← Quay lại trang sách

Chương 1 JOE

Tuổi trẻ là chân thật.

Không có người nào điên rồ tới mức muốn chiến tranh hơn hòa bình: vì trong thời bình con trai chôn cất cha, còn trong thời chiến thì cha chôn cất con trai.

• Herodotus

Việc phi thường nhất mà trường đại học thu xếp được trong những năm gần đây là thuê tiến sĩ Richard Conover, người từng giành giải Nobel sinh học. Ông đã làm cho danh tiếng đội ngũ giảng viên thêm lừng lẫy, nhưng công việc chính của ông vẫn tiếp tục tập trung ở Washington, nơi ông đang tiến hành những thí nghiệm về hơi độc làm tê liệt thần kinh cho Bộ Quốc phòng. Như vậy có nghĩa là ông không thể thực sự giảng dạy ở trường đại học; các buổi lên lớp của ông được giao cho một nhóm thanh niên hấp dẫn mà trung bình lớn hơn sinh viên trong trường hai tuổi rưỡi, thông minh hơn bốn phần trăm và phù hợp với yêu cầu hơn sáu phần trăm. Tất nhiên, thỉnh thoảng vào chiều Chủ nhật, sinh viên có thể thoáng nhìn thấy tiến sĩ Conover đi về hướng sân bay, việc này làm họ yên tâm.

Chiến tranh là một phi vụ làm ăn sinh lãi. Hãy đầu tư con trai các vị.

Trường đại học đã đi lạc hướng và tất cả mọi người đều biết điều này ngoại trừ Hội đồng Quản trị, sinh viên đã tốt nghiệp, đội ngũ giảng viên và chín mươi phần trăm sinh viên.

Tôi là một sinh viên nghiêm túc. Xin đừng đâm, đừng gập hay đóng đinh kẹp tôi lại.

Ông ta sục sạo khắp các chợ để tìm một mòn quà Giáng sinh tặng L.B.J[1]. Món quà ông ta định mua là một bộ domino.

Chết tiệt, tôi mong các vị sẽ lắng nghe lập luận then chốt của tôi. Trong vòng ba mươi năm kể từ bây giờ, chính phủ, các ngân hàng, các cơ sở kinh doanh quan trọng, các trường đại học và tất cả những gì có giá trị trên thế giới này sẽ do lớp thanh niên chuyên về khoa học nhân văn ngày nay điều hành. Các nhà khoa học sẽ không bao giờ điều hành bắt cứ thứ gì ngoại trừ phòng thí nghiệm, họ không bao giờ làm được, họ không bao giờ có thể làm được. Thế mà ở trường đại học này chúng ta đã dành toàn bộ thời gian và tiền bạc nhằm đào tạo các nhà khoa học trong khi phớt lờ các nhà nhân văn, vốn là những người mà hạnh phúc và sự dìu dắt thế giới đã và sẽ luôn luôn phụ thuộc vào. Tôi cho điều này thật ngu ngốc, và nếu Hội đồng Quản trị và đội ngũ giảng viên không đủ khôn ngoan để chấm dứt nó thì chúng ta phải làm thôi.

Thà là một hòa bình chắc chắn còn hơn một thắng lợi chỉ nằm trong hy vọng.

• Livy

Khi người ta phang dùi cui vào đầu bạn thì bạn hãy hạ gục họ bằng siêu tình yêu.

Đối với con người, tình trạng thông thường của tự nhiên không phải là hòa bình mà là chiến tranh.

• Kant

Lưu vong chính trị đã trở thành nơi nương náu cuối cùng của nhiều trí tuệ cao đẹp. Trong lưu đày, Dante Alighieri đã viết bài thơ hay nhất đời mình và Vladimir Ilyich Ulyanov đã rèn giũa những tư tưởng sau này sẽ làm cả thế giới sững sờ. Chính trong cảnh lưu vong vì chủ nghĩa quân phiệt Đức mà Carl Schurz đã có những đóng góp lỗi lạc cho xã hội Mỹ, và cũng vì bị chính quyền Tây Ban Nha kết tội phản quốc phải lưu đày mà Công tước de Rivas đã viết được những cuốn sách đặc sắc. Một làn sóng người lưu vong từ Scotland đến đã đặt nền móng cho tinh hoa trí tuệ của Canada, và những kẻ phiêu lưu liều lĩnh bị ném khỏi các quốc đảo đã đến sinh cơ lập nghiệp ở Thái Bình Dương. Những tài năng lỗi lạc chế tạo ra bom nguyên tử cho Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ phần lớn là người Do Thái lưu vong bị xua đuổi khỏi nước Đức phát xít. Trong ba thế kỷ, nước Mỹ thu lợi từ những người lưu vong chính trị kiếm tìm sự che chở của chúng ta. Nó đã khiến cho các chính trị gia thế hệ này phải phát động một dòng chảy ngược chiều.

Đừng bao giờ làm quen với một cô gái trước một giờ chiều. Nếu xinh đẹp, cô ta làm gì mà không ở trên giường cho đến trưa?

Nếu một người đàn ông trẻ, dù dễ dao động đến thế nào đi nữa, mà không tán nổi các cô gái ở Torremolinos thì tốt hơn hết đừng có làm người nữa.

Thần Zeus quắp được Ganymede[2] tại Chòm sao Thiên Nga Rũ Cánh.

—★—

Vào sinh nhật lần thứ hai mươi, Joe đối diện một vấn đề phức tạp đến nỗi anh phải tìm người giúp đỡ, và chính vì vậy anh đã gặp bà Rubin.

Rắc rối của anh bắt đầu từ hai năm trước, khi anh bắt buộc phải đăng ký tham gia quân dịch. Anh đã nói với bạn bè ở trường trung học bằng những câu vụng về vốn đặc trưng cho các nỗ lực giao tiếp của anh, “Làm sao vụ đó tóm được cậu cơ chứ? Không thể gọi một cốc bia ấy thế mà lại có thể đi đánh trận.”

