Dầu Dừa, Tóc Mượn, Vòng Cẩm Thạch Cẩn
Trong không khí buồn buồn âm u sau cơn mưa chiều tháng Bảy, nhà nhà đã mở dần những bóng đèn tròn vàng vọt, cả xóm lại nghe tiếng rao văng vẳng từ xa của bà Bánh Men: “Ai… i… i dầu dừa, dầu bông lài, dầu hải đường!” , rồi lại rao tiếp: “Ai… i… i xỏ lỗ tai, đeo bông liền!”... Đó là những bước chân cuối ngày của bà Bánh Men, trước khi bà “ gác mái ” để về “ viễn phố ” ở cái ngõ bé xíu gần hẻm Hàng Dương thông ra chợ Ga trên đường Võ Tánh (nay là Hoàng Văn Thụ). Gia đình bà xưa kia khá giả, có căn nhà lớn trong hẻm 138 Trương Tấn Bửu (nay là hẻm 221 Trần Huy Liệu, Phú Nhuận) có sân trước sân sau, giếng bên hông nhà, hàng kiểng sân trước. Vì làm ăn lụn bại nên bà phải bán nhà đi bán bánh men. Sau này bà đổi nghề, bán dạo dầu xức tóc cho phụ nữ, xỏ lỗ tai cho các bé gái nhưng vẫn được gọi bằng cái tên bà Bánh Men. Đó là những năm giữa thập niên 1960.
Bà Bánh Men đi vào ký ức tôi không chỉ với câu chuyện lên voi xuống chó, hay hình vóc gầy gò trong bộ áo bà ba đen bận quanh năm, dáng đi buồn buồn, mà là những thứ thơm tho bà thường bán cho phụ nữ trong xóm. Do là hàng xóm lâu đời nên bà ngoại và má tôi, dì tôi luôn nói chuyện với bà một cách nể nang, tôn trọng chứ không dám buông tuồng. Biết ngoại tôi tự thắng dầu dừa để xài, bà không mấy khi mời mua, chỉ dừng lại nói chuyện. Dưới vành nón, khuôn mặt thanh mảnh của bà nhuộm vẻ phong trần. Bà vẫn giữ nét thon gọn dù lớn tuổi vì không có gia đình, chưa từng sinh đẻ, nhưng vai bà đã nghiêng qua một bên sau nhiều năm phải gánh đôi thùng gỗ đựng các loại dầu đi bán dạo.
Khách hàng của bà là những phụ nữ trong các xóm nhỏ Sài Gòn – Gia Định xưa. Dù nghèo mấy, họ cũng luôn cố làm cho mình đẹp đẽ, tươm tất, thơm tho. Đó là lòng tự trọng, ham chuộng cái đẹp, luôn muốn mình tươi tắn, rạng rỡ để vừa lòng ông xã, hãnh diện với chị em. Khi nhìn lại những tấm ảnh cũ trong nhà, tôi thấy các bà các chị biết ăn diện lắm. Và những câu chuyện làm đẹp thời đó của má, của dì cuốn hút một cách kỳ lạ, nếu đi sâu vào sẽ thấy cả một thế giới phong phú từ những bộ áo dài hợp mốt cho đến đồ đạc phụ kiện và cách thức làm đẹp.
Thời nào cũng vậy, mái tóc được xem là nơi thể hiện sức sống của nữ giới. Đi xe đi đò, nhìn phía sau thấy cô nào có mái tóc mướt dày thì mọi người thường cố nhìn mặt cho được. Muốn tóc mướt, phải dưỡng phải chăm. Thời đó, hầu hết phụ nữ miền Nam thường dùng dầu dừa để xức tóc, vừa dưỡng vừa làm đẹp. Bà ngoại tôi cũng tự thắng dầu để dùng. Bà mua dừa khô, vắt nước cốt dừa vào thau. Để qua ngày hôm sau lớp dầu trong sẽ nổi lên trên mặt, vớt cho vào chảo thắng thành dầu, xong chắt ra cất vô chai. Tóc gội xong để khô, rót chút dầu vào lòng bàn tay xoa lên tóc. Cứ nửa tháng, bà ngoại lại thắng một chai để dùng.
