← Quay lại trang sách

PHONG VỊ BÁO XUÂN XƯA

Báo Xuân của các nhật báo Sài Gòn trước 1975, với cái tên trang nhã và trân trọng là Giai phẩm Xuân, thường có khổ lớn, có tờ lên tới 30cm x 42cm. Giai phẩm Xuân của các tạp chí, thường trung thành với kích cỡ tờ tạp chí thường kỳ, chỉ thể hiện sắc xuân ở bìa đẹp và thường là tăng tranh, bên trong có nhiều tranh minh họa và có thể thêm phụ bản màu.

Đây là loại ấn phẩm đặc biệt của tòa soạn, một tờ báo thu hút rất nhiều tinh lực của người tổ chức bài vở, trình bày và của các cây bút trong và ngoài tòa soạn.

Có ý kiến cho rằng tờ báo Xuân là món quà mà chủ báo mang đến cho anh em ký giả, nhân viên trong tòa soạn có việc làm để thu lợi nhuận hưởng Tết. Có thể đúng là như vậy, nhưng rõ ràng báo Xuân là một dịp làm ăn không nhỏ đối với một tòa soạn báo. Thời xưa, độc giả không phải ai cũng thường xuyên bỏ tiền mua báo ngày. Nhiều người đọc báo ở sở làm, mượn báo hàng xóm đọc nhờ hay ra sạp đọc ké không tốn tiền, ngại quá thì trả ít tiền lẻ cho chủ sạp. Tuy nhiên, nhiều người nhất thiết phải mua tờ báo Xuân để nhâm nhi ngày Tết, làm quà tặng, vừa có thể lấy lịch hay tranh phụ bản tặng kèm để trang trí nhà cửa, ép dưới tấm kính bàn salon cho đẹp. Báo Xuân làm tốt thì bán được nhiều, thu được nhiều tiền quảng cáo sản phẩm trên báo. Đó là lý do giới chủ báo chịu chi nhiều tiền cho giấy má, công in, nhuận bút cao để có thể xuất bản ra một loại ấn phẩm đẹp, in trên giấy tốt, có nhiều cây bút sừng sỏ cộng tác và có bức tranh bìa, minh họa thật thu hút. Làm ra một tờ báo Xuân đẹp lộng lẫy từ bìa vào trong, có nội dung đặc sắc cũng là niềm hãnh diện của một tòa báo, thể hiện đẳng cấp trong làng báo. Những giá trị này vẫn còn cho tới ngày nay.

Báo Xuân Hà Nội ở Sài Gòn

Theo Vũ Xuân Tự trong cuốn Túi bạc Sài Gòn xuất bản năm 1941, khi báo Phụ Nữ Tân Văn, tờ báo chiến tướng của Sài Gòn đang thịnh hành thì “chỉ có dân Bắc ham đọc báo chí trong Nam thôi. Trái lại, người Nam ít đọc văn Bắc lắm” . Nhưng khi các báo Phụ Nữ Tân Văn, Thần Chung, Đuốc Nhà Nam đình bản thì văn chương Bắc Hà cũng đổi mới, tiến bộ, tìm lối vào Nam. Ông viết “đứng đầu hàng ngũ đi cám dỗ độc giả Nam Kỳ, ta nên dành công cho tuần báo Phong Hóa. Tờ tuần báo này khi tái bản (1932) đã sửa đổi tôn chỉ, văn thể hợp với trình độ dân trí nên được hoan nghênh. Thì báo nào mới ra tài liệu chẳng dồi dào, bao nhiêu cái hay họ trưng ra hết. Khởi thủy, những bức vẽ khôi hài đã mua được những cái để ý của người Nam thường hay đọc báo. Rồi kẻ mua, người đi mượn, và có những anh đứng xem ghé mấy bức tranh riễu Lý Toét, liền bị bùa mê dần dần. Trước còn mua báo xem mấy bức vẽ, sau đọc các bài vở, gặp những tiếng Bắc bèn dò hỏi, sinh ra ham thích là mắc nghiện ngay” . Ông cho biết sau đó là báo Loa, cũng trào phúng, châm biếm nhưng có mồi câu độc giả Nam Kỳ là hai bức phụ bản. Ở Sài Gòn, công in đắt đỏ nên tính riêng hai bức tranh là giá năm xu rồi, rẻ lắm cho nên có người Nam chỉ thích hai bức tranh lồng kính chơi mà mua cả báo Loa.

Giai phẩm Xuân Ngày Nay, Phong Hóa – những tờ báo có sức hút đối với độc giả Nam Kỳ.

Các tờ báo miền Bắc thời ấy vào Nam Kỳ bằng nhiều cách khác nhau. Đến gần cuối thập niên 1930, các tờ nổi tiếng nhất ngoài ấy như Phong Hóa, Ngày Nay, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Tri Tân... theo con đường phát hành xuyên Việt vào tới Sài Gòn, trong đó có vai trò nổi bật của nhà sách Nguyễn Khánh Đàm gần chợ Bến Thành, là đại lý phân phối sách báo của Nhà xuất bản Tân Dân ở Hà Nội. Hơn một tháng trước Tết, những giai phẩm Xuân của các tờ báo này góp phần làm phong phú thêm thị trường báo Xuân ở Sài Gòn, không chỉ nhờ những bức vẽ trào phúng hay phụ bản đẹp như Vũ Xuân Tự cho biết, mà còn từ những bìa báo đẹp mang phong cách cổ điển của xứ Bắc và nội dung giàu chất văn chương ý nhị được độc giả Nam Kỳ thích thú đón nhận. Giở ra tờ báo Xuân từ Hà Nội, người đọc Nam Kỳ được xem tranh của các họa sĩ trường Mỹ thuật Đông Dương như Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Lemur… qua những bìa báo và minh họa, được đọc những truyện ngắn, kịch, thơ của các cây bút được ưa chuộng trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn và các cây bút tài danh xứ Bắc khác như Tản Đà, Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố, Thanh Châu... Dù sao, một món ăn tinh thần mang tính “hương xa” có giá trị vẫn dễ thu hút người Sài Gòn vốn cởi mở, luôn thích tiếp nhận cái mới. Đã vậy, xem báo Xuân xứ Bắc, có thể xem được những “giá trị” khác, như qua các trang quảng cáo có thể hình dung sản vật và cách tiêu dùng của ngoài ấy, hay những bài viết về Tết Sài Gòn với góc nhìn lạ của người xứ có mùa xuân lạnh mát viết về mùa xuân rực nắng của miền Nam.

Những nhân vật nổi danh trong tranh biếm họa của báo Phong Hóa như Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh... sớm thu hút người đọc Nam Kỳ nên sau này, báo chí Sài Gòn đã tái hiện các nhân vật này trong một khoảng thời gian nữa, cho đến thập niên 1950 mới ngưng dần.

Trong những ngày cuối năm, tôi lật xem tờ giai phẩm Xuân Ngày Nay xuất bản năm 1940 tại Hà Nội và thấy lại cảm giác bồi hồi. Đó là một tờ báo Xuân đẹp, tao nhã với tranh bìa dễ thương vẽ ba cô gái bận áo dài tha thướt của họa sĩ nổi tiếng Tô Ngọc Vân. Kỹ thuật in lúc đó cộng với màu thời gian phủ lên bìa báo khiến bức tranh xuống sắc, màu in trầm xuống, nhìn như một bức tranh lụa cũ. Nội dung bài vở bên trong khá phong phú, toàn là của “chiến tướng” làng văn miền Bắc thời đó vì Ngày Nay là tờ báo của nhóm Tự Lực Văn Đoàn nổi đình đám ở Hà Nội. Cảm động nhất là bài Đĩa mứt ngũ vị , thực chất là “Đĩa mứt ngũ vị văn chương” do Hoàng Đạo, Khái Hưng, Thạch Lam viết. Đây là món quà văn chương ngày Tết với những tản văn, câu chuyện ngày Tết được viết khá súc tích, đặc biệt có những bức minh họa do các tác giả vẽ dù họ không phải là họa sĩ. Nhà văn Hoàng Đạo vẽ hoa thủy tiên, Khái Hưng vẽ một người đi dưới mưa, che lá trên đầu và có hai khuôn mặt thiếu nữ trên cao dõi theo. Thạch Lam vẽ quả đựng mứt.

Tranh Tô Ngọc Vân trên giai phẩm Xuân Ngày Nay 1940.

