Sài Gòn, Andante Andante Hà Vũ Trọng
Đời sống phong phú hơn việc chỉ gia tăng tốc độ của nó.
(There is more to life than increasing its speed.)
- Gandhi
Đời sống vốn chậm. Nhưng hiện đại hóa và công nghiệp hóa có phải là cuộc chạy đua không ngừng với chiếc đồng hồ?
Sài Gòn, trong tiến trình lịch sử hình thành từ khởi đầu vốn đa nguyên, nó đã tạo được một bức tranh mosaique - nhiều miếng khảm dung hợp đa văn hóa hết sức sinh động. Giờ đây với thế kỉ XXI, qua hơn ba trăm năm nay, nó vươn mình để bắt kịp tiến trình hiện đại hóa và toàn cầu hóa, với tốc độ phát triển hết sức năng động và cũng đầy xao động, nó đang chuyển mình trong tư thế hội nhập vào với nền kinh tế toàn cầu. Những năm 90 - thập niên của sự tăng tốc, thế giới quanh ta chuyển động ngày càng nhanh hơn bao giờ hết. Sài Gòn cũng chịu số phận chung của căn bệnh hối hả, thời gian lúc nào cũng cấp bách. Người ta căng sức ra muốn có năng suất hơn, vì vậy tự dồn nén trong từng phút, từng giờ, từng ngày. Chứng “say nghiện tốc độ” này đối với Sài Gòn dường như vẫn chưa cho thấy tín hiệu thuyên giảm trong thập niên của thế kỉ mới này.
Ngoại trừ, nhờ phong trào du lịch “bụi” Lonely Planet (Hành tinh lẻ loi) hay “du lịch chậm” của thanh niên ngoại quốc, đã hình thành giữa lòng Sài Gòn một khu phố ở quận 1 cho cư dân “Tây balô”, còn lại “Mọi thứ ở Sài Gòn đều siêu tốc; người ta ăn nhanh, chạy xe nhanh, làm việc nhanh và thậm chí không muốn ngủ nhiều”(xem Martha Lackritz, “A Tale of Two Cities” / “Những con thoi giữa hai thành phố”, Saigon CityLife, tháng 1-2/2005). Điều thiệt thòi đối với sinh hoạt văn hóa đường phố của Sài Gòn là ngày nay hầu như không còn thấy bóng người Sài Gòn đi tản bộ trên hè phố nữa. Có phải một phần do lề đường bị chiếm dụng trở thành một loại hình kinh tế vỉa hè quan trọng và tự túc khắp nơi, hay vì cả tốc độ sống của người Sài Gòn ngày càng nhanh hơn? Các nhà văn, nghệ sĩ, nhà báo ngoại quốc và Việt kiều sống và làm việc tại Sài Gòn, nhiều người đã mô tả Sài Gòn theo những cách nhìn riêng rất lí thú qua những chuyện kể, hình ảnh nghệ thuật thị giác, của các tác giả như Sue Hajdu, Jun Nguyen Hatsushiba, Thịnh Lê, Martha Lackritz, Tiffany Chung, Nam Đan,... mỗi người nhìn vào Sài Gòn như nhìn vào lăng kính vạn hoa.
Thế nhưng, Sài Gòn dường như vẫn chưa ý thức về một cuộc chuyển dịch văn hóa mới đang diễn ra ở thế giới bên ngoài, đặc biệt ở các nước hậu kĩ nghệ, giờ những thành phần ưu tú nhất và ý thức nhất tuy còn là thiểu số, nhưng là thiểu số tinh hoa và sáng tạo ngày càng hướng về sự giảm tốc. Hiện tượng văn hóa quan trọng này biểu hiện một ý thức lớn hơn về hạnh phúc hiện tại, về một lối sống giao thế lành mạnh, một bước chuyển dịch văn hóa mới. Một cuộc “Cách mạng Chậm” đang xảy ra.
