← Quay lại trang sách

Sài gòn kiếm sống Lê Văn Sâm

Sài Gòn - được tiếng là năng động. Năng động từ dung nạp văn minh bốn phương, đầu tư phát triển bậc cao, đến xoay xở tháo vát kiếm sống bậc thấp, nhất là đối với dân nhập cư tứ xứ. Có thể nói Sài Gòn từ ngày khẩn hoang dựng xây phố thị, đã có cả 1.001 cách để kiếm sống đến bất ngờ.

Dân nhập cư tứ xứ - đa phần họ đến vùng đất này với hai bàn tay không, không nghề nghiệp, vốn liếng và thậm chí không cả chữ nghĩa, họ chỉ có một thân xác, tương đối là khỏe mạnh, thế thôi. Nhưng hằng ngày họ phải bươn chải để kiếm sống, tùy môi trường, cơ hội mà họ tiếp cận. Thời Sài Gòn mới hình thành phố thị, họ có thể kiếm sống bằng cách xin một chân kéo màn trong tiệm hớt tóc hay một chân quạt than trong tiệm giặt ủi. Các tiệm hớt tóc thời đó chưa có quạt máy, nói chi tới máy lạnh, tiệm phải dùng tấm vải lớn đóng khung treo lên và dùng dây kéo giật tạo gió. Tiệm giặt ủi thì dùng lò than, đặt bàn ủi sắt lên hơ nóng, lò than phải đỏ hồng thường trực nên tiệm mướn người đứng quạt. Mỗi ngày họ chỉ kiếm đủ hai bữa cơm... Hồi đó chỉ mới có tiệm hớt tóc cho đàn ông, chứ chưa có hiệu uốn gội cho đàn bà như bây giờ, nên phụ nữ có cách kiếm sống bằng cách đặt chõng tre, nồi chùm kết pha chanh gội đầu cho các bà đi chợ, nay vẫn còn thấy cảnh này ở chợ Trà Vinh hay chợ Đầm - Nha Trang.

Đơn giản và thông dụng nhất là bung ra đầu hẻm bơm vá xe đạp. Trước thời có xe bánh bộng để bơm, người ta dùng búa cưa đục để chữa bánh đặc bằng gỗ, lại kèm theo bán dầu hôi để châm đèn dầu lồng kính treo trước xe. Lần hồi các “thợ bơm” có thể sửa chữa, rút căm xe. Cùng với đàn ông con trai ra đường bơm xe đạp, đàn bà con gái thì níu gánh ve chai rảo khắp xóm hẻm. Những cô có chút ít nhan sắc, thì sắm cái giỏ đồ nghề, dăm chai thuốc, xách cái đòn gỗ đi sơn chuốt móng tay dạo.

Thời hàng hóa còn khan hiếm, nông thôn thành thị còn cách trở tàu ghe, dân nhập cư đã bày ra cách kiếm sống bằng cách buôn chuyến từng giỏ hàng, dăm ký nếp, buồng chuối cau hay cặp gà lên thành phố rồi lại gói dăm ống kem đánh răng, mấy chai dầu gió trở về thôn xóm. Xóm tôi ở có cô gái tên Quay, gốc Bến Tre nhập cư, đã “quay” rất khéo cách kiếm sống bây giờ đã có cả một hiệu bách hóa bề thế.

Người nghèo kiếm sống thường dựa vào chợ: nhất cận thị, nhị cận giang. Nhưng môi trường mỗi chợ một khác, tỷ như chợ Cầu Muối còn gọi chợ Cầu Ông Lãnh, nơi phát sinh ra cụm thành ngữ “đá cá lăn dưa”, là do bên cạnh người lao động kiếm sống bằng khuân vác hàng nông thủy sản, còn có những chú nhóc chuyên kiếm sống bằng cách ăn cắp vặt, đá cá ra xa hay lăn quả dưa ra khỏi đống để lấy trộm. Cũng kiếm sống bằng nghề bốc vác, một thuật ngữ mới hình thành ở vùng biên giới phía Bắc là “cửu vạn” lấy hình ảnh người vác lom khom trong bộ bài tài bàn cũ, nhưng chuyên nghiệp hơn là đội ngũ bốc xếp ở các thương cảng hay “chành gạo” của mấy đại gia ba Tàu Chợ Lớn. Chành là một loại kho trung chuyển đặt ở các bến sông. Mỗi khi ghe gạo từ miền Tây lên, cả một đội ngũ bốc xếp vác bao gạo đi rung rinh trên các thanh gỗ bắc từ ghe vào kho, vác xong một bao người phu nhận một cái thẻ ngậm vào miệng, cuối buổi đếm thẻ nhận tiền. Cũng thế, nhưng công nhân bốc xếp bến tàu thì có tổ chức quy củ hơn.

