục: áo “bành tô” cổ đứng, một hàng nút lớn bằng xà cừ kết ở giữa, đội mũ trắng, mang dép da. Các bậc “ông” – như commis, thì mang giày tây do từ bên Tây gửi sang bán với giá đắt, thường thường là loại giày bottin da đen, cao cổ” (theo Nguyễn Vỹ - Tuấn chàng trai nước Việt tập 1, tác giả tự xuất bản 1969).
Thập niên 1950, nhìn chung đàn ông Sài Gòn biết chú ý đến hình thức vẫn cố giữ nét lịch lãm ảnh hưởng của giới quan chức Pháp ở thuộc địa với tóc chải để lộ vầng trán cao. Hình ảnh giới nghệ sĩ phản ánh điều đó, trong chân dung lưu lại của nhạc sĩ Dương Thiệu Tước, ca sĩ Duy Khánh, hai nghệ sĩ Hoài Trung và Hoài Bắc Phạm Đình Chương. Là nghệ sĩ nhưng gương mặt sáng trưng, thông tuệ như của giáo sư đại học.
Đến thập niên 1960 cho đến 1975, phim Mỹ trở nên phổ biến hơn. Các diễn viên người Mỹ thể hiện vẻ đẹp đàn ông đa dạng, phóng khoáng, phong trần nhưng không kém phần lịch lãm. Đó là vẻ điệu nghệ, quyến rũ và giễu cợt của Clark Gable trong phim Gone with the Wind, vẻ bụi bặm của Charles Bronson trong phim The Red Sun và vẻ điển trai công tử của Alain Delon trong cùng bộ phim. Họ là hình mẫu để đánh giá vẻ đẹp đàn ông. “Đẹp trai như Alain Delon!” là câu thành ngữ mới để đánh giá trai đẹp. Và sau này khi Nguyễn Chánh Tín lần đầu xuất hiện trong phim Đời chưa trang điểm đóng vai Tuấn, một chàng đẹp trai con nhà giàu thì dân gian sửa lại là “Đẹp trai như Nguyễn Chánh Tín”. Khi Trần Quang diễn xuất với bộ ria mép, người Sài Gòn không thể không liên tưởng tới Clark Gable hay nghĩ đến Charles Bronson khi xem diễn viên Tâm Phan đóng phim.
Thập niên 1950-1960, bộ complet sáng màu phổ biến hơn bộ complet đen. Gấu quần cài lơ về. Đi xe mobylette. Tóc chảy bảy ba. • Tư liệu của T.G
Nhà may Chua, đường Đỗ Hữu Vị (nay là Huỳnh Thúc Kháng), nhà may nổi tiếng tại trung tâm Sài Gòn được giới nghệ sĩ ưa chuộng. Quảng cáo trên báo Tân Phong 1960
Cắt may trang phục là nghề thịnh hành nhiều năm ở đất Sài Gòn thích chưng diện suốt cả thế kỷ XX. Từ những năm 1930, 1940, chỉ có loại hình làm ăn này của người Việt mới chen vào được hệ thống dịch vụ bao trùm toàn bộ Chợ Lớn của người Hoa ở đây. Tranh quảng cáo trên báo Xuân xưa
Thời trước 1975, đang có chiến tranh, cũng là thời sản xuất mạnh, hàng hóa nhiều, đàn ông có giá không còn là thầy ký, thầy thông sáng cắp ô đi tối cắp về nữa mà là chàng sĩ quan phong trần có bông mai trên áo, thầy Hai làm sở Mỹ bận áo Montagut sáng lấp lánh, lái Vespa vào cuối tuần hoặc ông thầu khoán cười lóe răng vàng... Họ có thể không bô trai nhưng bảnh bao, oai hùng, sành điệu nên là mơ ước của các cô. Giới thanh niên trẻ, các chàng trai sinh viên Y khoa, Dược khoa chỉn chu sáng láng có nhiều hy vọng hơn dân Văn khoa, Luật...trong mắt các tiểu thơ và cả trong mắt bố mẹ các nàng. Lúc đó, giá trị khác đã xen vào nên bảnh trai chỉ còn là một giá trị cộng thêm.
Diễn viên, ca sĩ Nguyễn Chánh Tín (thứ tư trái qua) trong phim Ván bài lật ngửa, vai Trung tá Nguyễn Thành Luân
Ở đây, chỉ bàn về diện mạo.