Bao giờ Joe cũng cao lớn hơn so với tuổi, thanh mảnh chứ không chắc đậm, và, theo mốt nhóm bạn, đã bắt đầu nuôi tóc dài ở hai bên mang tai nên nhìn từ phía sau cũng có thể thấy rõ. Anh không thật nổi bật về điền kinh để thu hút được sự chú ý của bất kỳ trường đại học nào, cũng không học giỏi tới mức được cấp học bổng. Vật duy nhất anh phải xuất trình khi tốt nghiệp trung học là một mảnh bìa trắng cỡ cái ví chứng nhận anh đã đăng ký tham gia quân dịch và được tự động xếp loại 1-A; việc xếp loại chính thức sẽ được tiến hành sau đó, khi anh được gọi đi khám sức khỏe. Khi vào đại học, người ta yêu cầu anh trình thẻ quân dịch, và vị giáo sư phụ trách có vẻ hài lòng khi thấy anh đã có.

Vào sinh nhật thứ mười chín, Joe nhận được một công văn làm anh sợ hết hồn. Đó là công văn của hội đồng tuyển quân, khi anh đi nghe giảng môn hóa về thì nó đã đang nằm chờ sẵn. Trong mười phút khổ sở, anh lo sợ không dám mở ra xem. “Tớ không sợ chiến tranh,” Joe khẳng định với anh bạn cùng phòng, một sinh viên triết quê ở Nevada có khuôn mặt vàng vọt, “và tớ cũng không phải kẻ từ chối nhập ngũ vì cho rằng nó trái với đạo lý, nhưng Việt Nam làm tớ điên đầu. Lạy Chúa, tớ không muốn bò lê bò toài khắp các ruộng lúa.

Cuối cùng khi mở phong bì ra, anh không thấy gì ngoài một bản thông báo in roneo, “Vì đã đỗ vào trường đại học cho nên ông được xếp loại 2-S, và ông sẽ vẫn được xếp vào loại này cho đến khi tốt nghiệp. Tuy nhiên, ông phải báo cáo với ủy ban quân dịch về bất kỳ thay đổi nào trong tình hình học tập của ông.” Kèm theo là tấm thẻ mới để anh xuất trình với viên chức trong trường và người phục vụ quầy rượu.

Mặc dù năm đầu anh đạt được điểm số tốt nhưng năm thứ hai lại nảy sinh khó khăn. Trường anh chọn không thuộc loại lò luyện não như Berkeley, cũng không phải nơi toàn những cô cậu thích ăn diện như Stanford; nó là một trong số nhiều trường có chất lượng nằm rải rác khắp California và là nguyên nhân dẫn đến sự vượt trội trên nhiều lĩnh vực của bang đó; trong khi một bang như Pennsylvania chỉ cung cấp nền giáo dục đại học cho ba mươi mốt phần trăm học sinh tốt nghiệp trung học, California lại lo việc học hành cho bảy mươi ba phần trăm, và sự khác nhau này phải được nói đến. Joe kiên trì nỗ lực và cố gắng đạt những điểm số giữ cho anh được ở lại trường và thoát khỏi quân dịch.

Chính mục đích thứ hai này đã gây cho anh tình trạng khủng hoảng tinh thần. Bốn sự việc khó chịu dồn dập trong một thời gian ngắn. Chúng ám ảnh anh, không tài nào gạt bỏ được; bản thân các sự việc đó không có gì nghiêm trọng, nếu là mười năm trước, các chàng trai trẻ có thể dễ dàng gạt bỏ. Bây giờ, mùa thu năm 1968, chúng hợp lại để tạo nên một cơn ác mộng đáng sợ.

Sự việc thứ nhất đến một cách ngẫu nhiên. Một hôm, bạn cùng phòng Joe, một sinh viên gần như liên tục đạt điểm A và đã làm được như vậy suốt thời trung học, có một anh bạn hơn tuổi đã tốt nghiệp đại học năm trước tên là Karl đến thăm. Anh chàng to lớn, tháo vát này tạt vào phòng, nằm dài trên giường, cầm theo một lon bia. “Mặc kệ người ta nói gì với cậu,” anh ta nói giọng dạy đời, “cứ theo ba khóa Giáo dục học đi. Khối thằng cha hợm đời đã cười phá lên khi tớ bỏ lớp dự bị luật để sang khoa Giáo dục Tiểu học... Khoa Thay Tã III, bọn nó gọi như vậy. Được thôi, bây giờ chúng đang ở Việt Nam cả rồi đấy. Còn tớ thì được lánh nạn trong một trường tiểu học ở Anaheim. Trong thời gian này tớ được an toàn không phải lo lắng gì về quân dịch.” Anh ta ngả đầu vào gối, tợp một ngụm bia và nhắc lại câu khuyên bảo, “Học sư phạm đi.”

“Anh thấy nghề dạy học thế nào?” Joe hỏi.

“Ai thèm quan tâm chứ? Buổi sáng cậu trình diện. Bọn nhóc quậy tưng bừng. Cậu ngăn không cho chúng phá lớp tanh bành. Đến tối cậu được về nhà.”

“Thế anh dạy chúng những gì?”

“Chẳng dạy gì cả.”

“Anh không bị đuổi việc à?”

“Tớ to cao. Bọn trẻ sợ tớ một phép. Vậy nên tớ tương đối giữ được trật tự. Tay hiệu trưởng quá biết ơn vì có được một lớp học không ồn ào nên ông ta chẳng cần quan tâm xem tớ có dạy được gì cho lũ trẻ hay không.”

“Nghe có vẻ hay ho nhỉ,” Joe nhận xét.

“Tớ tránh được quân dịch,” anh giáo đáp.

Một thời gian sau, anh bạn cùng phòng kéo Joe cùng đi đến trường tiểu học đó để thử xem ông hiệu trưởng có công việc gì cho họ sau khi họ tốt nghiệp không, và họ quan sát bọn trẻ, trong đó có nhiều đứa da đen, la hét ầm ĩ ngoài hành lang. Ông hiệu trưởng là người hiền lành, khoảng bốn mươi tuổi, tóc rụng gần hết. “Bạn các anh là một trong những giáo viên giỏi nhất trường chúng tôi,” ông hăng hái nói. “Nếu các anh đủ điều kiện để được cấp bằng tốt nghiệp của bang California, chúng tôi sẽ rất vui lòng tăng cường các anh vào đội ngũ giảng dạy.”

Sự việc thứ hai lại đáng phẫn nộ. Một buổi tối, cửa phòng họ bật mở cái rầm và Eddie, cầu thủ bóng đá lực lưỡng tài năng đạt đến mức đủ để được cấp học bổng nhưng chưa đủ để tham gia đội một, lao vào báo tin với vẻ đắc thắng hiển nhiên, “Ơn Chúa, cuối cùng thì tớ cũng làm cô ta có mang! Chúng tớ sẽ cưới vào tuần sau.”