Cũng là cách kiếm sống nặng nhọc, còn có nghề gánh nước thuê. Thời Sài Gòn chưa có ống nước dẫn vào tận nhà, nước được cung cấp qua những trụ nước gọi là “phông tên” đặt ở các ngã tư khu đông dân cư, muốn lấy nước phải dùng tay quay một vòng sắt nước mới chảy ra, các chị “sen” gánh đôi thùng ngồi chờ đến lượt rồi gánh về nhà chủ. Nặng nhọc hơn nữa là dùng xe đạp từ miệt Lái Thiêu - Thủ Dầu Một, thồ lu chậu kiểng chở lên phố giao cho các mối, có chuyến cả mười cái lu trên xe. Thồ lu gọi là “đi đất”, nặng nhọc hơn so với “đi chim”, đó là những người rành chim quê, mỗi tháng dăm kỳ về quê lùng mua chim mang lên phố cung ứng cho các nhà hàng đặc sản hay cho chợ chim Hàm Nghi. Bên cạnh “đi chim”, “đi đất”, còn có nghề, kiếm sống mà như rong chơi, chỉ việc đạp xe ra ngoại thành bắt cào cào về bán cho những phú gia chuyên chơi chim cảnh. Đã có một thời bọn nhóc cũng kiếm sống được bằng cách ôm thùng đi bán kem dạo. Thời chưa có hiệu kem ly, dân Sài Gòn mút kem cây. Các hãng kem nổi tiếng như Esquimo, Thanh Bình thường sắm cả trăm bình thermos giữ lạnh giao cho bọn nhóc ôm đi khắp phố bán dạo, bình kem phải luôn phô cái nhãn hiệu ra phía trước.

Trong lĩnh vực giao thông vận tải có rất nhiều việc cho bà con nghèo kiếm sống, như phụ xế, gọi là “lơ xe đò”. Sau lơ xe đò là lơ xe bus, chạy cyclo máy, rồi chạy taxi, xe lam. Liên quan đến xe cộ, tôi thấy có hai nghề kiếm sống, thuộc hàng chuyên gia thủ công nghệ. Đó là cân xe cyclo đạp và gò đồng auto bằng búa gỗ. Thời đó Sài Gòn có tới hàng trăm ngàn xe cyclo đạp, nên phải có nhiều garage cyclo, nhưng các garage này không thể lãnh được việc cân xe, mà phải tìm tới các “tổ sư”. Khung cyclo chạy lâu ngày bị lệch phải cân chỉnh lại, đơn giản “sư” chỉ cần dùng một thanh sắt tròn để nắn, nhưng làm thế nào để hai bánh trước của xe được cân, đạp nhẹ là cả một nghệ thuật. Xe ôtô chạy bị va đập móp méo, cũng phải tìm “tổ sư búa gỗ” gò mới êm, gò một chỗ mà không ảnh hưởng đến cả những chỗ khác trên vỏ chiếc xe cũng là tuyệt chiêu. Kiếm sống bằng xe ôm nở rộ một thời rồi giảm dần do xe taxi và xe bus ra nhiều, tuy vậy xe ôm vẫn còn được nhiều khách chọn lựa có lẽ vì họ cho là đi xe ôm được chuyện trò thân mật. Từ ngày chiếc xe ba gác hết thời, chúng chỉ còn được dùng để đẩy hoa kiểng đi bán dạo phố phường, một cách kiếm sống cũng vất vả không kém. Những hôm ế hàng, mặt mày người bán hoa dạo cũng héo úa theo hoa.

