HƯƠNG VỊ SÀI GÒN SAIGON SAVOUR
Nhà tôi trong hẻm quận 3 gần xóm đậu hủ. Ngày trước mỗi tối từ nhà bên này tôi nghe hương thơm đậu nành toả ra khắp xóm. Thế là lấy lon sữa Guigoz cũ mua hai đồng cả nhà uống đã đời. Nếu sang trễ, sữa được chế biến thành từng lát đậu hủ cho buổi chợ sáng mai. Sau ngày đất nước mở cửa, có nhiều lãnh vực để đầu tư, xóm đậu hủ không còn nữa. Những đêm buồn đơn độc, tôi chợt nhớ hương thơm đậu hủ của xóm mình ngày xưa, nhớ từng cụm khói bốc lên từ lò đậu và nhớ cả nhà xúm xít xì xụp lon đậu nành.
Sữa đậu nành còn được chế biến thành món ăn độc đáo nữa cũng có tên đậu hủ. Đậu hủ này không được chiên để ăn với cơm hoặc với bún nước tương dằm ớt hay xào với giá sống, hẹ hành hoặc để tươi nấu với canh hẹ…Đậu hủ này do đậu nành được nấu đặc lại, đổ vào cái soong lớn, được “hớt” từng miếng mỏng bằng cái muỗng dẹp, đặt nhẹ nhàng vào chén, đổ nước đường đặc nấu với gừng lên trên. Ăn đậu hủ này cũng với chiếc muỗng nhỏ dẹp. Hớt từng muỗng bỏ vào miệng. Chao ôi, vị ngọt của đường hoà với hương thơm của đậu nành…thật tuyệt. Cắn thêm miếng gừng cay từ muỗng đường phủ lên mặt đậu hủ tạo cảm giác thật ấm áp từ cổ xuống đến bao tử, ngược lên mũi, não…
Không còn xóm đậu hủ, vẫn còn gánh đậu trước nhà buổi trưa do một chị là dân nhập cư từ miền tây bán. Trưa nào chúng tôi cũng “ủng hộ” mười mấy chén, thay nhau trả tiền. Đám cháu lớn lên có nhà riêng trên Gò Vấp thi thoảng gọi điện nhờ tôi mua đậu hủ dùm nếu có người lên chơi. Có dịp ghé nhà ngoại, chúng cũng đợi chị đậu hủ đi, mua vài bọc mang về.
Lên Đà Lạt, đi chợ “âm phủ”, ghé ăn chén đậu hủ nóng, nhai miếng gừng cay…Thật chẳng còn gì thú vị hơn. Mỗi lần ghé Đà Lạt, đám cháu nôn nao đến chùa Ve Chai để ăn đậu hủ, chị tôi nói đùa có lẽ trong chúng có chút “dư âm” của xóm đậu hủ ngày xưa. Thế nhưng tôi luôn thấy thiếu thiếu một cái gì…A, nước dừa.
Một ngày người bạn người Anh nhờ tôi mua dùm chén đậu hủ gánh trước nhà chị. Chị ngạc nhiên khi đậu hủ ở Sài Gòn có thêm nước dừa. Đậu hủ nước dừa chỉ đặc biệt có tại Sài Gòn. Đi Huế, lăng Khải Định, Đà Lạt …Sau này sang Hong Kong, Malaysia…cũng có những xe đậu hủ…Tất cả đều thiếu vị béo ngậy của nước dừa…
Nước dừa hình như được dân Sài Gòn, mảnh đất trù phú, luôn có những người sành ăn thêm thắt hương vị vào các món ăn du nhập từ nhiều nơi mà đậu hủ nước đường là một. Vị béo của đậu nành, nước dừa, vị ngọt của đường và cay sè của gừng, gây cảm giác thú vị trộn lẫn vào nhau Đậu hủ những nơi khác kể cả Hong Kong cũng chỉ dừng lại ở vị ngọt của đường và béo của đậu nành.