“Maud ư?”

“Phải. Cô ta đã đi khám và việc này chắc chắn rồi. Buổi sáng sau lễ cưới, tớ sẽ quay lại ủy ban quân dịch đặng đổi lấy tấm thẻ loại 3-A tuyệt vời như cũ... và tớ được tự do ở nhà.”

Các sinh viên khác vào chúc mừng Eddie, và anh ta hào hứng kể, “Maud và tớ đã nghiên cứu chu kỳ kinh nguyệt cho đến trúng mới thôi. Trong thời kỳ cô ta dễ thụ thai, chúng tớ phải làm ba bốn lần một ngày. Các cậu có nhớ lần tớ ngã gục trong trận Oregon không? Chết tiệt, tớ đã mệt đến nỗi đứng lên không nổi. Sáng hôm đó tớ đã làm hai trận liền với Maud. Huấn luyện viên xỉ vả tớ ra trò, nhưng tớ nghĩ đúng là sáng hôm đó lúc ở nhà tớ đã đánh trúng mục tiêu. Dù sao, cô ta cũng có mang rồi và tớ thì thoát được quân dịch.”

Một người hỏi, “Cậu cho rằng chứng nhận loại 3-A của cậu có hiệu lực ư?”

“Đó là cách chắc chắn. Tất cả các cậu nên lấy vợ đi. Khối đứa con gái ngoài kia sẽ sung sướng được qua đêm với các cậu đấy. Ngủ với các nàng hăng vào. Làm cho các nàng có mang. Mặc cho quỷ tha ma bắt chính quyền đi.”

“Có đáng làm thế không?” ai đó hỏi.

“Ai thèm quan tâm chứ? Khi cuộc chiến vô nghĩa này kết thúc, ly hôn rồi đường ai nấy bước.”

“Cậu có định ly hôn không?” Joe hỏi.

Anh chàng cầu thủ bóng đá nhìn Joe, định nói đùa một câu nhưng rồi nghĩ lại và đáp, “Nếu cô gái mang thai với cậu tình cờ lại là người cậu yêu thì lợi cả đôi đường.”

“Cô gái của cậu không phải à?”

“Cô gái của tớ không phải,” anh chàng to lớn nói.

Kinh nghiệm thứ ba khiến cho việc tự vấn lương tâm trở nên không thể tránh khỏi. Tầng trên có một sinh viên ngốc nghếch đáng thương tên là Max, kỳ nghỉ cuối tuần nào cũng chúi mũi vào sách vở, nhưng mãi vẫn không sao hiểu nổi các phép toán hoặc Adam Smithh[3]. Đó là một chàng béo có nước da xấu đến từ Los Angeles và muốn làm bác sĩ, theo lời bà mẹ, nhưng các giáo viên nhanh chóng nhận ra đây là điều không thể, vì vậy cậu chuyển sang khoa thương mại, nhưng rồi ngay việc này cũng thành không thể.

“Mày phải ở lại trường!” cha mẹ cậu gầm lên. “Mày muốn làm chúng tao mất mặt à? Mày muốn thôi học mà đi lính à?”

Mẹ cậu đã thu xếp cho cậu chuyển sang khoa sư phạm. “Có thể mày mới kiếm được một công việc giảng dạy ở Los Angeles, chẳng hạn như trường Harry Phillips, và thế là mày được an toàn.” Cậu chuyển sang khoa sư phạm nhưng rồi đến cả sự thông minh để thi đỗ cậu ta cũng thiếu, giờ thì có vẻ như cậu ta sẽ bị buộc thôi học, mất quyền được hoãn quân dịch, và sẽ phải trở lại loại 1-A.

Trong cơn khủng hoảng này, Max lạch bà lạch bạch chạy khắp ký túc xá, tìm một ai đó sẵn lòng lẻn vào phòng thi làm bài sát hạch thay cậu. “Câu hỏi dễ thôi,” cậu giải thích, “nhưng mỗi tội tớ không tài nào sắp xếp được ý nghĩ của mình.” Khi không tìm được ai ở tầng hai vui lòng mạo hiểm, cậu quay lại phòng Joe và nói, “Ngay cả khi anh không đi nghe giảng thì anh vẫn có thể trả lời được các câu hỏi, Joe ạ. Tôi biết là anh có thể.” Cậu làm rất kém, và sau khi bài thi được chấm xong, Max nhận được tin xấu. Cậu trượt. Thời gian hoãn quân dịch chấm dứt. Cậu phải vào quân đội. Hai bậc phụ huynh quẫn trí tới đón, và trong căn phòng riêng kín đáo của cậu, họ đã mắng mỏ không tiếc lời khiến cho cậu rời ký túc xá mà mắt đỏ hoe và run lẩy bẩy. Cậu trốn cha mẹ để đến từ biệt Joe. “Anh là một người bạn tốt,” cậu nói. Rồi, khắp người run lẩy bẩy, cậu bước ra xe.

Đám sinh viên bàn luận về Max một hồi lâu và thống nhất với nhau một điều: nếu có một người không nên ra trận thì đó chính là Max. Một sinh viên Y dự bị nói, “Cậu có muốn cậu ta làm đồng đội của mình khi đi tuần qua một ruộng lúa không?” Một người khác nói, “Bắt đi lính chỉ vì họ học kém ở đại học thì đúng là tội ác.” Nhưng anh chàng sinh viên triết cùng phòng với Joe chỉnh lại, “Tội ác bắt đầu từ khi nước ta cho phép sử dụng trường đại học làm nơi miễn trừ một nghĩa vụ mà đối với những nước khác thì lại là bắt buộc.”

Sau khi đám đông giải tán, Joe và anh bạn cùng phòng còn tiếp tục tranh luận đến quá nửa đêm, và lần đầu tiên Joe được nghe một người có học thức đề xuất lý thuyết rằng toàn bộ chế độ xã hội là trái đạo đức. Anh bạn cùng phòng lý luận, “Như cậu nói hôm nọ đấy, việc Karl làm hỏng cuộc đời của học sinh để anh ta có thể thoát khỏi quân dịch là một sự trái đạo đức hiển nhiên, nhưng nó lại do một sự trái đạo đức lớn hơn tạo ra. Sự trái đạo đức của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ khi tiến hành một cuộc chiến tranh không tuyên bố mà Quốc hội chưa bao giờ cho phép.”