Từ đầu thập niên 1930, Bertrand Russell trong bài diễn văn “In praise of idleness” (Ngợi ca sự nhàn hạ), ông đã nhận thức và nhấn mạnh tầm quan trọng rất cần thiết của thời gian rảnh rỗi hay giá trị của cái nhàn hạ, thú lười và đã vạch ra tác hại to lớn mà thế giới hiện đại phải trả giá đắt cho sự sùng bái vào tính ưu việt của sự lao động. Trong khi con đường dẫn tới hạnh phúc và thịnh vượng lại nằm trong sự giảm bớt thời giờ lao động một cách có tổ chức, bằng cách tăng năng suất, tăng hiệu quả, và giảm thiểu sự tiêu thụ vô lối.
Thế giới công nghệ bị vướng mắc trong một nền văn hóa tốc độ, khởi đầu từ cuộc Cách mạng Kĩ nghệ ở thế kỉ XVIII, được thúc đẩy bằng sự đô thị hóa và sự gia tăng nhân khẩu, cùng sự gia tăng khốc liệt trong tiến bộ kĩ thuật. Đầu thế kỉ XX, bằng phương pháp tổ chức kĩ nghệ các vận động của cơ thể Taylorism (chủ nghĩa Taylor) ở Hoa Kỳ đưa con người nô lệ vào máy móc, dây chuyền sản xuất. Trạng thái này đã từng bị Charlie Chaplin châm biếm qua phim (Les temps modernes / Thời đại tân kì) .
Trào lưu thế giới sống chậm thách thức mối ám ảnh của con người hiện đại có dục vọng muốn kiểm soát thời gian và vận dụng thời gian nhằm bảo đảm cho những sản lượng và lợi nhuận tối đa. Như vậy có thể xem sự chậm rãi hay thời giờ nhàn rỗi như là thế đối trọng với cái nhận thức xem thời gian như là vận tốc và sự dấn mình vào trong việc lao động để sản xuất vốn tư bản thặng dư.
Những năm gần đây chúng ta nhìn thấy sự trỗi dậy của nhiều trào lưu sống chậm đang hình thành nên dòng chủ lưu, chúng thách đố sự sùng bái tốc độ, bằng một cảm quan hay ý thức mới về sự quân bình giữa làm việc và sống. Ý thức về sự giảm tốc này được xem là bước chuyển đổi mới của văn hóa đô thị. Trào lưu sống chậm là một cuộc cách mạng thầm lặng, bằng nỗ lực liên kết những tiến bộ của thời đại thông tin với một lối sống mang đặc điểm là “cái chậm nội tâm” nhằm tăng chiều sâu cho những mối liên hệ với người khác và với chính bản thân. Những trào lưu này đang lan rộng khắp thế giới, được khởi xướng từ Italia bằng trào lưu Thức ăn Chậm (Slow Food Movement) thay cho Thức ăn nhanh (fast food), trào lưu này từ chối sự xâm lăng của thực phẩm ăn nhanh của Hoa Kỳ vào các thị trấn truyền thống khả kính của đất nước họ. Trào lưu thức ăn chậm còn được tổ chức thành những tương quan cộng hưởng (convivia) mật thiết cùng chia sẻ trong việc ăn chung, chơi chung, sống chung như là ẩn dụ cho linh hồn của thành phố. Họ muốn bảo vệ bữa ăn như là một kinh nghiệm thân mật và chia sẻ, không chỉ đơn thuần là một tiến trình tiêu hóa thực dụng, hoặc thuần chỉ thưởng thức đặc sản của địa phương. Phong trào này cũng đang lan rộng sang nhiều nơi ở Hoa Kỳ. Trào lưu từ Italia này cũng đề xướng dạng đô thị mới là Thành phố Chậm để cổ vũ cho một loại đô thị đầy nhân tính và nhân văn