Tới bất cứ đâu nơi đất nước này hay sang các nước Đông Nam Á, tôi luôn nhớ quay quắt vị ngọt béo, cay nồng của chén đậu hủ Sài Gòn. Có lẽ do khẩu vị. Khi tôi hỏi đậu hủ có nước dừa không, nếu gánh đậu ở trong nước, người bán sẽ cười, lắc đầu. Nếu là xe đậu hủ ở nước ngoài, người bán giương mắt ngạc nhiên với hương liệu cho thêm độc đáo của người bán Sài Gòn. Tôi thầm hãnh diện thú ăn sành điệu và phong phú của món ăn được chế biến tại Sài Gòn. Chỉ Sài Gòn, người ta mới thêm nước dừa vào chén đậu hủ đường, chỉ Sài Gòn mới thấy sự đa dạng và sung túc của các món ăn. Và hôm nay, gánh đậu hủ quen thuộc không còn nữa, chị bán hàng đã trở về quê làm ruông, tôi bâng khuâng nhớ lại món ăn dân dã của đất Sài Gòn: đậu hủ nước dừa.
NGƯỜI NHẬP CƯ
Những ngày cuối năm, thằng cháu nhận xét:
- Ra đường vắng teo, mấy người nhập cư về quê hết rồi.
Chị không quan tâm. Với chị, đó là những người từ khắp nơi đổ về để tăng thêm phần “ồ ào, chen lấn” nơi thành phố. Vậy mà hôm nay, tết đã qua nhiều ngày, đống bưởi thằng bé người Quảng Nam bán cho chị đã hết sạch, chị chợt trông chờ thằng bé có chất giọng khiến gia đình chị luôn nhìn nhau cười:
- Con lựa bưởi ngon và rẻ…bán cô.
Nhà chị gần ga Sài Gòn, nơi tập trung rất nhiều người từ các tỉnh đổ về. Họ thường dành nhau để được là “mối” quen của chị, cô giáo muốn có thân hình tạm được để mặc áo dài nhưng lười tập thể dục, thế là cô ăn bưởi để tiêu mỡ (?). Chị chọn thằng bé này. Có lần chị hỏi chú tên gì, chú nói:
- Cô cứ gọi con thằng Bưởi…
Trước đây sân ga đầy người bán bưởi. Lúc này mỗi trưa đi dạy về, xuống xe buýt, chị nhìn quanh tìm những chiếc xe đạp với giỏ bưởi đầy phía sau. Tất cả vắng tanh, những người nhập cư chưa vào nên thật khó tìm một hình ảnh quen thuộc mà ngày thường chị không quan tâm đến.
Chị chợt thấy những người nhập cư thật quan trọng với đời sống thị thành, nhờ họ, cuộc sống tiện lợi hơn. Sáng làm biếng đi chợ, đã có gánh rau, cá, thịt…lưu động ngồi trước nhà với chất giọng thiệt thà:
- “Cô ơi, mua ít cá chiên ăn..” hay _“Cô ơi, mua thịt nấu súp đi cô…”. Chị chỉ “quan hệ mua bán” với thằng Bưởi. Hằng tuần Bưởi mang cho chị những trái bưởi to tròn với giá phải chăng, chị không cần đi xa để mua. Bưởi còn mài dùm chị con dao để chị “xẻ bưởi” cho “ngọt”. Chị cũng mời chú uống những ly nước trà ướp lạnh giải khát trong cái nắng Sài Gòn. Thằng bé chẳng than van mong nhờ sự thương hại như đa số những người nghèo chị gặp. Chú chỉ cười lấp liếm:
_“Con nghèo thế này…ai ưng” khi chị vui vẻ hỏi về chuyện vợ con. Ngày đầu tiên bán số lượng bưởi lớn cho chị, chú bé không biết tính tiền, chị phải tính dùm, chú thiệt thà:
- Con học mới lớp 2 đã nghỉ để đi bán…
Chị nghe xót xa như biết chính học trò mình bỏ học tha phương kiếm sống!
Trước tết Bưởi mang đến chị ba chục trái bưởi, nói ráng ăn từ từ để chú ăn tết xong vào bán tiếp. Chị đã ăn hết sạch. Muốn mua bưởi, chị phải đi xe ra những con đường lớn với những trái bưởi giá gấp rưởi giá thằng bé, hay những người nhập cư mang bán chị. Chị chợt cảm thấy thật…cô đơn.
Hôm nay, về Đức Hoà chơi, chị mua được một chục trái bưởi da xanh, chị phân bua cùng người bạn khi họ có ý ngạc nhiên:
- Mấy người nhập cư chưa vào nên không có ai bán bưởi rẻ, vừa với túi tiền của mình cả. Chị bạn lại tròn mắt. Chị giật mình:
- Ô, những người nhập cư đã trở nên quan trọng với chị từ lúc nào?