“Cậu nói thế là có ý gì?” Joe hỏi.

“Lấy ví dụ thằng cha cầu thủ bóng đá hợm hĩnh khoe khoang việc đã làm một cô gái hắn không hề yêu mang thai chỉ vì mục đích trốn lính mà xem. Việc đó rõ ràng là trái đạo đức, nhưng không thể xảy ra nếu nền dân chủ của chúng ta không thối nát từ trước. Các quan chức được bầu để đại diện cho chúng ta lại để mình bị qua mặt, rồi vỗ tay tán thưởng khi Tổng thống hành động trái pháp luật.”

“Cậu sẽ làm gì với chuyện đó?”

“Tớ không biết. Nhưng tớ biết là người ta không thể hợp tác vô hạn định với tình trạng trái đạo đức mà không thành ra hư hỏng. Và tớ không có ý định biến mình thành hư hỏng.”

Anh ta nói nhỏ nhẹ, nhưng với sức thuyết phục sâu sắc đến nỗi Joe phải tự xác định xem anh sẽ cho phép việc trốn quân dịch bằng cách ẩn tránh trong trường đại học tiêm nhiễm vào anh sâu đến mức nào.

Chính kinh nghiệm thứ tư đã đúc kết quan điểm của anh, một việc mà bản thân nó tầm thường đến mức đối với người bình thường trong những thời điểm bình thường thì nó thậm chí còn chẳng được nhắc đến. Joe tới một quán bar nằm trong khu vực khá phức tạp phía bên kia thành phố để nghe một nhóm nhạc trình diễn và trên đường về ký túc xá anh tình cờ đi qua một nhóm da đen đang tụ tập ở góc phố, và một anh chàng mặc quân phục cất tiếng gọi, “Ê, thằng cha da trắng! Hẹn gặp mày ở Việt Nam nhé.” Nhưng một người khác nói, “Hắn thì không đâu. Hắn là sinh viên đấy.” Joe cười, chĩa ngón cái và ngón trỏ tay phải làm súng, vừa giả bộ bắn vào chàng lính vừa tặc tặc lưỡi. Anh lính bèn lùi lại hai bước, ôm lấy ngực kêu, “Chết tiệt, hắn bắn trúng rồi.”

Tất cả chỉ có vậy. Joe đi tiếp, nhưng sự kiện vô nghĩa tình cờ đó cứ ám ảnh anh ngày này qua ngày khác - cái thực tế ghê tởm là trong cuộc chiến này người da đen không thể trang trải chi phí vào đại học thì phải thực hiện chế độ quân dịch, còn người da trắng có tiền thì không. Thật sai lầm, vô đạo đức, khiến người ta phát điên, và mọi điều những người đứng đầu xã hội như tướng Hershey và J. Edgar Hoover nói chỉ làm trầm trọng thêm sự bất công cơ bản. Người da đen phải đi lính, người da trắng thì không; người nghèo bị lôi ra trận, người giàu thì không; người khờ dại bị bắn chết, người thông minh thì không. Và tất cả được thực hiện nhờ một tiền đề vô đạo đức nhằm theo đuổi một cuộc chiến có nền tảng vô đạo đức.

Phân vân trước những chuyện rối rắm ấy, Joe bước vào tháng cuối của niên học, hoàn toàn không nhận thấy rằng anh bạn cùng phòng, nhờ quá trình đào tạo về triết học, đã đi tới một vài kết luận quan trọng mà mãi mấy tuần sau đó Joe vẫn chưa rứt ra được. Ngay trước Giáng sinh, một nhóm sinh viên chống chiến tranh tuyên bố tập hợp lực lượng ủng hộ hòa bình. Chương trình dự định bắt đầu lúc hai giờ chiều tại sân chính giữa các khu nhà, thế mà từ lúc một giờ khu sân bãi trường đại học đã chật ních người hiếu kỳ từ thành phố đến. Cảnh sát đặc biệt của trường đã sẵn sàng, với chỉ thị ngăn ngừa ẩu đả. Họ được sự hỗ trợ từ lực lượng cảnh sát chính quy cũng kiên quyết ngăn chặn rắc rối. Khi cảnh sát thấy một đoàn diễu hành tiến đến gần, mang theo khẩu hiệu như Yêu nước Mỹ hoặc mặc kệ nó, U.S.A. Hãy đi tới cùng và ủng hộ những chàng trai dũng cảm của chúng ta ở Việt Nam, họ lặng lẽ bắt dòng người chuyển hướng không cho vào sân trường.

Một cảnh sát cầm loa kêu gọi đoàn diễu hành, “Những người ủng hộ hòa bình có quyền phát biểu ý kiến như hiến pháp đã quy định. Các vị không được mang những khẩu hiệu này vào trường.” Các biểu ngữ bị tịch thu nhưng đoàn diễu hành được phép tản mác vào đám đông trong sân chính.

Khi anh bạn cùng phòng của Joe nhìn từ khu ký túc xá xuống sân thấy đám người lạ cùng hai nhóm cảnh sát, anh nói, “Tình hình có vẻ gay go đây. Tớ muốn cậu biết rằng việc tớ sẽ làm chiều hôm nay hoàn toàn không phải hành động bồng bột. Tớ đã suy nghĩ về chuyện này ngay từ ngày chúng mình thấy Karl dạy ở trường tiểu học đó.”

Anh và Joe xuống sân trong rồi mỗi người mỗi ngả, vì bao giờ Joe cũng tránh xa những cuộc biểu tình quần chúng. Hồi còn là sinh viên năm nhất, anh đã từ chối tham dự những buổi cổ vũ bóng đá và cũng có thái độ tương tự với những cuộc họp phản đối của sinh viên trong trường. “Cậu cứ làm việc của cậu đi,” anh bảo người bạn cũng phòng. “Tớ sẽ quan sát từ phía kia.”