Hồi đi học ở trường Gia Long, dì Út tôi xức dầu dừa mỗi ngày, tóc luôn mướt và thoảng mùi dầu thơm nhẹ. Đến khi tốt nghiệp ra dạy học thì dì không xức dầu dừa nữa vì nếu xức mà không gội kỹ thì tóc dễ bị rít. Lúc đó, ai xức dầu dừa đã bị coi là “ quê một cục ” , nhất là những cô gái có học và khá giả. Dù vậy, trong các xóm nhỏ vẫn còn nhiều người xài dầu dừa. Khi lấy chồng, về ngã tư Bình Hòa sống, dì tôi vẫn thấy bà Bánh Men gánh thùng dầu đi bán dạo. Bà vẫn cười nhẹ khi gặp dì và vẫn không mời mua dầu.
Dì Út kể lúc lên mười tuổi, hồi cuối thập niên 1940 còn để tóc dài tới sau mông, dì hay kẹp tóc bằng kẹp đồi mồi của Pháp mua ở tiệm chạp phô hay chợ Sài Gòn. Ôi, những cái kẹp thời đó sao mà tốt, dùng hoài không bung, là miếng đồi mồi vàng nâu vừa dẻo vừa cứng dán trên miếng kim loại xi trắng. Dì dùng kẹp để kẹp tóc suốt những năm đi học. Đến tuổi cập kê, bà ngoại dạy dì bới tóc kiểu “ bánh lái, thả vòng ” tức là có một mảng tóc giống bánh lái của tàu thuyền chúi xuống phía sau và có những vòng tóc kế bên. Dì còn trẻ, tất nhiên không thích bới tóc kiểu đó vì trông giống bà già quá. Má tôi cả ngày buôn bán ở chợ thì bới tóc kiểu thông thường, mua cái lưới tóc bán ở chợ bao bên ngoài, xiên một cái trâm qua để giữ tóc cho cứng là tươm tất lịch sự rồi. Hôm nào đi tiệm, má cũng bới tóc, bao lưới y chang vậy nhưng xài cái trâm có nhận hột đá sáng lấp lánh cho đẹp. Riêng bà ngoại khi ở nhà chỉ bới bình thường cho gọn, không kiểu cọ nhưng do tóc ít, bà phải dùng “ tóc mượn ” . Phụ nữ từ tuổi tứ tuần là tóc bắt đầu rụng, thưa dần nên khi bới tóc thì chỉ đủ tạo nên một củ tỏi phía sau trông rất kỳ, cần độn tóc cho búi tóc lớn như hồi còn trẻ. Thứ dùng độn tóc chính là “ tóc mượn ” . Ngoài chợ có bán loại tóc này nhưng không ít người, như bà ngoại tôi, thì e ngại mua phải thứ tóc giả làm bằng tóc người chết nên tự làm riêng một dây kết bằng tóc chính mình hay tóc người thân.
Tóc rụng, bà ngoại không bỏ đi mà giữ lại cẩn thận. Có nhiều rồi, ngoại trải tóc trên mặt phẳng, vuốt từng sợi cho thẳng, so một đầu hoặc dùng kéo cắt cho bằng, đầu kia để dài ngắn tự nhiên. Xong rồi dùng vài sợi tóc se cho dính nhau thành một loại dây cột chặt chỗ đầu bằng của mớ tóc. Tóc làm sao có thể bó thành một chùm có đường kính ít nhất ba phân thì khi ghép vào đầu tóc để búi mới đủ độ dày dặn. Thời đó, hầu như phụ nữ trung niên nào cũng có một dây “ tóc mượn ” để bới cho búi tóc đầy đặn.
Bà ngoại tôi bảo rằng phụ nữ nửa chợ nửa quê miệt miền Tây thích xức dầu bông lài lên tóc vì có mùi thơm rất đậm. Họ chải kỹ, bới tóc “ bí bo ” , giắt trâm để giữ cho cứng. Ông Vương Hồng Sển viết: “… các ỷ, các ý (dì: tiếng Triều Châu) là phụ nữ Việt có chồng là thương nhân người Hoa giàu có trong Chợ Lớn thì đầu bới tóc thả bánh lái ‘ba vòng một ngọn’, ăn trầu tích toác, để móng tay dài và mỗi lần xỉa thuốc thường vành ngón tay cho người ngoài thấy mình có cà rá hột xoàn bự, hay bộ nhẫn vàng quấn kiểu ‘cửu khúc liên hườn’. Trên vai mấy ỷ thường vắt một khăn rằn Nam Vang để lau trầu” . Má tôi hồi còn nhỏ có sống trong Chợ Lớn nên rất đắc chí khi đọc đoạn văn này. Bà bảo ông tả hay quá, đúng y chang, dùng từ “ tích toác ” rất hay mà bây giờ không còn ai dùng.