Truyện Hoa Thủy Tiên của Hoàng Đạo viết về một anh ở nhà quê rất thích chơi hoa thủy tiên. Ngày Tết anh thường ra Hà Nội mua hoa thủy tiên đem về nhà bày kín giường ngủ. Do nghiện hút và lười biếng, cảnh nhà anh sa sút dần và tác giả không có dịp gặp nữa. Một dịp Tết, tác giả về quê thì biết anh đã bán nhà, ở trong một cái chòi, thân thể tiều tụy vì nghiện nặng. Khi đến thăm, thấy ngày Tết anh chỉ có một bát gạo ăn. Nhưng khi nhìn lên bàn thờ cũ vẫn có một củ thủy tiên nở đầy cái chậu sành nhỏ. Anh ta thấy khách nhìn hoa, cũng ngước mắt âu yếm nhìn hoa thủy tiên, rồi tươi cười khoe: “Bây giờ tôi gọt khéo hơn trước nhiều anh ạ. Năm nào hoa cũng nở đúng ngày mồng Một!”. Tác giả man mác nghĩ thầm: “Tình yêu hoa hay là lòng thương tiếc một quãng đời thiếu niên đầm ấm!”.

Thế giới báo Xuân Sài Gòn

Phụ Nữ Tân Văn Tết 1930 là một trong những tờ báo Xuân phát hành sớm nhất ở miền Nam mà chúng tôi xem được đầy đủ. Trang đầu tờ báo ghi rõ “Số báo mùa xuân 1930”. Tên tờ báo đặt trên nền mai vàng ẩn hiện và bài thơ bốn câu man mác buồn: “Nghe nói xuân vừa đến/tìm xuân chẳng thấy xuân/Đầu nhành mai chiếng (?) trổ/ xuân đã vẹn mười phân” . Bài vở bên trong đã có màu sắc báo Xuân như bài Nam Âm thi thoại của Chương Dân (Phan Khôi) viết về thơ xuân của Tú Xương, truyện vui xuân mới, trang nhi đồng...

Năm 1931, Phụ Nữ Tân Văn không ra báo Xuân. Đến số báo Xuân 1932, bằng kỹ thuật in màu đơn giản, tờ báo danh tiếng này đã trình bày một bìa báo có màu đỏ rực rỡ làm nền cho hình vẽ bình hoa đặt cạnh tờ báo Xuân. Nội dung bài vở bên trong đã rõ phong cách báo Tết như có tới hai trang ảnh quê hương đất nước từ Nam ra Bắc, có những bài mang tính “nhìn lại” như bài điểm qua thơ xuân các nhà thơ từ Tây, Tàu, Nhật đến ta, hay bài viết về phụ nữ Việt bước vào năm 1932 và nhìn lại năm cũ. Bên cạnh đó có bài về nhân vật lớn như Alexandre de Rhodes, về một nhân tài đất Việt sống ở hải ngoại như Nguyễn Chấn Nam, một nhà ảo thuật. Tờ báo này dùng minh họa khá nhiều, có trang tới ba, bốn tranh.

Đọc lại bốn tờ báo Xuân Phụ Nữ Tân Văn năm 1930, 1932, 1933 và 1934, ta thấy có điều đáng lưu ý là không tờ báo Xuân nào nhắc đến năm âm lịch của Tết đó, không chỉ trên bìa báo, mà toàn bộ bài vở bên trong. Chi tiết tuy nhỏ nhưng thể hiện chủ trương canh tân mà báo nhắm tới.

Bìa Phụ Nữ Tân Văn Xuân 1930, 1932, 1933.

Bài vở trên giai phẩm Xuân thường không nặng về chuyện thời sự, chiến cuộc mà thiên về văn hóa văn nghệ, chuyện kể, giai thoại, ôn cố tri tân, mang tính văn chương nhiều hơn nên thường dễ đọc. Số trang báo dày mỏng khác nhau, có số lên tới cả trăm trang khổ to, bài vở rất phong phú. Ví dụ như giai phẩm Xuân báo Sóng Thần số Xuân năm 1973 có tới 90 trang.

Ngày xuân, tạm quên những chuyện đời thường, tình yêu quê hương trỗi dậy nên nhiều tờ báo Xuân thích đưa hình ảnh về quê hương đất nước, cảnh kiến trúc cổ như tháp Rùa, chùa chiền lăng tẩm ngoài Huế, bài du khảo. Tuy nhiên, kỹ thuật in còn lạc hậu đã phản tác dụng, các trang in ảnh khá lem nhem. Báo Thần Chung Xuân Canh Dần 1950 đưa tới ba trang ảnh phong cảnh Việt trong trang ruột như cầu Cái Khế, Phụng Hiệp, Đêm trăng… do nhà chế bản nổi tiếng Cliché Dầu thực hiện nhưng cảnh vật đều không rõ. Đưa ảnh quê hương trang ruột là thất bại của hầu hết các báo Xuân từ Nam chí Bắc lúc đó. Tuy nhiên, có thể độc giả thời ấy chấp nhận, thỏa chút ước mơ đi đây đi đó hay biết thêm phong cảnh quê hương. Đến những năm thập niên 1960, kỹ thuật in tốt hơn, sắc nét hơn nên coi như vấn đề này được giải quyết. Đến cuối thập niên này, hình ảnh quê hương ít thấy dần trên trang ruột. Phụ bản chủ yếu là hình ảnh các ngôi sao cải lương hay ca nhạc, và minh tinh màn bạc.

Nhìn sâu vào nội dung các giai phẩm Xuân ở miền Nam từ khoảng giữa thế kỷ XX đến sau này, thường thấy bài bản tổ chức nội dung có na ná nhau, với các mục như: Thơ ông Táo, xuân con gì kể chuyện con đó, trang thiếu nhi, tử vi cả năm... Phần văn nghệ, nhất thiết phải có kể chuyện ăn Tết khắp nơi. Bài Tết đặc sắc trên báo Xuân thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, thường là chuyện “Tết khổ sở” trong đó kể những trải nghiệm ăn Tết trong tù: hết ăn Tết trong khám Chí Hòa, ở Côn Đảo lại ăn Tết ở khám lớn Sài Gòn, ở Hỏa Lò Hà Nội. Ăn Tết trong tù chưa đủ, đến chuyện ăn Tết với người Thượng trên cao nguyên, ăn Tết kháng chiến trong rừng U Minh… Kiểu bài thứ hai là bài “xông đất”. Hết xông đất các tòa soạn báo, rồi lại xông đất các nghệ sĩ với những dự định diễn xuất trong và sau Tết. Có báo như Đời Mới thì quan tâm đến người nghèo, đi hỏi chuyện người nghèo ăn Tết, hỏi từ viên công chức ở Bàn Cờ đến anh thợ hớt tóc ở Phú Nhuận. Đặc biệt, các báo Xuân miền Nam rất chuộng đăng bài giai thoại về nhà văn nhà thơ nổi tiếng, nhất là về nhà thơ Tản Đà. Đại thi sĩ này rất được yêu quý nên chỉ trong thời gian ngắn ông vào Gia Định viết cho báo Thần Chung và Đông Pháp Thời Báo cũng đủ nảy sinh những chuyện thú vị về ông đăng dài dài trên một số tờ báo Xuân sau này. Bên cạnh đó còn có các giai thoại về các nhà thơ, nhà văn khác như Phan Khôi, Nguyễn Bính, Hồng Tiêu, Bùi Thế Mỹ, Lê Văn Trương...

Vài trang báo Phụ Nữ Tân Văn Xuân 1932.

Báo Xuân thường có những bài tổng kết có giá trị, như Nhìn về văn chương Việt Nam trong năm 1969 – Nguyễn Nhật Duật (Khởi Hành 1970), Làng báo Sài Gòn 21 năm về trước – Trần Tấn Quốc (Báo Hương Xuân năm Đinh Dậu 1957)... Hoặc có những bài báo chỉ đọc tựa là thấy hấp dẫn như: bài Toàn quyền Decoux vác bạc Mỹ của quân đội Pháp đã vứt bỏ xuống sông Kỳ Kùng (Lạng Sơn) hồi Tết 1885 của A Mi báo Việt Thanh số Xuân 1952; bài Ngày xuân nghe chim hót hay là đi xem những cô Thanh Nga tập sự của Sơn Nam (Tin Sớm – Xuân Bính Ngọ 1966); bài Một đêm 30 Tết rùng rợn, chuyện có thật xảy ra năm 1928 của Nhã Hiền (Thời Cuộc – Canh Dần 1950); bài Người Việt miền Nam có lắm tật xấu đáng yêu của Sơn Nam (Thời Nay – Kỷ Dậu 1969).