Cuộc biểu tình diễn ra ôn hòa. Ngồi trên bệ bức tượng tưởng niệm người sáng lập trường, Joe lắng nghe tiếng loa trong khi tiến sĩ Laurence Rubin, một giáo sư hóa học nhỏ thó, cố gắng giải thích rằng chiến tranh làm tổn hại vị thế của nước Mỹ ở cả trong và ngoài nước, song một số người phá đám trong đoàn diễu hành không ngừng hét lên, “Ông muốn đầu hàng phải không?” Rubin đã lường trước một lời buộc tội như vậy, nhưng khi ông đang cố trình bày sự khác nhau giữa đầu hàng và rút quân có kế hoạch khỏi một tình thế bất lợi thì những người phá đám kia không cho phép ông giải thích, hét lên, “Chấm dứt chiến tranh là việc của Nixon. Im mồm đi và để Nixon làm việc đó.” Vậy là giáo sư Rubin buộc phải rời micro mà vẫn chưa nói rõ được luận điểm cơ bản của mình.

Một sinh viên có giọng nói vang khắp sân giật lấy micrô mà thét, “Nếu hành động là điều duy nhất Washington có thể hiểu được thì chúng ta sẽ mang hành động đến cho họ.” Joe nhận thấy ngay khi câu đó phát ra khỏi loa phóng thanh, cả cảnh sát trường lẫn cảnh sát chính quy đều tiến đến gần diễn đàn hơn. Diễn giả đã nhìn thấy họ tới gần nhưng vẫn vẫy tay ra hiệu, vậy là một nhóm ba bốn chục nữ sinh bắt đầu hát “Blowin in the Wind” (Thốc theo chiều gió), một bài hát phản chiến nhịp điệu đều đều trang nghiêm, và một số thanh niên trong đám đông liền hòa theo. Đó là một bài hát lạnh lùng rất phù hợp với không khí trong sân, nơi mà nhiều nhóm đứng lẫn lộn hoặc đi lại quanh quẩn rất khó xác định thuộc bên nào.

Khi bài hát lên đến cao trào, một nhóm bảy thanh niên leo lên diễn đàn, và ngay trước mắt mọi người, họ bật lửa đốt thẻ quân dịch với thái độ kiên quyết một cách cố ý. Joe ngạc nhiên thấy anh bạn cùng phòng trầm tính cũng ở trong số đó, đã vậy lại còn chính là người dẫn đầu hành động thách thức đã long trọng tách họ ra khỏi cái xã hội mà họ không thể coi trọng, cái xã hội mà luật pháp của nó họ không thể tuân theo được nữa.

Cảnh làn khói cuộn bay trong không trung khích động đám diễu hành từ thành phố đến, và ngay cả những khán giả không có ý định dùng bạo lực này cũng thấy bị xúc phạm. Đột nhiên, từ nhiều phía, mọi người bắt đầu xông lên diễn đàn định kéo bảy người đốt thẻ xuống, hành động này đã lôi hai đội cảnh sát vào cuộc, dùi cui vung tới tấp. Trước sự kinh ngạc của Joe, cảnh sát không dùng dùi cui dẹp những kẻ bạo động; thay vì vậy họ nhao lên diễn đàn tóm lấy những sinh viên phản kháng, vừa đánh vừa lôi xuống mặt đất. Anh bạn cùng phòng của Joe thoát khỏi vòng vây và tháo chạy, nhưng một nhóm sinh viên khác, giận dữ vì vụ đốt thẻ, liền chặn đường mà đấm vào mặt anh. Anh lảo đảo lùi lại và va phải một cô gái, cô này liền hét lên thất thanh. Các cô khác, tuy chưa hề hấn gì nhưng lại sợ mình có thể bị xô ngã, cũng hét lên, khiến tình hình trở nên hỗn loạn.

Lúc này cảnh sát kiểm soát thế trận, đùng đùng xông qua đám đông để bắt nhóm sinh viên đốt thẻ. Đầu óc mụ mẫm vì hứng chịu những cú đấm, anh bạn cùng phòng Joe trượt chân ngã chúi về phía cảnh sát như thể đang lao tới tấn công họ và được đón tiếp bằng một trận mưa đấm đá dữ dội khiến anh lăn ra mặt đất. Thấy bạn ngã, Joe không suy nghĩ gì nhảy từ chỗ an toàn trên bệ cao xuống và chạy tới giúp, nhưng cảnh sát lại xem anh là một kẻ phá rối tóc dài nữa nên vung gậy nện túi bụi.

Một gậy hất anh lên, một cú khác thúc vào bụng anh, cú thứ ba đập vào sọ nghe rắc một tiếng, làm anh ngã phịch. Sau này anh kể rằng đã nghe cú đánh cuối cùng này trước khi có cảm giác đau buốt; đó là âm thanh cuối cùng anh nghe được, vì anh liền đổ sụp xuống thành một đống xương vô nghĩa và da thịt rời rã. Anh chỉ nhớ mang máng lúc đó anh nghĩ đầu gối mình đã biến mất còn hai chân tan thành nước. Rồi anh ngất đi.

—★—

Trong thời gian anh bạn cùng phòng ngồi tù chờ ngày xét xử, Joe ở một mình trong ký túc xá vật lộn với một niềm tin đang dần dần phát triển. Thông thường sự đánh giá đau đớn như vậy chỉ diễn ra ở một người gần năm mươi tuổi, khi anh ta đang sẵn sàng cho cú đẩy cuối cùng, hoặc một người hơn năm mươi, khi anh ta đánh giá cái thất bại cay đắng đã lôi anh ta vào mà không để hở một cơ hội trốn thoát nào, nhưng đối với thế hệ Joe, thời điểm đánh giá tới sớm hơn, và anh một mình đối mặt.

Anh cũng thích đám con gái và từng hẹn hò vài người, nhưng cho tới nay vẫn chưa tìm được cô nào anh cảm thấy có thể thoải mái tâm sự về cơn khủng hoảng hiện thời của mình. Anh cũng thân thiết với vài anh chàng ở ký túc xá nhưng chưa thân tới mức chia sẻ được vướng mắc của mình. Cũng không có thầy giáo nào anh muốn cùng trao đổi; những người thầy có vẻ thấu hiểu được thì lại quá bận rộn với công việc, còn những thầy có thời gian lắng nghe thì lại khờ khạo đến mức chẳng thể nào nói được chuyện gì nghiêm túc. Vì vậy anh đành chịu đựng một mình.