Quanh môi trường chợ, giờ đây còn có rất nhiều cách kiếm sống khá là tân kỳ. Đó là các chàng trai trẻ từ quê mới lên, đồ nghề chỉ có một cái dao và một cái thớt, ra các góc chợ ngồi băm tỏi ớt hành gừng, cho vào túi nylon, mỗi túi chỉ có 500 đồng rất tiện dụng cho các bà nội trợ. Hoặc dùng dao thớt để làm cá đồng phụ giúp các bà các chị bán cá, vì các bà nội trợ giờ đây không còn muốn phải “đập đầu cá” phiền phức. Các cậu con trai nhỏ tuổi hơn thì đi phụ bán cơm, giấc trưa xách sổ đến các quầy hàng để ghi đơn đặt, rồi quay về bưng phần cơm lại cho các bà các chị ăn trưa tại quầy. Chợ nào cũng có những tay lực điền túc trực sẵn sàng bốc vác xách hàng nặng ra xe hay vào tận nhà gần chợ. Vào dịp Tết ta, song song với quét vôi sơn nhà hay lãnh giữ nhà mướn, còn có kiếm sống gọi là “bán nắng đồng quê”. Đó là bung ra ngoại thành, đến các nhà vườn, mua củ kiệu, dưa hành là vật liệu làm dưa món Tết, rồi phơi lấy nắng, nắng quê tốt làm cho hành kiệu không bị thâm, cung ứng cho những nhà sản xuất, nhất là các cơ sở xuất khẩu.

Bán vé số cũng là một cách kiếm sống của rất nhiều người cơ nhỡ hoặc tàn tật. Trên chiếc xe lăn bán vé số dạo có khi còn kèm theo chiếc đàn thùng cũ mèm hòa với tiếng ca nghẹn ngào. Rảo cùng vé số là bán báo dạo, ôm trước ngực một chồng, cầm trên tay một tờ để chào bán, bán tới đâu hưởng lời tới đó, cơm nước gạo tiền tính từng ngày theo kỳ báo ra.

Còn có cách kiếm sống thuộc loại “thời trang sát mí” đó là cò nhà đất hay bán hàng tồn kho. Cò nhà đất tập trung ở các trung tâm giao dịch địa ốc hay các khu đất quy hoạch nơi các quận huyện ngoại thành, còn cò bán hàng tồn kho thì tập trung ở các khu công nghiệp, kể cả một số siêu thị để mua hàng sỉ rồi chở bằng xe Honda đi bỏ mối cho các chợ bán lẻ. Buôn bán hàng tồn kho phải biết nắm thông tin thị trường, tình hình hàng tồn đọng để vét hàng quần áo, giày dép, kể cả sách. Có một số nhà xuất bản, muốn bán nhanh sách thu hồi vốn ngay để làm hàng mới, đã kết hợp với một số đầu nậu, tung sách ra lề đường bán “đại hạ giá”.

Quá trình phát triển đô thị còn đưa tới một nghề kiếm sống, nói ra khó tin nhưng có thật, đó là “câu cá vỉa hè”. Đa số vỉa hè ở các vùng đô thị mới tiếp cận sông rạch, do vậy đêm đêm các “ngư ông” chỉ việc vác cần câu ra mở nắp... ống cống lên là có thể câu được nhiều cá trê và lươn, kể cả rắn.

Có thể nói, đất Sài Gòn, chịu khó thì cách gì cũng kiếm sống được, chưa kể nếu biết căn cơ tích góp, có năng khiếu kinh doanh thì chẳng mấy hồi mà trở nên giàu có. Có thể từ buôn ve chai mà trở thành đại phú, từ lặn lội mà nên danh phận. Chính những cách kiếm sống thiên hình vạn trạng này đã tạo nên bức tranh sinh động trong đời sống kinh tế xã hội, để Sài Gòn - TP. Hồ Chí Minh được tiếng “thành phố năng động” xưa nay.