Đặc biệt, có những tờ báo làm khá bài bản một tờ báo Xuân tập trung chuyên đề riêng. Ví dụ: giai phẩm Xuân báo Sóng Thần số Xuân 1973 làm chuyên đề “Chung sống”, trong đó, hầu hết các bài vở xoay quanh câu chuyện những đối tượng khác nhau, đối lập nhau, đặt vấn đề liệu họ có thể chung sống yên bình, hài hòa với nhau không. Đề tài cho chủ đề này khá đa dạng, như Nghệ sĩ và chung sống, Thế giới sắp chung sống và hòa bình, Cuộc trao đổi sinh hoạt nghệ thuật cải lương Bắc Nam hồi tiền chiến ,... và những bài báo về triển vọng kinh tế và viện trợ cả hai miền sau khi chiến tranh chấm dứt, chuyện sống chung của hai mẹ con, hai thế hệ cách xa với hai cách nghĩ khác nhau. Giai phẩm Đuốc Nhà Nam số Xuân 1971 chuyên đề đặc biệt “Tiền” được coi là “công trình sưu khảo” có các bài viết khá hấp dẫn từ các ký ức thời xa xưa về đồng tiền Đông Dương, chuyện đồng tiền những năm Đại khủng hoảng kinh tế 1929 – 1933 đến giá trị đồng bạc đương thời. Chuyên đề về kinh tế Hoa Kỳ trên giai phẩm Thần Chung của báo Đại Dân Tộc năm 1975 chiếm 70% số trang báo. Trên giai phẩm Thời Nay Xuân Bính Ngọ năm 1966, phụ trang đặc biệt 100 năm báo chí Việt Nam có nhiều bài hay như Lịch trình tiến hóa, Tiếng Việt qua 100 năm báo chí, 50 năm làng báo đất Thần kinh, Dở chồng báo cũ, Gia Định báo, Bút chiến, hí họa . Các chuyên đề trên báo Xuân là nguồn tư liệu tham khảo rất đáng quý cho người viết thế hệ sau.

Bên cạnh đó, có hai mảng nội dung mang tính văn nghệ của báo Xuân xưa có sức thu hút độc giả. Đó là hồi ức Tết xưa và thơ.

Người đọc xem báo Xuân vẫn thường đọc được những hồi ức rất hay của một số tác giả viết về những cái Tết ngày xưa. Người viết có thể là một nhà báo, nhà văn, nghệ sĩ, một người hoạt động chính trường, một họa sĩ. Ở những số báo thường ngày, họ bình luận chuyện thời sự, vẽ tranh minh họa, viết biên khảo hay truyện ngắn, tiểu thuyết... nhưng khi tham gia viết báo Xuân, họ kể về chính mình, một kỷ niệm đã trải qua ở một khoảng đời, một tuổi thơ xa lắc lơ, một cái Tết đáng nhớ... Hầu hết những bài này được viết bằng giọng văn rất chân thành, đầy cảm xúc nên càng đọc càng thấm. Nhà văn Mai Thảo, trong Khởi Hành số Xuân Canh Tuất 1970 viết tùy bút Thăm nhà một buổi thể hiện tâm trạng u hoài sau mười sáu năm gia đình ông di cư vào Nam. Trong mười sáu năm, có những người già đã ra đi và những em bé trong dòng họ được khai sinh. Khi về Phú Nhuận thăm cha mẹ ở một căn chung cư, ông thấy ở đó có một bầu không khí lặng lẽ, tịch mịch như trong một tản văn của Alphonse Daudet viết về cõi của người già. Khi soi vào tấm gương mà gia đình mang từ miền Bắc vào ông đã từng soi những ngày thơ, ông thấy bên kia gương “sự truyền tiếp vô hình mà rực rỡ... tự động, hiển hiện trên từng xó góc một” . Nhà văn – họa sĩ Tạ Tỵ cũng trong tờ báo này, có bài hồi ức Quê ngoại viết rất chi tiết, giọng văn chân thật. Ông kể về một dịp Tết ngày còn bé, được mẹ đưa về thăm quê ngoại ở một vùng biển nghèo gần Yên Tử. Chuyện vất vả tàu xe ngày Tết thuở xưa đi từ Hà Nội qua mấy chặng tàu lửa, tàu thủy, đi bộ dưới mưa rét mới đến quê, và những ngày xuân ở quê nghèo vùng biển Bắc bộ, những đối đãi của người thân trong gia đình ngày Tết sao mà xúc động và buồn cho những con người và một quê hương nghèo khó. Hoặc bài viết Cái Tết cuối cùng trên đất Pháp của nghệ sĩ Kim Cương trong giai phẩm Xuân Con Gà Sống Tết Kỷ Dậu 1969. Bà kể chuyện trong thời gian sống bên Paris, một đêm Giao thừa nghỉ diễn, bà cùng em gái là Kim Quang nắm tay nhau dạo chơi trong ánh đèn rực rỡ của kinh đô ánh sáng mà cảm thấy nhớ nhà da diết. Cả hai hướng về quê nhà, không chỉ nhớ má và em, nồi thịt kho dưa giá mà còn nhớ quê hương, sân khấu, khán giả. Khi hai chị em vào quán cà phê gọi hai tách trà nóng uống cho ấm bụng, lấy ra mấy thứ mứt mang theo để nhấm nháp thì cảnh quê hương trên máy truyền hình được bật lên với cảnh bom rơi đạn nổ khiến cả hai vội vã ra về, lòng đau xót. Về tới nhà, nằm nghe khúc dân ca lại trào nước mắt và bà thấy một niềm thương dâng trào như men say, như sóng ngầm, xao động từ trong sâu kín của tâm hồn và sau đó đánh điện xin má cho trở về ngay và lòng nguyện gắn bó không bao giờ rời bỏ quê hương.

Mảng thơ trên báo Xuân, có bài nằm trong trang mục hẳn hoi, có bài được đệm vào chỗ trống của trang. Đọc báo Xuân xưa, thường nhặt được những bài thơ hay, nhiều câu thơ hàm súc, cảm động. Thơ của các tác giả như Vũ Anh Khanh, Tạ Ký, Viễn Châu, Lê Minh Ngọc, Thanh Nam, Đinh Hùng, Kiên Giang, Hoàng Hương Trang... luôn buồn, cái buồn man mác trước một mùa xuân đẹp khi con người còn nặng nỗi hoài hương, thương xót cho quê nhà đang cảnh chiến tranh hay nhớ về cảnh sum họp đã không còn. Xin trích dẫn vài khổ thơ hay:

Lòng riêng nào những xuân hay Tết

Dứt áo ra đi một chuyến này

Những chuyện tâm tình không tỏ được

Hoa đào trước cửa lả lơi bay...

Bỗng nhiên trời đất đem xuân lại,

Mùa mới dâng hương ngập luống cày

Chim hót bình minh, hoa đón gió

Và người sực tỉnh một cơn say.

( Xuân về thương nhớ với ai đây – Tạ Ký. Đời Mới Xuân 1955)

Tôi vẫn lái cuộc đời tôi trên những con đường quen thuộc

không mây

Dù mùa lá rụng hay dù tiếng kèn nửa đêm có căng buồm thổi

đến Honolulu nhiều gió

Xa rồi Việt Nam Đà Lạt và cà phê Tùng cuối năm

Anh gục đầu trong hầm cà phê Figaro Nữu Ước

Chuyến ô-tô-buýt của đời tôi vẫn chạy hoài

Trên những con đường Mỹ châu trống rỗng.

(New York, tháng 11, 1965 – Phạm Công Thiện. Văn Xuân 1966)

Các cây bút nổi tiếng thường viết cho báo Xuân miền Nam trước đây có Vương Hồng Sển, Tùng Lâm, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Võ Phiến, Vũ Hạnh, Bà Tùng Long, Việt Tha, Tô Nguyệt Đình, Song Thao, Ngọa Long... Các báo Tự Do, Sáng Dội Miền Nam, Tiền Tuyến… có nhiều bài vở của các cây bút gốc Bắc. Một số cây bút thường thấy xuất hiện trên báo Xuân thập niên 1970 như Trường Kỳ chuyên viết về nhạc trẻ và đời sống giới trẻ, Trần Trọng Thức viết về kinh tế và bình luận thời cuộc. Danh sách còn rất dài, ở đây chỉ xin nêu vài cái tên nổi bật còn nhớ.