hơn. Những đô thị này khuyến khích người dân đi bộ hoặc đạp xe hơn là lái xe máy hay xe hơi; chủ trương duy trì dạng cửa tiệm bán buôn nhỏ với những sản phẩm địa phương hơn là mua sắm ở các siêu thị hay các shopping mall; tạo những cơ hội cho từng cộng đồng tương tác nhau chứ không sống trong vòng khu biệt. Còn trào lưu Giáo dục Chậm đặt vấn đề đối với lối giáo dục thực dụng được “cài đặt sẵn” cốt nhắm tới kết quả tức thời. Giáo dục Chậm đặt nặng vào tính văn cảnh của tri thức, đồng thời nhắc nhở giáo dục là một tiến trình chứ không phải là một chức năng. Những trào lưu sống chậm khác, phải kể đến Tính dục Chậm (Slow sex) thực hành việc “làm tình chậm” theo phương pháp tính dục mật tông (tantric sex) xem sự kết hợp tính dục với thiền định như là con đường dẫn đến khoái lạc trong sự giác ngộ. Còn trong y khoa trị liệu, ý thức chọn lựa những cách chữa trị giao thế; hoặc tầm quan trọng của cả những công việc rảnh rỗi như đan móc, vẽ tranh, chơi nhạc, vv... Để đối phó với nạn làm việc quá chương trình, quá tải, và nhất là để đối phó với chứng trầm uất (stress), thì sự chậm rãi và điềm tĩnh là phương thuốc sẽ thắng trong cuộc chạy đua này.
Chứng “say nghiện tốc độ” choáng ngợp ngày càng lôi kéo sự chú ý của chúng ta bằng những bảng hiệu to tướng và dầy đặc hơn, những cách quảng cáo ầm ĩ hơn, hình ảnh phô trương hơn, đèn neon chi chít và plastic sặc sỡ hơn. Quảng cáo khắp nơi nhằm gây ấn tượng tối đa đầy những tiếp đầu ngữ “siêu” (như siêu tốc, siêu thị, siêu nhanh, siêu sao, siêu mỏng...). Và sự tràn ngập các loại điện thoại di động trôi cuốn trong dòng người lưu thông ồ ạt, nhất là ở những khu vực đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam. Nếu lí do tồn tại thực sự của điện thoại di động và e-mail ở chỗ chúng có thể cho được sự hồi âm tức thời, thì vấn đề lại nằm ở chính cái “tức thời” ấy. Vì càng ngày chúng ta càng ít thời gian và khoảng cách để mà ánh chiếu hay tư lự. Chúng ta tức thời được tiếp xúc với mọi người ở mọi nơi, nhưng đồng thời bị chiếc điện thoại di động đặt chúng ta lúc nào cũng trong tư thế sẵn sàng mọi nơi mọi chốn. Và kết quả là không chỉ sự dị biệt gần như bị xóa nhòa giữa thời giờ làm việc và thời giờ riêng tư, mà cái trạng thái “tức thời” kia cho ta ảo ảnh rằng mình đang sống trong hiện tại, tưởng đang tiếp cận, hiểu biết khách quan về thực tại mình đang sống “trong” đó. Đây cũng chính là khái niệm différance - một lí thuyết “siêu hình học về sự hiện diện” mà Derrida đặc biệt đưa ra để bào mòn loại lí thuyết suông về sự hiện diện. Différance là khái niệm mang những động cơ ý nghĩa được đan bện giữa difference (sự dị biệt, chẳng hạn về không gian) và defer (sự trì hoãn, như về thời gian). Sự hiện diện chỉ bao gồm và kết hợp giữa kí ức (thuộc những gì đã qua) với sự dự đoán (thuộc những gì sắp tới).