Trường theo hệ bốn học kỳ, do vậy sinh viên phải làm một loạt bài kiểm tra trước lễ Giáng sinh. Joe cố tập trung tư tưởng để thử dự thi môn hóa học của giáo sư Rubin nhưng anh làm bài tệ đến mức tới lượt môn sử và Anh văn III anh chẳng buồn trình diện ở phòng thi nữa. Anh ở lì trong phòng tìm cách đương đầu với tình hình tiến thoái lưỡng nan mình đã mắc vào. Anh không cạo râu, cũng không xuống nhà ăn. Đêm khuya, anh mới lang thang khắp các con phố tối tăm, vớ lấy một cái bánh mì kẹp thịt và chút cà phê, nhưng phần lớn thời gian anh thui thủi một mình, vừa suy nghĩ vừa xoa những cục u bầm tím trên đầu.

Một cô gái ở La Jolla gửi thư mời anh lái xe của cô về nhà cô chơi. Khi đọc thư, anh có thể hình dung ra hình ảnh cô, một cô bé dễ thương với mái tóc chải gọn gàng buộc túm thành đuôi ngựa đằng sau gáy. Nghỉ Giáng sinh cùng cô chắc sẽ thú vị, nhưng năm nay thì không được. Anh đi xuống gọi điện cho cô. “Em đấy à, Elinor? Thư em gửi cho anh thật ngọt ngào. Anh thích lắm, nhưng anh rã rời khắp cả người rồi.” Cô đáp, “Em hiểu,” rồi lái xe về nhà một mình.

Suốt tuần đầu tiên Joe ru rú trong căn phòng yên ắng của mình giữa khu ký túc xá yên ắng. Vì nhà ăn đóng cửa, anh toàn dùng đồ ăn sẵn, còn bữa tối thì anh tới quán hamburger. Những ngày cuối năm, anh thử xem xét lại tình cảnh của mình và đi đến kết luận là đối với anh, trường đại học này đã cùng kiệt. Anh không thể đường hoàng ở lại ngôi trường đã biến thành nơi ẩn náu trốn tránh quân dịch đối với nhiều người. Anh không chấp nhận nương thân trong những giảng đường này khi mà những người như Max phải bỏ học để ra trận, hay khi những người da đen ở ngõ hẻm vắng vẻ kia bị bắt lính. Anh từ chối tiếp tục thỏa hiệp với lập trường vô đạo đức.

Mặt khác, anh lại không thể công khai đốt thẻ quân dịch như anh bạn cùng phòng đã làm vì anh rất ngại phô trương. Đứng vào một nhóm dễ bị chú ý trong khi các nữ sinh viên hát “The answer is blowing in the wind” (Câu trả lời thốc theo chiều gió) thì thật là lố bịch. Việc đó dứt khoát là không được.

Anh nhớ lại cách giải thích duy lý của một thằng cha người San Francisco đã tự nguyện tham gia quân dịch mùa xuân năm ngoái, “Hành động xứng đáng duy nhất là gia nhập quân đội và phá từ bên trong. Họ mà vớ được tao thì tức là vớ phải một kẻ quyết tâm ngấm ngầm phá hoại toàn bộ hệ thống quân sự.” Ngay tuần đầu tiên trong trại lính, anh ta bắt đầu phân phát tờ rơi thúc giục đồng đội nổi dậy chống lại sĩ quan chỉ huy và bản thân anh ta là người hăng hái nhất. Một buổi sáng, trong lúc điểm danh, anh ta phá lên cười, có ý cười thật to, và khi viên trung sĩ lao xuống cuối hàng hỏi xem chuyện gì khiến anh ta thấy khôi hài như vậy, anh ta nói: “Toàn bộ cái chế độ ngu ngốc này, nhất là ông.” Viên trung sĩ cố không nổi nóng và hỏi anh ta muốn nói gì, anh ta đáp: “Ông, đồ con hoang ngu ngốc nhà ông. Ông bảo chúng tôi phải thót bụng vào trong khi chính ông cũng không thót được bụng nếu...” Viên trung sĩ nện cho anh ta một trận tơi bời, rồi trong trạm xá, anh ta nhận được thông báo sẽ phải ra tòa án binh và chắc chắn sẽ bị tống tù. Nhiều sinh viên trong ký túc xá công nhận là anh ta đã hành động một cách đáng trọng, nhưng một hành động như vậy lại không phù hợp với Joe; anh không thích phá phách, mà dù có thích thì, khi viên trung sĩ béo đến chửi mắng anh, anh sẽ thấy thương hại hắn và không muốn gây rắc rối.

Nhưng cũng có lúc Joe nổi giận, và đúng vào ngày cuối cùng của năm anh đã có phản ứng như vậy. Thực ra thì anh đã đùng đùng nổi giận, vừa nguyền rủa vừa đá vào bàn ghế trong phòng. Nguyên nhân của cơn giận dữ ấy tưởng như thật đơn giản: anh nhận được một bức thư. Nội dung thư không có gì quan trọng, chỉ là vài dòng như thường lệ chúc mừng lễ Giáng sinh của cô gái đã mời anh tới La Jolla. Điều khiến anh giận dữ là dấu xóa bỏ của chính quyền trên bức thư: Hãy cầu nguyện vì hòa bình.

“Đó là điều hết sức vô lý ở toàn bộ cái đất nước chết tiệt này,” anh cáu kỉnh. “Chúng ta đóng dấu câu ‘Hãy cầu nguyện cho hòa bình’ lên thư từ của chúng ta để chứng tỏ chúng ta là một dân tộc yêu hòa bình. Nhưng cứ để một thằng con hoang khốn khổ làm bất kỳ điều gì vì hòa bình xem, người ta sẽ lấy dùi cui nện bể sọ hắn ra. Điều gì đang diễn ra vậy? Khi đám dân thành phố hôm nọ vào trong sân trường, quả thật họ đã sôi sục căm hờn... Họ đã có thể giết chết anh bạn cùng phòng của mình... bởi vì cậu ta mong muốn hòa bình.”