Nghệ sĩ Ngọc Phu
Nghệ sĩ Hùng Cường
Xem lại tập ảnh cũ sưu tầm được, diện mạo của các nam nghệ sĩ Sài Gòn xưa kia khá đa dạng. Họ xuất xứ từ khắp vùng miền nên mỗi người mỗi vẻ: mạnh mẽ, rắn rỏi, đôn hậu, sáng trong hay bí ẩn, đểu giả hay chân thật... Họ có nét chung là thích chải tóc theo kiểu thời thượng, kiểu Tango, chải tóc vuốt lên rồi vẹt ngang cho bồng cao. Một số nam nghệ sĩ chải đầu tém phía sau gáy, ai không có tóc ép tự nhiên thì dùng gel ép cho thật kỹ. Những gương mặt này đã đi vào giấc ngủ của nhiều cô gái cách nay nửa thế kỷ hay muộn hơn một chút, trở thành hình mẫu để chọn chồng của các cô... Có nghệ sĩ dù mỗi ngày ăn quán ngủ đình, ở nhà trọ, ăn cơm hội nhưng sáng rực trên sân khấu với vẻ hào hoa uy dũng. Dù sao, gương mặt họ là ký ức, những giấc mơ diễm ảo của một thời xã hội còn nhiều người lầm lụi kiếm sống, chiến tranh còn sát bên vùng ngoại ô đô thành...
Khi còn nhỏ, tôi thich vẻ đẹp trai tươi tắn của ban Tam ca Sao Băng. Có lẽ vì họ tươi tắn, trong sáng trong dung mạo, hay cười và hát những ca khúc sôi động, hoặc nếu là nhạc trữ tình êm dịu thì không quá ủy mỵ. Trừ Phương Đại luôn có vẻ trầm tư, kín đáo và hơi thẹn thùng, tươi sáng nhất vẫn là gương mặt của ca sĩ Thanh Phong. Anh là người gốc Hoa, trắng trẻo, biết ăn diện, tóc chải bảy ba. Nụ cười của anh được gọi là “cười cầu tài” khiến cái nhìn anh sáng trưng, thân thiện và cuốn hút. Đôi mắt của anh to, là mắt một mí nên nhìn hiền từ. Không phải là đẹp trai nhất nhưng anh nổi bật nhất, dễ thương nhất và có cái nhìn “lém lỉnh reo vui” thân thiện nhất.
Diễn viên Nguyễn Năng Tế (đứng giữa) bên cạnh vợ là ngôi sao điện ảnh Kiều Chinh và bạn bè
• Tư liệu: Kha Thùy Châu
Người đẹp trai nhất ban Tam ca Sao Băng là ca sĩ Duy Mỹ. Đây là một ca sĩ có ngoại hình khá lý tưởng, vóc dáng anh cao ráo, hát ổn dù không nổi bật. Khuôn mặt anh cân đối, đôi mắt to và ướt nhưng không ủy mỵ mà có ánh nhìn đầm ấm. Vẻ đẹp của anh là vẻ đẹp của trai trẻ miệt vườn Mỹ Tho, Cần Thơ, Sa Đéc trong truyện của Hồ Biểu Chánh, Hồ Trường An. Có tin anh mất sớm sau 1975 và không thấy mấy ai nhắc đến.
Ca sĩ và nhạc sĩ Duy Khánh nổi lên từ cuộc thi tuyển chọn ca sĩ đài Pháp Á tại Huế 1955 mà anh được giải nhất. Xuất thân từ một gia đình vọng tộc của Quảng Trị (dòng dõi Quận Công Nguyễn Văn Tường, Phụ chánh Đại thần triều Nguyễn), ông có gương mặt sáng của người có học thức Ảnh: Đinh Tiến Mậu
Nam ca sĩ Trần Quang (thứ hai từ trái qua) cùng các nghệ sĩ: Nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, T.Q, đạo diễn Lê Mộng Hoàng, diễn viên điện ảnh Thùy Liên, một nghệ sĩ, đạo diễn Lê Dân, một người không rõ
Duy Mỹ có vẻ đẹp thân thiện tươi vui, hao hao giống nghệ sĩ kiêm MC Ngọc Phu. Nhưng Ngọc Phu có ánh mắt lanh lợi hơn, khinh bạc hơn, từng trải hơn nhờ trên trán điểm vài nếp nhăn nhẹ. Mắt Ngọc Phu khi nói lấp lánh, linh hoạt như sao nhấp nháy, khi nhìn thì sắc sảo, thăm dò. Duy Mỹ và Ngọc Phu có nét đẹp của con trai miền Nam, hiền hậu, vui tươi và góc cạnh vừa phải.