Chăm sóc tóc, vấn tóc đủ kiểu nhưng giữa miền Nam nắng chói, lại không muốn duyên phô hết ra ngoài, các bà thích dùng khăn, nón để che đầu. Má tôi kể trước kia bà nào có gốc dưới miệt vườn Nam bộ thì thích xài cái khăn rằn dệt nhiều màu xen kẽ nhau mà có bà gọi là “ ịch bậu ” theo tiếng Triều Châu. Thứ khăn đó dệt ở Chợ Lớn, bán ở Nam Vang hay đưa về miền Tây. Dần dà, từ thập niên 1960 khi khăn “ sạc ” (châle) mỏng, nhẹ như voan nhập cảng từ Pháp xuất hiện thì cái khăn rằn đã bị coi là “ quê ” , lại trông giống người Miên nên dần dần biến mất ở thành thị. Riêng các bà gốc Sài Gòn phía nhà ngoại tôi khi đi đám tiệc thường bận áo dài, xếp khăn lụa vuông thành hình tam giác rồi trùm lên đầu, lộ khuôn mặt, hoặc quàng trên vai, thắt hai chéo khăn giữa ngực. Ai có khăn “ sạc ” thì đem quấn cổ. Bận áo dài che nắng bằng khăn, bận áo bà ba thì dùng nón lá, thứ nón lá bền chắc và cứng cáp, không nhẹ nhàng mỏng manh như nón bài thơ ở Huế.
Dù lớn tuổi, các bà cũng ráng trang điểm, dồi mặt chút phấn, vẽ chân mày, dùng son hiệu Lancôme của Tây màu đỏ bầm nếu lớn tuổi, sơn móng tay móng chân. Diện quần áo xong, trang điểm đủ, khăn nón chỉnh tề thì phải nghĩ đến chuyện “Hôm nay đeo cái gì đây?”. Hồi thời Tây, người khá giả cùng lúc đeo tới hai, ba hoặc có khi năm sợi dây chuyền mà sợi nào cũng có mề đay hoặc dây chuyền tua (sợi dây có những mảnh vàng rũ xuống). Tay đeo vòng cẩn hạt huyền, đá màu hay cẩm thạch. Bông tai cẩm thạch hay huyền. Cổ đeo dây chuyền với miếng mề đay bằng cẩm thạch chạm hình tượng Phật, chùm nho hay có khi là một vòng khuyên. Ngón tay thì đeo cà rá (nhẫn) nhận hột xoàn (kim cương) lấm tấm. Nữ trang thì ôi thôi đủ kiểu. Là vòng mắt tre bằng vàng tây, chạm khúc trơn khúc nổi như mắt cây tre. Là vòng cẩm thạch cẩn, từng đoạn cẩm thạch xanh biếc cẩn vào cái khuôn hình vòng bằng vàng 18k, nhận hột xoàn. Trên tai đeo bông cẩm thạch hình bánh men hay tiền điếu, ở giữa có khi nhận hột xoàn. Trên cổ áo cài cái broche bằng vàng tỉa hoa lá. Má và dì tuy không khá giả nhưng biết xài nên không dùng bông tai mù u. Dây chuyền thì ráng làm sao xoắn như dây neo. Mọi thứ tươm tất rồi, ra đường thêm cái bóp đầm, cái kiếng mát, giày cao gót, khăn mouchoir, xức dầu thơm là coi như đủ bộ, không thua chị kém em.
Sau năm 1975, dì Út tôi sau nhiều đợt bán nữ trang nuôi lũ con tuổi ăn tuổi lớn trong thời khó khăn, vẫn giữ được chiếc vòng cẩm thạch cẩn. Tuy vậy, nó đi theo dì ra tiệm cầm đồ không biết bao nhiêu lần mỗi khi phải đóng tiền học cho con, cần mua thuốc cho chồng. Bà chủ tiệm cầm đồ Kim Mỹ ở ngã tư Bình Hòa thấy thương, luôn định giá chiếc vòng kha khá để dì mang về số tiền đủ xoay xở. Đến khi con gái lớn đi làm, dì mới thôi đem chiếc vòng đi thế chấp. Đến giờ, nó vẫn được dì nâng niu như vật chứng của một thời khó khăn.