Minh họa của họa sĩ Tạ Tỵ trên Tạp chí Sáng Dội Miền Nam.

Các nhà văn, nhà thơ từ ngoài Bắc, Trung vào Nam tham gia viết báo trong một thời gian ngắn hoặc định cư ở đây đã góp phần làm phong phú văn chương trên báo chí miền Nam. Thời gian từ khoảng thập niên 1920 cho đến 1945, đó là Tản Đà, Đào Trinh Nhất, Phan Khôi, Tùng Lâm Lê Cương Phụng, Bùi Thế Mỹ, Hồng Tiêu, Nguyễn Bính... Họ không chỉ để lại tác phẩm mà còn những giai thoại về mình, nhất là Tản Đà, Nguyễn Bính, Phan Khôi. Sau đó là lớp nhà văn nhà thơ từ miền Bắc vào Nam sinh sống từ năm 1954 khá đông, mang sinh lực bổ sung vào làng văn chương báo chí miền Nam. Họ làm những tờ báo và tạp chí mang sắc thái riêng của đất Hà Nội hào hoa trước kia như Văn Hóa Ngày Nay, Sáng Tạo, Tự Do... viết những bài văn, thơ sâu sắc, nặng suy tưởng, hoặc có hơi hướng hiện đại như Nhất Linh, Vũ Bằng, Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Nhật Tiến, Tạ Tỵ...

Có những nhân vật của báo chí Sài Gòn nay đã bị quên lãng, dù họ có một thời viết báo sôi nổi như Phan Thứ Khanh, Bùi Thế Mỹ, Ngọa Long Nguyễn Kim Lượng... Riêng về Phan Thứ Khanh, báo Tin Điển Xuân Ất Mùi 1955 có bài viết Những mặt tài tình trong làng báo cũ của Ngô Thị Đào Hồng rất tôn kính khi nhắc đến ông, một người có khí tiết, thanh bạch, con của tiến sĩ Phan Quang trong “Ngũ phụng tề phi” đất Quảng Nam. Phan Thứ Khanh có tài làm thơ và dịch thơ. Khi Đào Trinh Nhất làm tờ báo Mai có nhờ ông làm bài ca trù đặt ngoài bìa số Xuân. Năm sau, ra báo Xuân, Đào Trinh Nhất lại dùng in trên bìa lần nữa, được ấn loát rất đẹp. Lần nào ông Nhất cũng trả nhuận bút hậu hĩnh đến nỗi được coi là kỷ lục thời đó. Tác giả bài viết còn cho biết thi thoại và thi phẩm của Phan Thứ Khanh rất nhiều, có thể sưu tầm đủ ra một cuốn sách.

Qua các trang báo Xuân, phát hiện ra vài điều thú vị: Soạn giả Viễn Châu từng làm thơ, viết truyện. Họa sĩ Duy Liêm, chuyên vẽ mẫu sơn mài, bìa nhạc và tranh lập thể cũng có vẽ biếm họa, khá sinh động và có ý. Họa sĩ Lê Trung, chuyên vẽ bìa báo và minh họa có viết văn, kể chuyện khá hay về Châu Đốc quê ông. Nhà báo Lê Phương Chi, chuyên phỏng vấn nghệ sĩ cũng là người lấy số tử vi các nghệ sĩ để đăng trên báo.

Báo Xuân ngày xưa đạt một vị trí trong lòng người đọc, được đón mua, nên giới nghệ sĩ cũng bắt chước làm… báo Xuân, được thuật lại trên báo Xuân Thời Nay năm Kỷ Dậu 1969. Nghệ sĩ viết báo Xuân kể về chuyện đời, chuyện nghề của họ trên đường nghệ thuật. Độc giả rất thích thú khi đọc những tờ báo Xuân độc đáo này, vì qua đó có thể hiểu thêm tâm tình của những nghệ sĩ mà họ hâm mộ. Năm 1955 và 1956 có hai số báo Xuân do nghệ sĩ Tường Vi chủ biên, có phần lý lịch về các đào kép và soạn giả cải lương. Năm 1961, một ký giả tên là Thanh Khiêm nhảy vào làm tờ báo Xuân Cải Lương. Qua năm sau 1962, nghệ sĩ Thành Được làm tờ Xuân Cải Lương thứ hai, được cho là “rất đáng khen về mặt kỹ thuật” .

Báo Xuân Sài Gòn xưa, trên suốt chặng đường 45 năm từ 1930 đến 1975, tải được phần nào những điểm nổi bật của đời sống xã hội của thành phố nhiều biến động này, qua những bài báo, truyện ngắn, bài thơ, tranh ảnh chọn lọc, chân tình, sắc bén, đầy cảm xúc với bao nhiêu suy gẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời trong đó và chứa nhiều tư liệu quý. Còn là người Việt, ít nhiều chúng ta còn có cảm xúc trước mùa xuân, trước cái Tết và hoài vọng những chân trời cũ đã trôi xa. Mỗi dịp đọc báo Xuân xưa, những điều đó lại sống dậy.

Nhà văn Đỗ Phương Khanh giới thiệu báo Thiếu Nhi Xuân 1972 trước chợ Bến Thành. Tư liệu gia đình nhà văn Đỗ Phương Khanh.

Diện mạo báo Xuân

Bìa loại ấn phẩm này hầu hết là bức tranh vẽ thật đẹp, hoặc ảnh chân dung các nữ tài tử, diễn viên. Tranh vẽ luôn thể hiện những gì tượng trưng cho Tết như nhành mai vàng, bộ lư đồng và mâm ngũ quả, ngôi chùa cổ với người đi hái lộc, con vật tượng trưng cho năm Âm lịch đang tới. Nhiều bức tranh gợi lại không khí êm đềm của cuộc sống ngày xưa như thiếu nữ mặc áo dài bên hoa xuân, thôn nữ bên hàng dừa, gia đình tưng bừng bên nhau ngày Tết với mai vàng, đào thắm, thủy tiên xinh, bao lì xì. Dù tranh hay ảnh, nhân vật trung tâm hầu hết là các thiếu nữ, nhân vật gắn liền với mùa xuân, duyên dáng trong tà áo dài. Hiếm có bìa báo gắn với chuyện thời sự đang diễn ra, trừ vài bìa báo những năm đầu thập niên 1970 liên tục đưa hình ảnh chim bồ câu, tượng trưng cho sự khát khao hòa bình. Dù sao, báo Xuân là dịp tạm quên những trăn trở, nhọc nhằn của cuộc sống trần trụi mà tờ báo phản ánh cả năm qua.

Dù không xem được nhiều báo Xuân phát hành ở miền Nam trong khoảng thời gian 1930 – 1940 nhưng qua các số Phụ Nữ Tân Văn Xuân đầu thập niên 1930 đến khi đình bản năm 1935, cùng vài tờ khác như Công Luận, Nam Kỳ Tuần Báo, Kiến Thiết… chúng tôi xin nêu vài nhận xét về việc trình bày bìa báo Xuân thời ấy.

Qua báo Phụ Nữ Tân Văn, có thể thấy báo chí miền Nam lúc ấy đã mời các họa sĩ miền Bắc tham gia vào phần mỹ thuật. Họa sĩ Trần Quang Trân, Lê Yên của trường Mỹ thuật Đông Dương phụ trách “hội họa” (hiểu là phần thiết kế mỹ thuật) của báo.

Trong năm 1933, báo Phụ Nữ Tân Văn mặc dù mới ra được ba số báo Xuân đã mở một cuộc thi vẽ bìa báo Xuân năm 1934. Đến số báo 229 (ra ngày 21.12.1933), báo đăng danh sách dự thi và thông báo là đến ngày 25 tháng 12 chấm xong sẽ trưng bày các mẫu tranh dự thi tại nhà in Jh Nguyễn Văn Viết. Danh sách dự thi gồm 42 người, cho thấy có đủ thí sinh các nơi gửi tranh về, xa nhất có tới 2 người tận Cao Bằng, 7 người ở Hà Nội, vài người ở Hà Đông, Phúc Yên. Trong Nam đông hơn, tập trung nhiều nhất ở Gia Định 7 người, Sài Gòn 3 người và từ các nơi khác như Chợ Lớn, Tây Ninh, Sa Đéc, Tân An, Cần Thơ… Cuối cùng, tòa soạn chấm bức tranh của họa sĩ Nguyễn Cát Tường, tự Lemur, tốt nghiệp trường Mỹ thuật Đông Dương, được giải nhất. Giải nhì trao cho ông Nguyễn Duy Tân, trường Mỹ nghệ Thủ Dầu Một. Bìa báo Xuân năm đó rất thơ mộng, với ba cô gái bận áo dài ngồi trên thuyền ngang qua bóng của một cây mai trắng cổ thụ đang nở đầy hoa. Dù trong điều kiện in ấn đơn giản của thời đó, dưới tay họa sĩ có tiếng từng sáng tạo ra chiếc áo dài, bức tranh hiện lên cảnh chơi xuân êm đềm bằng tông màu nhẹ nhàng, hài hòa như trong một giấc mơ xuân êm ả. Có thể nói đây là một bìa báo đẹp trong làng báo Xuân Việt trăm năm qua.