Để minh họa cho lợi ích của sự giảm tốc ở các đại đô thị trên khắp thế giới, có thể nêu ra vô số sách vở, workshop thực tập, các khóa thiền định, luyện tập yoga, khí công đến những phòng tập Siêu chậm, Tính dục Chậm, hoặc chủ trương nhà không xài tivi, dùng thức ăn chậm tại gia. Bất cứ đâu bạn đi, bất kể gì bạn làm, thông điệp luôn là: chậm hơn thường là tốt hơn. Chậm là đẹp: Chậm rãi như là văn hóa, Slow is Beautiful: Slowness as Culture (2000) là nhan đề cuốn sách của tác giả Shin-ichi Tsuji, một trong nhiều cuốn sách quan trọng xuất bản gần đây về trào lưu và triết học sống chậm; nó cũng là tiếp nối tư tưởng của tác giả F. Schumacher trước đây với tác phẩm Small is Beautiful (1975). Những cuốn khác: The Discovery of Slowness của Stern Nodoly (2003), Importance of Being Lazy : In Praise of Play, Leisure and Vacations của Al Gini (2003)... Đặc biệt cuốn cẩm nang ảnh hưởng hiện nay nhất: In Praise of Slowness: How a Worldwide Movement is Challenging the Cult of Speed của Carl Horoné (2004). Horoné so sánh trào lưu sống chậm toàn cầu với trào lưu chống sự toàn cầu hóa. Về tác động của truyền thông đương đại, nhà phê bình mĩ học Hiroshi Yoshioka nhận xét: “Tất cả chúng ta đều sống trong cái xã hội phương tiện truyền thông đương đại, bị buộc sống ít nhất hai thời gian khác nhau - thời gian toàn cầu thuộc những vấn đề chính trị và kinh tế, và thời gian thuộc đời sống riêng tư của chúng ta.”
Sống chậm, tất nhiên không phải là chúng ta tránh né những vấn đề kĩ thuật tiên tiến, như ẩn cư nơi hoang dã hoặc làm mọi thứ chậm như sên. Sống chậm có nghĩa rằng sống “đẹp hơn” trong cái thế giới hiện đại đang lên cơn sốt với những bận rộn lú lấp, bằng việc đạt được sự quân bình giữa nhanh và chậm đối với mọi thứ quá kích thích, quá tải, quá căng thẳng, chúng ta vật lộn để có được sự thư giãn, để được hưởng đúng cách, để dành thời giờ cho gia đình bè bạn. Vậy thì trào lưu sống chậm đưa ra một cái phao cứu đắm trong cơn thác lũ của tốc độ. Những vấn đề chính trị và sinh hoạt công cộng và dân sự cũng không thể không đặt ra với những hướng mở ra những chọn lựa đa dạng và giao thế của cá nhân và sự riêng tư. Với triết học về sự “chậm rãi” chúng ta sẽ tự hỏi về những kết quả như thế nào nếu nó được áp dụng vào những sinh hoạt chính trị, chính sách công cộng, và những nỗ lực tạo nên một thế giới công bằng hơn về mặt xã hội.