Còn số nữ trang của má tôi, sau khi má qua đời, được chia đều cho các con mỗi người một món làm kỷ niệm. Tôi chọn cái mặt dây chuyền hình đồng điếu bằng cẩm thạch đơn giản, không có hột xoàn ở giữa. Cầm nó trên tay, tôi như trở lại quãng đời gần năm mươi năm trước, những ngày Tết của thập niên 1960. Mùng Một Tết, má giồi phấn trắng nhẹ trên gương mặt, tô chút son, bận áo dài, đeo dây chuyền vàng sợi nhuyễn và cái mặt mề đay đơn giản này để chuẩn bị lên chùa rồi đi thăm bà con. Tôi lúc đó lên bảy hay tám tuổi, đứng tới thắt lưng má, choàng tay ôm người mẹ thân yêu để hít thật sâu mùi vải và mùi dầu thơm Chanel 5. Má lúc đó rất đẹp và có gì ngượng nghịu trên gương mặt, dù đã là mẹ của bảy đứa con. Sau này nhớ lại, tôi thấy se lòng vì suốt cả cuộc đời của má, những lần chưng diện như vậy quá ít ỏi, trừ đám cưới của các con, hay mùng Một Tết hằng năm. Xuất thân từ gia đình có của ăn của để, mỗi bữa cơm toàn dùng chén sứ Ngoạn ngọc của Tàu hay dĩa Limoges do ông ngoại còm-măng bên Pháp, má sống cuộc đời lo toan và chỉ giữ lại chút vàng son ngày cũ qua cách ứng xử và ăn mặc, biết ăn biết xài, chắt chiu ít món nữ trang để lâu lâu đem ra lau chùi, đánh bóng rồi lại đem cất trong cái hộp gỗ.
Trong một tiệm làm tóc dành cho phụ nữ Sài Gòn thập niên 1960. Ảnh sưu tầm: Lê Hoan Hưng.
Trang phục của phụ nữ Sài Gòn – Gia Định xưa: Bông tai, có thể là nụ vàng, không nhận hột, đánh bóng nụ cho sáng đẹp. Đồng bộ với broche. Tay đeo hai cà rá: cái bên phải nhận đá màu. Cái bên trái nhận hạt trai tròn hay hạt hổ phách. Sát cổ áo là cái broche hình lá, dưới có mề đay trái tim đong đưa. Hai sợi dây chuyền ngắn và dài, mặt mề đay vàng “đậu” (chế tác, tỉa nhiều lớp hoa văn xong gắn lại trên đế). Cổ tay: Trên là vòng cẩn đá màu, huyền hay cẩm thạch. Dưới là vòng neo uốn mấy vòng. Người phụ nữ này đeo dây chuyền hai tầng cùng hai cái mề đay khác nhau về kiểu dáng, cổ áo gắn broche, đeo vòng cẩm thạch cẩn cùng với hai cái vòng vàng xoắn, ngón tay đeo hai cà rá, bông vàng nhận hột xoàn.
Phụ nữ nhà giàu Sài Gòn – Gia Định thập niên 1930 chưng diện ngày lễ, Tết: Tóc cài trâm vắt và trâm cài, giắt lược đồi mồi. Bông tai vàng giũa.
Bàn tay đeo kín cà rá (nhẫn) các ngón tay. Từ trên xuống: Cà rá chạm, cà rá đậu nhận hột đá màu, cà rá neo, cà rá bẻ nhận hột.
Cổ tay đeo ba vòng. Từ trên xuống: Vòng nhận huyền có hai dây tòn ten, vòng neo, vòng nhận hột màu.
Cổ đeo năm sợi dây chuyền vàng: Từ trên xuống: Dây chuyền 1 nối với cái broche hình nơ, dây chuyền 2 có mề đay (khuất sau bàn tay), dây chuyền 3 có mề đay tròn, dây chuyền 4 có mề đay hình thoi, dây chuyền 5 dài nhất đeo đồng hồ giấu trong vạt áo dưới nách. Tất cả đều là vàng 10K.