Bìa Xuân Phụ Nữ Tân Văn 1934 với tranh của họa sĩ Lemur Cát Tường.

Báo Công Luận năm Bính Tý 1936 thể hiện trên bìa hình ảnh người phụ nữ miền Nam bới đầu trong trang phục áo dài ôm sát thân hình. Bìa báo thể hiện một bài “đinh” đứng tên bổn báo có tít là Y phục của phụ nữ có cần cải cách không? và khẳng định là có. Thời điểm đó, áo dài Lemur chỉ mới phổ biến không lâu từ Bắc vô Nam, chứng tỏ tư duy làm báo nhanh nhạy và quan điểm cổ vũ sự tân tiến của tòa báo.

Đến thập niên 1940, có lẽ ảnh hưởng chiến tranh, báo Xuân xuất hiện với bìa báo đơn giản, không được chăm chút. Bìa báo Nam Kỳ Tuần Báo năm 1944, Kiến Thiết năm 1947 vẽ đơn giản, màu sắc đơn giản. Đến cuối thập niên này, có hiện tượng báo Xuân đua nhau xuất bản, không chỉ từ các tòa soạn báo mà từ các nhà xuất bản như Nam Cường, Tân Việt... và từ các tổ chức tôn giáo.

Qua giai đoạn đầu những năm 1950, bìa báo Xuân ở Sài Gòn đã cố gắng cuốn hút độc giả với nhiều màu sắc rực rỡ. Có nhiều bìa báo như một bức tranh xinh tươi như báo Tiếng Dội, Thần Chung, Dân Quí cùng ra Tết Tân Mão 1951. Báo Dân Quí Xuân Tân Mão 1950 mời được họa sĩ học trường Mỹ thuật Đông Dương là Mai Trung Thứ vẽ bìa cho mình dù ông ở Paris. Từ năm 1954, ở Sài Gòn, sau những năm chiến tranh là khoảng thời gian kiến thiết miền Nam. Kinh tế khởi sắc hơn, làm ăn thông thoáng hơn, giáo dục phát triển và sách báo phát hành nở rộ với nhiều nhà xuất bản và tòa báo mới thành lập. Báo Xuân giai đoạn này xuất hiện những tờ có manchette lạ, sau này không còn thấy nữa, như các tờ Dân Quí, Việt Thanh, Xuân Việt Nam, Thanh Bình… bên cạnh các báo quen thuộc như Tiếng Chuông, Thần Chung, Mới, Tiếng Dội. Lúc đó, bìa báo hầu hết sử dụng tranh vẽ, nhiều bìa rất đẹp, trang nhã như bìa báo Tự Do (họa sĩ Phạm Tăng vẽ), bìa báo Tin Điển (họa sĩ Tú Duyên vẽ), Tiếng Chuông… Đặc biệt, các báo có tranh của họa sĩ Lê Trung bán rất chạy.

Hai tranh bìa báo Xuân của họa sĩ Lê Trung.

Thời kỳ này, một số báo như Quê Hương, Việt Thanh, Ánh Sáng, Dân Tộc Hòa Bình, Đời Mới... dùng ảnh thiếu nữ làm bìa, tuy nhiên do hạn chế về kỹ thuật in tráng phim màu, hầu hết các bìa báo là ảnh đen trắng được tô màu, số ít dùng ảnh đen trắng nhưng đặt trong khung tranh màu sắc sặc sỡ in typo, như bìa báo Hương Xuân số Xuân Đinh Dậu năm 1957, in chân dung của nghệ sĩ Kim Cương. Lúc này, kỹ thuật tô màu lên ảnh đen trắng bằng màu dầu được ưa chuộng từ sáng chế của ông Nguyễn Hữu Quý ở tiệm ảnh Văn Hoa Photo.

Nửa đầu thập niên 1960 là thời kỳ phong phú nhất về cách thể hiện bìa báo Xuân. Các báo thương mại như Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới, Phụ Nữ Ngày Mai, Phụ Nữ Diễn Đàn tiếp tục khai thác mạnh mẽ tranh bìa của họa sĩ Lê Trung rồi Lê Minh. Báo Tự Do in tranh bìa của họa sĩ Phạm Tăng, Nguyễn Gia Trí, có cả kiểu tranh trổ giấy lạ mắt. Tạp chí Ánh Đèn Dầu dùng tranh lập thể của họa sĩ Tạ Tỵ làm tranh bìa. Các họa sĩ vẽ tranh bìa đắt giá của thời kỳ này là Lê Trung, Lê Minh, Duy Liêm, Thái Văn Ngôn. Ảnh nữ nghệ sĩ lúc này đã in màu đẹp hơn, đưa nhiều chân dung các nghệ sĩ có tiếng như Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, Thanh Nga. Tiệm ảnh Bình Minh ở đường Bùi Thị Xuân (của đạo diễn Lê Dân) và tiệm ảnh Viễn Kính của ông Đinh Tiến Mậu ở đường Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu nay) cung cấp nhiều chân dung đẹp để làm bìa báo.

Một số giai phẩm Xuân dùng ảnh chụp nữ nghệ sĩ làm bìa.

Từ năm 1965 đến 1975, nhìn chung mỹ thuật trên bìa báo Xuân không còn đặc sắc như trước, dù vẫn thấy thấp thoáng những bìa báo đẹp. Điều đó phản ánh sự thiếu ổn định của nền kinh tế, chiến cuộc leo thang nên nhiều người tài ở mọi lãnh vực phải ra chiến trường, sự thiếu hụt giấy in ảnh hưởng đến hình thức báo chí Sài Gòn. Giai đoạn từ 1970 đến 1975 xuất hiện nhiều tờ báo in ấn lem nhem, giấy mỏng manh, thiết kế bìa sơ sài, minh họa ít, nét vẽ rất nghiệp dư và thậm chí không có minh họa, tranh biếm thì dùng của tạp chí nước ngoài cho đỡ chi phí. Hình ảnh trên bìa giai đoạn này dùng nhiều ảnh nghệ sĩ, ngoài Thẩm Thúy Hằng có thêm các nghệ sĩ như Minh Hiếu, Diễm Thúy, Mộng Tuyền, Phương Hoài Tâm, Kim Loan… Một số bìa báo Xuân cố gắng duy trì tính mỹ thuật cao, trở lại dùng tranh vẽ làm bìa như báo Sóng Thần, Sống. Một số báo khác dàn dựng ảnh chụp hình tượng chim bồ câu các kiểu, thể hiện khát vọng hòa bình giữa giai đoạn khói lửa chiến tranh ngất trời.

Tuy nhiên, năm năm đầu thập niên 1970 lại đánh dấu sự phát triển về hình thức, bao gồm kỹ thuật trình bày, bìa báo, minh họa của các tạp chí, tuần báo dành cho thiếu nhi, học sinh như Tuổi Hoa, Thiếu Nhi, Tuổi Ngọc, Ngàn Thông… với những họa sĩ có tài được hỗ trợ bởi kỹ thuật in ấn đã rất phát triển. Nổi bật trong đó có họa sĩ ViVi, một họa sĩ tốt nghiệp trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn có kỹ thuật hình họa rất vững, tạo hình đẹp, sinh động và sáng tạo, rất gần gũi với thị hiếu thẩm mỹ giới học trò đô thị miền Nam. Ông vẽ bìa báo, minh họa, tranh vui… trên các tuần báo Tuổi Hoa, Thiếu Nhi, Ngàn Thông. Trên báo Tuổi Ngọc, họa sĩ đồng thời là nhà văn Đinh Tiến Luyện vẽ nhiều tranh bìa, minh họa đẹp và dễ thương, gây cảm xúc, đặc biệt đáng nhớ là hình tượng thiếu nữ với đôi mắt nai to tròn. Cho đến giờ, tranh vẽ của hai họa sĩ này vẫn được nhắc nhở, lưu truyền trên các trang báo điện tử và mạng xã hội.