Diễn viên kịch nói và điện ảnh Huỳnh Thanh Trà
Ca sĩ, diễn viên điện ảnh Bảo Ân
Hùng Cường, ngôi sao nam sáng nhất trên sân khấu cải lương và ca nhạc miền nam. Tài năng của anh quá đa dạng. Với giọng tenor cao vút, hơi ngân khỏe, anh tung hoành trên các loại hình sân khấu, màn ảnh. Anh ca nhạc tiền chiến cũng hay, hát cải lương cũng muồi và không bị lẫn lộn cách thể hiện. Anh có chiều cao lý tưởng thời đó. Nhớ hồi nhỏ trong một chương trình ti vi, tôi thấy anh trả lời phỏng vấn rất dõng dạc: “Tôi, Hùng Cường, tên thật là Trần Kim Cường, cao một mét bảy, nặng bảy chục ký!”. Đã vậy, anh còn tập thể hình nên giữ dáng rất tốt. Tuy có lúc anh ăn diện hơi lố, theo như Hồ Trường An: “Vào thập niên 60, anh diện theo lứa choai choai đợt sóng mới với áo da, tóc chải gie trước trán.” Theo nhà văn này vốn là ký giả kịch trường trước 1975, Hùng Cường thích đeo dây chuyền vàng to, mề đay lớn, cườm tay đeo lắc vàng, ngón tay áp út đeo nhẫn nạm kim cương. Dù sao, Hùng Cường có hấp lực lớn về nét diễn xuất đậm tình cảm, linh hoạt và kết hợp với giọng ca vang lộng, anh là vẻ đẹp phổ thông cuốn hút của đa số người miền nam. Diễn xuất của anh cuốn hút không chỉ người bình dân mà giới có học vẫn thích, khác với một số ngôi sao cải lương khác.
Ca sĩ Chế Linh. Ông còn là nhạc sĩ sáng tác dưới tên Tú Nhi
Diễn viên kịch nói, điện ảnh La Thoại Tân
Một ngôi sao ca nhạc nổi bật ở Sài Gòn là Chế Linh, rất được giới bình dân yêu thích với giọng ca da diết rên rỉ. Nhìn ảnh hồi trẻ, ta thấy anh khá bảnh trai với mái tóc dày, đôi môi tươi và đôi mắt đẹp của dân tộc Chăm luôn linh hoạt. Anh được mô tả: “... anh nồng mặn, có cái duyên dáng nhuận nhị thâm trầm. Da anh tuy đen nhưng ánh mắt nụ cười rạng rỡ... nụ cười anh tếu và tươi sao mà tươi hơn hớn? Đứng giữa một đám người anh nổi bật lên nhờ mái tóc, nhờ vẻ nồng mặn và đậm đà thập phần quyến rũ nhờ màu da và nhờ cái vẻ ranh mãnh linh hoạt...” (Hồ Trường An) Anh thường diện những bộ complet màu tối cho hợp với nước da mình.
Nghệ sĩ Quốc Dũng diễn xuất trong phim trường với nghệ sĩ Tuyết Lan
Diễn viên Thanh Tú trong phim Chiều Kỷ Niệm, cùng với các nghệ sĩ Phùng Há, Thẩm Thúy Hằng
Những nghệ sĩ nói trên có thể chưa tiêu biểu về vẻ đẹp nam tính một thời, nhưng có dấu ấn đậm. Nhiều người cho là đẹp trai lâu nay trong giới nghệ sĩ vẫn là Trần Quang, Huy Cường hay Nguyễn Chánh Tín, họ có vẻ đẹp hiện đại, gần với phương Tây hơn không chỉ vì vóc dáng cao ráo mà còn là nét diễn xuất, thể hiện qua cái nheo mắt, chau mày, cái nhìn nghiêng, đảo mắt... không tránh khỏi dấu ấn của nền điện ảnh ngoại quốc ảnh hưởng vào. Bên cạnh đó, là những nét đẹp lạ, chân phương hơn của những nghệ sĩ khác như Bảo Ân, Thanh Tú, Tâm Phan, La Thoại Tân. Nét họ không chuẩn, như Bảo Ân và Thanh Tú đều có cánh mũi hơi bè, mặt hơi rộng. La Thoại Tân sáng sủa, bảnh bao nhưng chưa thể gọi là đẹp trai. Tâm Phan thì sù sì, bụi bặm. Nhưng chính vì vậy họ có nét dễ gần đời thường, chân thực, có sức mạnh nội tâm và đời thường hơn, cho dù là vai chính diện hay phản diện. Và họ được nhớ nhiều.
Ca sĩ Duy Mỹ, diễn viên Kim Vui và danh hài Tùng Lâm
Bao nhiêu năm đã qua từ khi những nghệ sĩ nói trên cất giọng, diễn xuất trên sân khấu, màn ảnh. Hầu hết họ đã ra đi, hoặc đã già yếu. Còn lại thứ ánh sáng đã cũ, trong những tấm ảnh lưu giữ được. Ánh sáng từ nửa thế kỷ trước, khó phai mờ, những vẻ đẹp nam tính mà họ đại diện, của một thời ở thành phố này.
Trang phục đám cưới trong buổi rước dâu bên nhà trai
• Ảnh trong bài: tư liệu T.G