Ngồi một mình trong phòng, anh nhớ lại bài giảng của một thầy giáo trẻ, “Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ là đất nước quân phiệt nhất thế giới. Báo chí, truyền hình, trường đại học và ngay cả nhà thờ cũng tận tụy phục vụ chiến tranh và bất cứ tiếng nói phản đối nào cất lên cũng đều bị bịt lại. Các anh sẽ để ý thấy báo chí gọi những người phát ngôn chống chiến tranh là ‘những kẻ được gọi là ủng hộ hòa bình.’ Các họa sĩ vẽ tranh châm biếm thì mô tả họ như những kẻ điên khùng. Những bình luận viên truyền hình nói về họ như những kẻ nổi loạn và cặn bã cần phải bị đuổi khỏi đường phố. Đất nước chúng ta cảm thấy nó phải tiêu diệt những người yêu hòa bình vì nó biết, muốn cho đất nước tiếp tục lớn mạnh thì chúng ta phải có chiến tranh. Không phải vì những lý do kinh tế mà vì lý do tinh thần.”

Joe nhớ lại cuộc trao đổi với một sinh viên khoa nhạc, “Trường đại học này có một khoa nhạc rất tuyệt. Các thầy của chúng tớ có thể dàn dựng những vở nhạc kịch rất hay. Nhưng cậu có biết hội đồng quản trị đánh giá như thế nào về khoa nhạc không? Đội diễu hành tuyệt như thế nào? Nếu một trăm năm mươi cô cậu mặc quân phục nhún nhảy tiến vào sân bóng đá trong giờ nghỉ giải lao giữa hai hiệp, và đi đều bước, thì năm sau khoa nhạc sẽ được phân bổ ngân sách hào phóng... và mặc xác Beethoven. Hội đồng quản trị có lý đấy. Cậu có biết vì sao không? Vì mỗi thành phố nhỏ ở California đều yêu cầu trường trung học địa phương mình phải có một đội diễu hành... mặc quân phục... đi đều bước... tập tành theo nhạc của John Philip Sousa. Các công dân muốn như thế vì họ yêu quân đội... họ thích các cuộc diễu hành. Và nếu trường này không đào tạo sinh viên tốt nghiệp khoa nhạc để xây dựng đội diễu hành thì lạy Chúa, các thành phố nhỏ sẽ trông chờ ở các trường đại học khác... và thế là chúng ta sẽ gay to. Hội đồng quản trị không ngốc đâu. Họ biết cái gì là quan trọng.”

Joe bị cái lý thuyết quân nhạc ấy mê hoặc đến nỗi anh đã theo bạn tới một thành phố nhỏ để xem đội diễu hành do một sinh viên mới tốt nghiệp khoa âm nhạc huấn luyện, và mọi việc đúng như bạn Joe mô tả, trừ một điểm là ngoài đội diễu hành, họ còn có thêm một đội diễn tập gồm các em gái độ mười ba mười bốn tuổi mặc quân phục và được trang bị súng gỗ mô phỏng giống hệt súng trường dùng trong quân đội, bổ sung thêm cả dây đeo bằng da cho hoàn chỉnh. Dưới sự chỉ huy của một cựu chiến binh khoảng năm mươi tuổi, các em gái diễn tập nghiêm chỉnh như thể chúng là một đại đội bộ binh đang trên đường đi chiến đấu trong cuộc chiến tranh Nam-Bắc, và cuối cùng, khi các em xếp hàng một làm động tác bắn chào, một khẩu đại bác nổ vang và thế là mọi người phấn khởi hò reo.

—★—

Nhìn vào bất cứ nơi nào trong xã hội này, Joe cũng tìm được bằng chứng mới về sự say mê bạo lực của nước Mỹ. Nếu vào thành phố, anh đi qua một hội quán tối tăm ảm đạm, những tấm ván tường bạc phếch mang biển hiệu: Hãy học karate! Hãy tiêu diệt kẻ tấn công bạn. Một hình vẽ sơ sài thể hiện một thanh niên oai vệ đang bẻ gãy cổ một người da màu vừa từ góc phố lao vào anh ta. Mấy năm trước, hội quán này treo biển hiệu đơn giản hơn: Hãy học judo! Hãy tự bảo vệ mình. Nhưng môn này chỉ thu hút được một vài học viên, vì nó là để tự vệ. Với karate, anh có thể giết chết người khác, và khả năng này cám dỗ đến mức số người ghi tên học tăng gấp bốn.

Trên truyền hình, chính bóng bầu dục chuyên nghiệp với hành động cố ý gây thương tật đã thu hút lượng khán giả trước kia chỉ mê xem bóng chày, còn trong điện ảnh đó là cảnh bạo lực triền miên, trưng ra cả tá người chết trong khi chỉ một người thôi cũng đủ rõ nghĩa rồi. Nhưng nghiêm trọng nhất là vấn đề Việt Nam, cái vết thương lan rộng đang rỉ mủ ấy. “Chúng ta muốn hòa bình ở Việt Nam,” Joe ngẫm nghĩ khi nhìn lá thư làm anh thức tỉnh, “nhưng cầu Chúa cứu giúp Richard Nixon nếu ông ta định làm cái gì đó cho hòa bình khi trở thành Tổng thống.” Anh quẳng lá thư xuống bàn, và cái dấu bưu điện của nó chế nhạo anh: Hãy cầu nguyện cho hòa bình. Và thế là cuộc tranh luận đơn độc đã có tiến triển. Cuối buổi chiều hôm đó, anh đi đến một quyết định. Lấy một tờ giấy của văn phòng nhà trường, anh ngồi suốt hai giờ đồng hồ ở bàn, thảo một lá thư với lời lẽ thận trọng làm anh mất thêm một giờ nữa để sửa chữa và viết lại. Rồi anh đi qua hội quán karate vào thành phố vắng vẻ; tới bưu điện, anh gửi thư đảm bảo và yêu cầu đóng dấu câu: Hãy cầu nguyện cho hòa bình. Anh cẩn thận cất giấy biên nhận vào ví. Khi quay về phòng, anh thấy tiến sĩ Rubin, giáo viên hóa của anh, đang gõ cửa. “Mời thầy vào,” Joe nói, và người đàn ông nhỏ bé gầy ốm nghiêm nghị ngồi xuống chiếc ghế tựa thẳng.

Đặt bài thi của Joe lên bàn, ông nói với giọng phiền muộn, “Joe, đây đúng là một bài thi rất tệ.”

“Em biết. Em sắp bỏ học rồi.”