Tranh minh họa trên báo Xuân

Đầu thập niên 1930, tranh minh họa xuất hiện lai rai trên tờ báo Xuân có mặt rất sớm ở miền Nam là báo Phụ Nữ Tân Văn 1930. Tranh minh họa thường khổ rất nhỏ, có khi không ăn nhập đến nội dung như hình một con thuyền, một bình hoa, con chim én, chỉ để lấp khoảng trống còn dư dưới một cột báo. Đến số Xuân 1932, chỉ có một hoặc hai bài nổi bật trong tờ báo có thêm tranh minh họa khổ lớn, vẽ kỹ, sát nội dung bài, nhưng cách thể hiện bố cục chặt chẽ giống một bức tranh hơn là minh họa. Đến số Xuân 1934, có sự tham gia vẽ bìa và minh họa của họa sĩ Lemur Cát Tường, với những bức tranh sinh động và mềm mại hơn.

Đến đầu thập niên 1950, trên các tờ báo Xuân ở Sài Gòn thể loại này bắt đầu được chú ý hơn, xuất hiện nhiều hơn. Một số họa sĩ trường Mỹ thuật Đông Dương như Mạnh Quỳnh, Hoàng Tích Chù, Tú Duyên lúc đó có vẽ minh họa cho báo Sài Gòn Mới số Xuân 1952, báo Mới số Xuân Quý Tỵ 1953... Khách quan mà nói, số tranh này không bắt mắt lắm, ít chi tiết và nét vẽ còn sơ sài dù tác giả là họa sĩ nổi tiếng (có thể do quan niệm của họ về vai trò của tranh minh họa). Tuy nhiên, từ lúc đó đã xuất hiện những họa sĩ mới tuy chưa được biết tiếng nhưng vẽ rất đẹp, rất mới. Trong số đó, có nhiều họa sĩ xuất thân từ trường Trang trí Gia Định, có vài người tuy không học trường lớp nhưng có năng khiếu tham gia.

Minh họa của Lemur trên báo Phụ Nữ Tân Văn Xuân 1934.

Từ giữa thập niên 1950 và suốt thập niên 1960, có thể nói là thời kỳ dài có nhiều giai phẩm Xuân mang hình thức đẹp nhất vì từ bìa đến ruột, vai trò của tranh vẽ được đẩy mạnh hết mức do lúc đó kỹ thuật in ảnh chụp chưa đạt tới mức rõ đẹp. Điều này thể hiện sự quan tâm của giới chủ báo đến tính mỹ thuật của tờ báo như một cách thu hút độc giả quan trọng. Sự chuyển hướng trong tổ chức thực hiện báo Xuân lúc đó, như mở rộng khổ báo, tăng số trang lên để tăng hàm lượng nội dung bài vở nhằm thu hút độc giả mua báo đã dẫn đến sự lên ngôi của tranh minh họa. Vì nội dung báo Xuân là món quà văn nghệ tâm tình, nhìn lại đời, nhìn lại mình, do đó, truyện ngắn được dùng nhiều, hồi ký hay chuyện kể luôn có. Những bài viết dạng này khá dài, đọc mệt mắt lại khó theo dõi nên cần có tranh minh họa. Tranh minh họa thu hút độc giả khi mới thoáng nhìn trang báo, sau đó giúp độc giả cảm nhận sâu hơn nội dung bài viết. Có tờ báo dày đặc tranh ảnh minh họa như Sài Gòn Mới Xuân 1955 có tới 21 tranh, 15 ảnh chưa kể vài tranh biếm họa.

Giữa thập niên 1950, minh họa trên báo Xuân khá phong phú, nhiều bức mang tính mỹ thuật cao. Có thể xu hướng minh họa được chăm chút kỹ trên các báo Pháp, Mỹ du nhập vào Sài Gòn đã tác động lên giới họa sĩ. Điểm qua tên tuổi một số họa sĩ minh họa gắn với từng tờ báo phát hành hàng ngày và dịp ra báo Tết: báo Ánh Sáng năm Canh Dần 1950 có các họa sĩ Bình Thành và Mai Hoàng Minh; báo Tiếng Chuông 1951 có các họa sĩ Thế Chương, Hưng Hội, Nguyễn Văn Mười, Bình Thành. Ngoài ra, có họa sĩ Phan Khánh vẽ cho tờ Buổi Sáng; họa sĩ Diệp Đình ảnh hưởng báo Pháp vẽ rất Tây, sẵn sàng chạy sô, ai kêu gì vẽ nấy. Họa sĩ Lê Phan rất xông xáo ở lĩnh vực này, vẽ nhiều tranh minh họa đẹp, sinh động. Trên báo Điện Báo Xuân Canh Dần 1950, ông vừa vẽ biếm vừa minh họa hơn chục bức. Họa sĩ Hiếu Đệ là tay minh họa có tầm cỡ, vẽ đẹp, sinh động và ý tứ sâu sắc. Thỉnh thoảng có tranh minh họa của họa sĩ Mai Hoàng Minh trên báo Lửa Sống Xuân Canh Dần. Họa sĩ Lê Trung, họa sĩ chuyên vẽ bìa cũng tham gia minh họa nhưng không nhiều, thỉnh thoảng tham gia một bức đơn lập được đóng khung trang trọng. Đến cuối thập niên này, nhiều bức minh họa trên báo Tự Do của người miền Bắc di cư vào mang tính mỹ thuật cao, trong đó có tranh của họa sĩ Ngọc Dũng và những bức không ký tên, có thể của họa sĩ Phạm Tăng. Tranh minh họa của Ngân Hà, một họa sĩ gốc Bắc cũng thường xuất hiện có nét duyên dáng riêng.

Đến đầu thập niên 1960, các tòa báo có trong tay nhiều họa sĩ vẽ đẹp, hợp thị hiếu độc giả nên cho phép kích thước tranh minh họa lớn dần để thu hút người xem. Có bức kéo dài từ đầu đến cuối trang giấy, chiếm cả một phần ba chiều đứng của trang báo khổ lớn, chừa phần còn lại cho bài. Minh họa thường được bố trí trên trang báo gồm tranh vẽ quanh tít bài và ô tranh minh họa theo nội dung bài. Đội ngũ họa sĩ vẽ minh họa tăng dần theo sự phát triển của báo chí về số lượng và sự quan tâm của giới chủ báo, đội ngũ càng đông thì cách thể hiện phong phú và đa dạng hơn, tỉa tót kỹ càng hơn trước. Có nhiều họa sĩ ăn lương cao chỉ chuyên vẽ minh họa. Thời gian này, người đọc chú ý đến những bức minh họa mang sắc thái lạ xuất hiện trên tạp chí Sáng Dội Miền Nam của Tạ Tỵ, người từng học trường Mỹ thuật Đông Dương và là họa sĩ tiên phong theo trường phái lập thể ở Việt Nam. Minh họa của ông đường nét đơn giản nhưng tính biểu hiện cao, hiện đại và sang trọng, phù hợp với thị hiếu của người có học. Tranh đẹp, lại được in màu càng đẹp.

Một họa sĩ minh họa khác được chú ý nhiều, đó là Lê Minh. Ông tốt nghiệp trường Mỹ nghệ Thực hành Gia Định, chuyên minh họa và vẽ bìa báo từ trước và sau năm 1960. Ông vẽ rất sung sức, hình tượng nhân vật luôn là những cô gái đẹp mắt to, vóc dáng cân đối, những thanh niên đẹp trai với mái tóc bồng. Nhân vật của Lê Minh tả hao hao giống nhân vật của họa sĩ Lê Trung nhưng “bốc” hơn, được tả chi tiết từ mái tóc đến bàn tay, nếp gấp tà áo đến đôi bông tai. Lúc đó, giấy in báo dồi dào và có chất lượng tốt nên tranh ông vẽ được in ấn sắc sảo, đến giờ còn thấy đẹp. Do cách vẽ tả thực của Lê Minh bắt mắt, phù hợp với thị hiếu thẩm mỹ của giới bình dân nên các báo mang tính thương mại như Tiếng Chuông, Sài Gòn Mới, Phụ Nữ Diễn Đàn, Phụ Nữ Ngày Mai rất chuộng và tranh của ông góp phần giúp các loại báo này bán chạy. Trên một tờ báo Xuân của Phụ Nữ Diễn Đàn, Lê Minh vẽ tới 22 bức minh họa. Có bức tràn cả trang báo.