Văn hóa sống chậm thể hiện qua một số tác phẩm văn học. Gần nhất, ta nghĩ đến tác phẩm của nữ văn sĩ Yvelyne Féray, sau khi viết xong Dix Mille Printemps / Vạn Xuân (1993), bà tưởng như đã thanh toán xong món nợ Việt Nam để phản bác điều khẳng định “Đông là Đông và Tây là Tây” (và chính nhờ thông qua Việt Nam bà đã trở về với văn hóa gốc Celtic của mình). Thế nhưng, Féray còn thấy chưa hết “duyên nợ” với châu Á, bà bị thúc đẩy viết tiếp tác phẩm nữa là Monsieur le Paresseux (Lãn Ông hay Ông Lười, tức danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác), một người coi thường vinh hoa phú quý, để được buông mình theo thú lười; khác với Nguyễn Trãi, nhà chính trị chiến lược lỗi lạc trong bài hùng ca lớn của lịch sử Việt Nam. Féray mô tả một mẫu người “phi anh hùng” hoặc một anh hùng thầm lặng, một bậc hiền triết. Lê Hữu Trác, một Ông Lười sống “chậm” theo triết lí vô vi của Đạo giáo, nghiên cứu y học thâm sâu, mơ ước “mọi người đều có sức khỏe tốt để mình được hoàn toàn thảnh thơi ngâm thơ và uống rượu nơi chốn ẩn cư thân yêu”. “Không làm chi” hay “vô vi” lại là sự cần thiết cơ bản của con người, như nhan đề ca khúc “The Importance of Being Lazy” trong album ra gần đây nhất của ban nhạc Oasis. Còn Milan Kundera trong tiểu thuyết La Lenteur (Slowness / Sự chậm rãi) là trí tưởng tượng phóng dật hay một trầm tư thâm trầm về lối sống đương đại, về mối bí ẩn kết dính giữa nhịp điệu chậm rãi với kí ức, mối liên hệ giữa dục vọng muốn quên và cái cách mà chúng ta đã phó mặc mình cho con quỷ của tốc độ. Slowness là một tụng ca về thú nhàn nhã đầy gợi cảm, là sự hân thưởng lạc thú thay vì chỉ đi tìm kiếm nó. Trong cuốn tiểu thuyết này Kundera sử dụng ẩn dụ về một người lái xe gắn máy một cách liên tục trong hiện tại. Tốc độ và những nhu cầu của cơ khí làm giảm trừ tầm nhìn của hắn thành cái gì đó trực tiếp. Trong khi, một người đang bước đi, đang di chuyển ở một nhịp độ cho phép được một tầm nhìn rộng hơn nhiều. Còn nhân vật sống rất chậm trong Slow Man của J. M. Coetzee (2005) nêu lên mối liên hệ giữa sự chậm rãi và tính trung thực.
Chúng ta biết cách làm việc vất vả nhưng lại không biết cách chơi. Ở đây thử nêu ra ước mơ của người Mỹ về những thú nhàn rỗi giải trí, như đi dạo trong rừng cây, du ngoạn bằng tàu thủy, trượt nước, “thiên đường” ánh sáng Las Vegas... Thế nhưng, cứ trong bốn người Mỹ thì có một người không hề biết đến nghỉ hè. Họ dành 40% thời giờ cho con cái, ít hơn hồi thập niên 1960. Mỗi ngày họ bỏ 72 phút để lái xe. Còn người Mỹ trưởng thành hiện nay trung bình mỗi tuần dành nửa giờ sơ sài cho việc làm tình.
Với sự mở cửa kinh tế thị trường toàn cầu hóa, mỗi năm tại Việt Nam có hàng triệu du khách hàng trăm nước tới thăm. Trong số những du khách này, có một bộ phận rất đông đảo thường được gọi là Tây balô. Hành lí của họ điển hình là túi đeo sau hay xách tay balô. Những khách du lịch này đi gọn nhẹ và thường thâm nhập vào đời sống thường ngày của nước ta. Đặc biệt nhất là họ rất hâm mộ cảnh và người sắc tộc trên một dải đất nước có 54 dân tộc sống chung từ bao ngàn năm nay. Một câu hỏi là tại sao họ không mấy quan tâm tới người Kinh, nhất là giới thượng lưu, trung lưu cho bằng những người thu nhập yếu kém và mức tiêu thụ thấp kém? Chính sự tương phản với nếp sống đô thị gia tốc và cuồng nhiệt đầy căng thẳng của quan niệm “Thời giờ là tiền bạc”, đã khiến lớp Tây balô chọn việc soi mình và tắm mát trong dòng suối trong của Đà Lạt, Buôn Ma Thuột, Sapa, cũng như những nếp sống hơn ba thế kỉ trước (của thời tiền công nghiệp hóa) ở Mỹ Tho, Cà Mau, Hội An, Lạng Sơn, Hà Giang... Nơi đó người dân thuần phác, cởi mở, luôn miệng cười, và gần với đời tươi vui và đoàn kết của công xã nguyên thủy (primative commune) là giấc mơ của những người sáng lập chủ nghĩa cộng sản như Marx và Engels. Xã hội lí tưởng đó chưa biết đến bao giờ thế giới mới xây dựng được, nhưng đang có nguy cơ bị tiêu tán với nhịp độ tiến công của chính sự đổi mới và toàn cầu hóa.