Năm 1969, sau khi chiến cuộc lắng dịu, có sự hồi sức mạnh mẽ trên báo Xuân Sài Gòn với nhiều bài có nội dung hay, minh họa đẹp. Đặc biệt năm này, báo Xuân có nhiều minh họa mang tính mỹ thuật cao là giai phẩm Xuân Chính Luận. Rất tiếc là các bức minh họa trên báo này không ký tên tác giả.

Từ 1970 đến 1975, kinh tế ngày càng khó khăn, giá giấy tăng, chiến cuộc căng thẳng, công nhân nhà in, họa sĩ thiếu hụt nên hình thức báo Xuân khổ lớn của các nhật báo giai đoạn này xuống thấy rõ. Tranh minh họa ít hẳn đi. Điển hình như giai phẩm Xuân Công Luận năm Canh Tuất 1970 in trên giấy xấu và mỏng, minh họa sơ sài. Báo Ngôn Luận Xuân Tân Hợi 1971 có vài minh họa bé xíu. Báo Hòa Bình in lem nhem, minh họa nhỏ như hộp diêm. Đến báo Điện Tín Xuân Nhâm Dần 1974 thì không có bức minh họa nào cả, toàn chữ là chữ.

Tuy nhiên, trên các tạp chí khổ nhỏ như Văn, Nghệ Thuật, Thời Nay... phần mỹ thuật vẫn được chăm chút. Đặc biệt, các số báo Xuân có bìa và minh họa đẹp, nhờ sự cộng tác của các họa sĩ có tiếng đương thời như Duy Thanh, Ngọc Dũng, Nguyễn Trung, Đinh Cường... Phải chăng vì các tạp chí này đã tạo được cho họ những sân chơi văn nghệ nhẹ nhàng giữa thời buổi kinh tế khó khăn và chiến tranh song hành? Cũng thời gian này, nhờ có họa sĩ ViVi trên báo Tuổi Hoa và Thiếu Nhi, họa sĩ Đinh Tiến Luyện trên báo Tuổi Ngọc mà các báo dành cho tuổi nhỏ này vẫn đẹp nhờ in nhiều tranh minh họa, tạo dấu ấn đậm đà trong lòng độc giả học sinh.

Phụ bản tranh Ngọc Dũng, Nguyễn Trung, Duy Thanh trên tạp chí Văn số Xuân Giáp Dần 1974.

Lần giở trên hai trăm tờ báo Xuân trải dài suốt hơn ba mươi năm trước 1975, chúng tôi thấy có hiện tượng nhiều bức tranh không ghi tên tác giả nhưng lại có tên... cơ sở làm bản kẽm như Cliché Dầu hay Cliché Trung. Điều đó cho thấy kỹ thuật in ấn, làm bản kẽm tranh ảnh để in trên báo rất được coi trọng.

Tranh ảnh, minh họa trên báo Xuân xưa có thể xem là loại mỹ thuật bình dân dành cho đại chúng, giúp phổ cập và nâng cấp cảm thụ mỹ thuật. Ở thể loại tranh này, người đọc thấy được tay nghề vẽ minh họa của các họa sĩ thời đó, những ảnh hưởng của họ từ tài liệu nước ngoài và ảnh hưởng lẫn nhau. Minh họa làm thăng hoa nội dung bài vở, giúp độc giả đương thời và cả người đọc hôm nay hình dung rõ hơn cuộc sống muôn màu của người thế hệ trước.

Biếm họa

Biếm họa trên các giai phẩm Xuân ở Sài Gòn đã có từ đầu thập niên 1930. Đến những thập niên sau đó xuất hiện nhiều hơn trên các ấn phẩm Xuân so với trên báo ngày. Loại tranh này có vài đặc điểm riêng.

Giống như nội dung báo Xuân dồi dào tính văn nghệ, đọc để thư giãn, hồi tưởng, biếm họa ở đây tập trung nhiều vào mục đích giải trí, cung cấp cho độc giả những giây phút thư giãn trong ngày xuân khi xem tờ báo đặc biệt mỗi năm ra một lần. Các biếm họa liên quan đến thời sự xã hội, chuyện chính trị, đả kích cũng có trên báo Xuân nhưng không nhiều vì đã thường có trên báo ngày. Tranh biếm họa còn dùng để lấp chỗ còn dư cuối trang khi bài đã hết.

Biếm họa rải rác từ đầu đến cuối số báo Xuân. Một số tờ dành cả trang hoặc có khi hai trang, vẽ một chùm tranh với rất nhiều nhân vật, chuyện trò với nhau, bàn đủ mọi vấn đề đang diễn ra hay vừa xuất hiện trong năm qua, từ chuyện kiếm sống, quan hệ xã hội đến chuyện chính sách nhà nước.

Từ thuở ban đầu của báo Xuân miền Nam, trên báo Phụ Nữ Tân Văn Tết 1930 đã có vài bức biếm họa của họa sĩ Trần Quang Trân và Nguyễn Thành Vinh, được chú thích bằng… thơ, trích từ bài Chúc Tết của Tú Xương chế giễu thói học đòi của thị dân miền Bắc thời đó, thể hiện bằng hình vẽ sơ sài. Số 1932 không có bức biếm họa nào. Đến số Tết 1933, bất ngờ xuất hiện chỉ một bức biếm khá sắc sảo vẽ hai nhân vật đang nổi đình nổi đám là Tản Đà và Phạm Quỳnh, một ông đang ngất ngưởng say bên đống vỏ chai rượu, một ông bận áo dài khăn đóng đập vỡ chai rượu, dưới hai câu thơ: “Trăm năm trong cõi người ta/ Ông Quỳnh ông Hiếu khéo là cợt nhau” . Người vẽ là Tứ Ly, có thể là nhà văn Hoàng Đạo (sau này có tranh minh họa trên báo Ngày Nay).

Biếm họa về Tản Đà và Phạm Quỳnh do Tứ Ly vẽ.

Đến số báo 1934, cải tiến hình thức rõ rệt, có sự tham gia về mỹ thuật của họa sĩ Lemur Cát Tường, vẽ từ bìa báo đến minh họa, biếm họa. Những bức biếm họa của ông khá sinh động, nội dung nhẹ nhàng gần gũi.

Biếm họa của Lemur trên báo Phụ Nữ Tân Văn Xuân 1934.

Báo Công Luận Tết Bính Tý 1936 có nhiều bức biếm họa vẽ khá chi tiết về các cuộc đối thoại của vợ chồng thuộc giới thượng lưu trong xã hội với trang phục lịch sự, lời nói của người có học, nhà cửa tươm tất. Qua đó, cùng với bài vở trong tờ báo, có thể thấy đối tượng báo hướng tới là tầng lớp trên của xã hội đang hướng tới cuộc sống tân tiến. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Nam Kỳ cũng được thể hiện trên báo Xuân qua tranh biếm thời kỳ này.

Từ cuối thập niên 1940 trở về sau, khoảng thập niên 1950, tranh biếm trên báo Xuân xuất hiện nhiều hơn trước đó, do vài họa sĩ xuất thân từ trường Mỹ thuật Đông Dương và Mỹ nghệ Thực hành Gia Định vẽ. Thời gian này, tranh tập trung cười cợt, chế giễu những tính cách lôi thôi, sĩ diện hão, thói hư tật xấu của con người hay cách sống phi đạo đức trong hôn nhân, trong đối nhân xử thế, trong quan hệ giữa con người với nhau.

Đầu thập niên 1950, vẫn còn dư âm của thời làm giai phẩm Xuân hồi trước 1945, với sự xuất hiện của hai nhân vật Xã Xệ và Lý Toét – “siêu sao” của biếm họa Việt Nam thời Pháp thuộc trên báo Phong Hóa và Ngày Nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Xuất hiện trên báo Điện Báo Xuân Canh Dần 1950 hay báo Tiếng Chuông Xuân Tân Mão 1951 vẫn là Lý Toét cao gầy, tóc búi, đầu đội khăn, mặt mày khắc khổ, gò má cao, râu mép tua tủa và Xã Xệ mập lùn, mặt tròn quay, tóc có mỗi một cọng xoắn lò xo... Lý Toét lúc được gọi là cụ Lý, lúc dùng lại tên Lý Toét. Tuy nhiên, sức hút của hai hình tượng này không mạnh nữa, có lẽ không hợp với xã hội miền Nam nên đến khoảng cuối thập niên 1950 thì mất hẳn.

Đến giữa thập niên 1960, ý tưởng châm biếm trên biếm họa mạnh mẽ hơn, phê phán quyết liệt thái độ coi trọng đồng tiền, đạo đức suy đồi và đặc biệt phê phán giới thương gia đầu cơ tích trữ cùng người có chức quyền ăn hối lộ, tham nhũng. Tuy nhiên, dù mang tính phê phán nhưng tranh biếm báo Xuân thể hiện ý tưởng không quá gay gắt và chua cay, giễu cợt nhẹ nhàng chứ không mạnh mẽ và trực diện như biếm họa trên báo ngày. Hình ảnh người nghèo xuất hiện thường xuyên vì họ là nạn nhân của mọi bất công hay là đối tượng chịu nhiều khó khăn trong một xã hội đang bước đầu phát triển dù đang có chiến tranh. Các họa sĩ, phía sau là tòa báo, đứng hẳn về phía người dân bình thường, độc giả thường xuyên của họ. Giai đoạn nửa đầu thập niên 1970, những biến động xã hội như đồng tiền mất giá, đàn áp biểu tình, chiến tranh lan rộng được phản ánh rõ trên biếm họa.

Điểm qua một số tranh biếm trên báo Xuân, chúng ta có thể thấy ý hướng và công phu thể hiện của các họa sĩ:

Bộ tranh Văn nghệ sĩ của Hoàng Lập Ngôn trên báo Ánh Sáng Xuân Tân Mão 1951 cho thấy một góc nhìn duyên dáng của làng báo Sài Gòn thời bấy giờ. Hai mươi chân dung nghệ sĩ nổi tiếng của Hà Nội được phác họa khá dí dỏm và cường điệu đúng tinh thần của chân dung biếm, có thêm lời bình của họa sĩ người Hà Nội vốn là bạn bè thân thiết hay có mối quan hệ quen biết với các nhân vật, giúp người đọc Sài Gòn có cái nhìn bao quát về giới nghệ sĩ miền Bắc cùng thời.

Bộ tranh khá hài hước nhưng chừng mực Tết các giới của họa sĩ Hiếu Đệ trên giai phẩm Tiếng Chuông Tết Ất Mùi 1955 phản ánh một cách nhẹ nhàng những mặt trái của xã hội, cảnh ăn Tết của giới cần lao cũng như tính xấu của một “bộ phận” viên chức chính quyền (hối lộ và hối lộ vặt...). Hơn nửa thế kỷ trôi qua, những tranh này vẫn giữ nguyên tính thời sự.

Các biếm họa trên số Tết 1957 Đinh Dậu, 1960 Canh Tý, 1964 Giáp Thìn thể hiện góc nhìn khá hài hước về lãnh vực giáo dục. Lúc nào cũng vậy, vai trò người thầy và mục đích giáo dục có lẽ là mối quan tâm thường xuyên của người dân.

Tranh Tết 1961 Tân Sửu lần nữa nhắc lại thói “làm chơi ăn thiệt” của viên chức Việt, có lẽ đây là yếu tố chính ảnh hưởng tới sự phát triển của người Việt và làm bận lòng khá nhiều cây cọ biếm. Tranh Tết 1962 Nhâm Dần nói về những chuyện thường ngày của phụ nữ và tật xấu phổ biến đến tận ngày nay của đàn ông Việt: “Nhậu!”.

Tranh biếm trên báo Xuân cho đến giai đoạn này thường xoay quanh những chuyện hài hước ngày Tết, ít nhiều cho người đọc cảm nhận được không khí Tết tiêu biểu của dân Sài Gòn – Gia Định từ thương gia cho tới người lao động chạy ăn từng bữa một.

Tranh biếm đầu thập niên 1970 đến Tết 1975 mang đến cho người đọc một cảm giác bất an. Hình ảnh vòng rào thép gai trên đường phố và người thành thị lẫn nông thôn oằn lưng với lạm phát phi mã có giá trị hơn ngàn lời nói về một cái Tết đầy âu lo, dằn vặt. Lúc đó, biếm họa chính trị xuất hiện nhiều hơn trên báo Xuân với hai “đại gia” làng biếm họa Sài Gòn là họa sĩ Chóe (Nguyễn Hải Chí) và họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành). Trên báo Đại Dân Tộc 1973, họa sĩ Chóe vừa vẽ biếm họa, vừa vẽ minh họa và làm cả thơ lục bát. Họa sĩ Chóe khi vẽ minh họa ký tên thật là Nguyễn Hải Chí, không là thế mạnh nên không sắc sảo như lúc là Chóe. Trên báo này còn có chùm tranh Gia đình ông Ký Râu của họa sĩ Đan Chi. Ký Râu – nhân vật xuất hiện thường xuyên – là một người đàn ông gầy, có ria mép, xoay quanh ông là các nhân vật trong gia đình với đủ chuyện hỉ nộ ái ố.

Biếm họa xã hội của hai kiện tướng trong làng tranh biếm trước 1975: Họa sĩ Ớt (Huỳnh Bá Thành) và họa sĩ Chóe (Nguyễn Hải Chí) trên báo Xuân Điện Tín 1973 (trên) và giai phẩm Thần Chung báo Đại Dân Tộc 1975 (dưới).

Ngoài hai họa sĩ tiêu biểu trên, xin nhắc tên vài họa sĩ: Hiếu Đệ, Lê Phan, Hưng Hội, Phan Phan vẽ cả minh họa lẫn biếm họa. Bên cạnh đó, có các họa sĩ khác như họa sĩ Hĩm, năm 1954 từ Bắc vào Nam với những bức tranh hí họa độc đáo có một không hai trên các báo Chính Luận, Độc Lập, Tiếng Vang; họa sĩ Văn Hiếu vẽ trên tờ Ngôn Luận với hai nhân vật bé Ngôn, bé Luận; họa sĩ Ngân Hà vẽ biếm nhẹ nhàng và có duyên; họa sĩ Phan Phan vẽ truyện tranh và biếm họa. Họa sĩ Ngọc Dũng vẽ trên báo Chính Luận rất đẹp, ký tên Tuýt. Có những bút danh chúng tôi không có điều kiện tìm hiểu về tác giả như Tám Bờm (Gia đình Năm Trật Búa), Cả Tếu, Hòa Thanh, Đức Khánh, v.v...

Một bài viết trên báo Tia Sáng có nêu: “Biếm họa không thể thay đổi được thế giới, nhưng biếm họa có thể mang đến cho chúng ta tiếng cười trí tuệ, tiếng cười mà con người cần có để tự hoàn thiện chính mình” . Hơn thế nữa, khi sống trong một xã hội đầy biến động, những bức tranh biếm họa ít nhiều mang đến nhận thức cho người xem về hiện tình cuộc sống, về những điều cần hoàn thiện ở mỗi người, về nguyên do những khó khăn mình đang gánh chịu, và cả những thói xấu mình đang có... Có khi, nó chỉ mang mỗi tiếng cười vui vẻ, để tiễn đưa năm cũ bộn bề lo toan và bước vào năm mới đầy hy vọng.

Giở chồng báo Xuân xưa, có thể thấy cách trình bày bìa báo, vẽ minh họa và biếm họa, thiết kế trang, kỹ thuật chế bản, in ấn của báo chí Sài Gòn cách nay trên dưới nửa thế kỷ khác xa bây giờ. Dù vậy, chúng ta thích thú nhận thấy rằng bằng những phương tiện đơn giản hơn và tốn nhiều công sức hơn hiện nay, các ấn phẩm này vẫn chuyển tải rất tốt hình ảnh và cảm xúc của một thời đại. Đó là quan niệm về vẻ đẹp phụ nữ, ý thức và khát vọng của người làm báo về hiện tình đất nước, cách châm biếm những thói hư tật xấu của xã hội hay giễu cợt chính mình, sự cảm thông đối với gánh nặng cuộc sống của những người nghèo khó...

Ảnh trên: Họa sĩ Ngân Hà (ngồi) đang vẽ phụ bản tranh vui cho báo Sài Gòn Mới.

Ảnh dưới: Tấm thẻ nhà báo với tư cách là họa sĩ cộng tác do bà Bút Trà, chủ nhiệm báo Sài Gòn Mới, cấp năm 1961. (Ảnh tư liệu gia đình họa sĩ Ngân Hà)