Nhịp sống Sài Gòn sau 300 năm của dòng sông thời gian, đang chịu sự thách đố trước sự sùng bái tốc độ, cần có một cái nhìn đứng đắn về cách tiếp cận, hiểu biết mới bắt nhịp với trào lưu quốc tế về sống chậm, ngày càng thêm những con người ý thức sống giảm tốc để có thể tận hưởng một cuộc sống trọn vẹn hơn, phong phú hơn, đặt nặng về phẩm chất sống lẫn những quan tâm cả về sinh thái. Giải pháp để chống lại cái tốc độ vô tâm là những cách để kéo dài khoảnh khắc sống hiện tại ngay cả khi làm việc hay vui chơi. Một đời sống với cái hiện tại trọn vẹn hơn.
⚝ ⚝ ⚝
Chiều. Nhìn toàn cảnh từ lầu cao xuống. Những con đường Sài Gòn “chảy” như những dòng lũ lụt, xe cộ vòng quanh những bùng binh như những vùng nước xoáy vô tận... Đường sá chằng chịt giờ đã thay thế cho những con sông, kênh, rạch... vốn luôn thầm lặng chảy từ bao đời, từ thuở cha ông khua mái chèo xuôi ngược trên sông nước để khai phá, mở mang. Thủy triều thì luôn luôn thay dòng gột rửa, mãi thong thả trôi ra biển rộng.... Sài Gòn cần học bài học của dòng sông như bản ngã của chính mình, như bản giao hưởng sau những tiết tấu của những khúc allegro và scherzo đầy năng lực và sinh động, tiếp theo là khúc andante thong thả... Chậm rãi, nhàn nhã, để Sài Gòn còn mãi có thể tái tạo và tái khám phá lại chính mình. Triết học về sống chậm có thể tóm gọn trong một từ: quân bình là sự tìm lối sống quân bình ở nhịp độ mà các nhạc sĩ gọi là tempo giusto (đúng nhịp).
Sự chậm rãi cũng dạy chúng ta biết cách chờ đợi. Trong cái thế giới hiện đại điên cuồng vì tốc độ, thời giờ chờ đợi thường bị xem như là vô nghĩa. Vì vậy người ta tìm cách “giết” thời giờ bằng mọi cách. Chờ đợi là thái độ chấp nhận tương lai trong ý nghĩa đích thực của nó. Triết gia Wittgenstein có nói: “Trong triết học, kẻ thắng cuộc là kẻ biết cách chạy chậm nhất. Hoặc: chính là kẻ đạt đến đích cuối cùng.” (trong Culture and Value / Văn hóa và Giá trị). Hoặc với phong thái:
Đôi khi một người
dường như chờ đợi
thật ra đang ngồi thảnh thơi.
• Trịnh Công Sơn
Nghiêng tai nghe dòng sông Sài gòn uốn mình như thầm khuyên nhủ người Sài Gòn Andante, Andante:
Xin làm ơn thoải mái cùng tôi
Hãy mơn man tôi nhè nhẹ như làn gió hè hiu hiu.
Andante, Andante
Xin thong dong, thong thả
Andante, Andante
Để mặc cho xúc cảm nảy nở...
Andante, Andante
Giờ hãy đi với tôi chầm chậm
Andante, Andante
Rồi để tôi bồng bềnh trôi đi.
• Ban nhạc ABBA