“Không cần thiết phải vậy,” ông Rubin nói bằng giọng mũi nghèn nghẹn. Ông mở tờ bìa ra và để lộ xếp loại B-. Joe nhìn một lúc lâu vào điểm số mình không đáng được nhận ấy, căng óc giải mã tại sao ông Rubin lại cho anh điểm cao như vậy. Rồi, như thể từ một cõi xa xăm mơ hồ, anh nghe thấy ông nói, “Tôi đã nhìn thấy cậu trong cuộc tập hợp lực lượng ủng hộ hòa bình. Tôi cũng nhìn thấy viên cảnh sát đánh vào đầu cậu. Tôi đã quan sát cậu trong lúc cậu làm bài thi môn của tôi và sau đó được biết cậu không đến dự thi các môn khác. Nhưng tôi sẽ chứng nhận với ban giám hiệu là cậu đạt B- môn của tôi và cậu quá yếu nên không đi thi các môn còn lại được. Joe ạ, không cần khai sai sự thật, cậu cũng có thể nêu lý do bị ảnh hưởng thần kinh... hãy ở lại trường...”

“Không thể được nữa rồi,” Joe đáp. Anh mở ví lấy tờ biên nhận lá thư bảo đảm mà anh đã gửi hội đồng tuyển quân và lôi những tờ nháp trong ngăn bàn ra, và khi tiến sĩ Rubin đọc, ông cảm thấy nể trọng, vì đó là một lá thư mà ông đáng lẽ đã có thể viết nếu còn là sinh viên:

“Tôi đã cân nhắc cẩn thận quan điểm của tôi đối với vấn đề quân dịch và đối với đất nước... Tôi rút ra kết luận là mình không thể tiếp tục hợp tác trung thực với một chế độ vô đạo đức về cơ bản cũng như với một cuộc chiến sai lầm về phương diện lịch sử... Do vậy kèm theo lá thư này tôi xin gửi trả lại các ông thẻ đăng ký và phiếu xếp loại của tôi... Tôi sẽ từ chối không tới trình diện tại hội đồng tuyển quân thêm bất kỳ lần nào nữa và tôi cũng không chấp nhận phân loại 2-S. Tôi biết rõ tôi đang làm gì, tại sao tôi lại làm vậy và tôi sẽ đón nhận bất kỳ sự trả giá nào...”

Lá thư còn dài nữa, vài ý rõ ràng là công trình của một thanh niên chưa đến hai mươi mốt tuổi, toàn bộ nội dung thể hiện bức chân dung của một con người đạt tới một quyết định đạo đức và tuyên bố sẵn sàng gánh chịu bất cứ hậu quả nào có thể phát sinh.

Thầy Rubin gập thư lại, đặt tờ biên nhận lên trên và đưa trả Joe cả hai thứ. “Mọi việc giờ đã khác,” ông nói. “Điểm B- tôi cho cậu và lý do bệnh tật tôi đưa ra có thể sẽ trở thành quan trọng khi cậu ra khỏi trại giam và muốn xin học lại.”

“Thầy nghĩ em sẽ phải vào tù sao?”

“Chắc vậy. Joe này, việc cậu nên làm bây giờ là nói chuyện với vợ tôi. Cậu biết đấy, bà ấy là chuyên gia về lĩnh vực này.”

Thầy Rubin nhất định bắt Joe phải đi theo ông, ngay lập tức, tới nhà thờ lớn thuộc giáo hội trưởng lão được xây bằng gạch nằm ở trung tâm thành phố, nơi ủy ban Tư vấn về Quân dịch của Hội Phụ nữ được dành cho một căn phòng chật hẹp gió lùa làm trụ sở. Lúc đầu, giáo dân phát hoảng trước ý kiến nhà thờ của họ đỡ đầu cho một tổ chức như vậy, nhưng, bằng cách thuyết phục nhẹ nhàng, ông mục sư đã nhấn mạnh rằng người theo đạo Thiên Chúa có quyền phản đối chính phủ nếu lương tâm họ cảnh báo họ là chính phủ đã sai lầm. Khi giáo dân vẫn tiếp tục phản đối, ông mục sư giảng cho họ ba bài thuyết giáo về Những phiên tòa Nuremberg[4] rồi kết luận, “Gánh nặng của những phiên tòa ấy là lương tâm cũng có bổn phận. Nếu thanh niên của chúng ta quyết định rằng họ phải thực hành lương tâm đó thì chúng ta phải giúp họ làm điều đó một cách hợp pháp và có tính xây dựng.” Ông từ chối cho phép biểu quyết. “Đây không phải vấn đề có thể mang ra biểu quyết,” ông khăng khăng. “Đây là vấn đề lương tâm con người. Đây là sự mở rộng theo logic Những phiên tòa Nuremberg, và nhà thờ này sẽ thực hiện bổn phận của nó.” Lý lẽ của ông còn có tính thuyết phục hơn nữa vì bản thân ông đã từng là cha tuyên úy trong quân đội ở Guadalcanal.

Khi tiến sĩ Rubin dẫn Joe vào tầng hầm nhà thờ, họ thấy một người đàn bà nhỏ nhắn khỏe mạnh, khoảng bốn mươi tuổi, tóc chải búi gọn gàng, ngồi bên một cái bàn bừa bộn. Gật đầu chào chồng với vẻ thô lỗ, bà tuôn ra một tràng dồn dập, “Tôi rất mừng vì cậu không phải kẻ đào ngũ. Tôi đoán là cậu đã trả lại thẻ quân dịch và cậu muốn biết nên đi tù hay chạy trốn sang Canada. Làm sao tôi biết điều này ư? Sơ đẳng lắm, cậu Jackson thân mến.” Bà bồn chồn bật cười về câu nói đùa nhẹ nhàng của mình rồi tiếp tục, “Trong công việc này chúng tôi đã học được cách nhận diện những kẻ đào ngũ từ cách xa hàng dặm. Tóc cắt kiểu nhà binh, đi lê chân, bộ dạng lén lút. Mái tóc dài đã làm cậu không đủ tiêu chuẩn rồi. Về vấn đề thẻ quân dịch, Laurence không bao giờ dẫn người nào đốt thẻ đến đây, bởi vì đó là vấn đề liên quan đến pháp luật. Nhưng chắc phải là việc gì đó nghiêm trọng, nếu không ông ấy đã không phải mất công vào một ngày cuối năm như thế này. Voilà[5]!”

Bà mỉm cười, không có vẻ cởi mở lắm, đôi môi mím chặt như một nữ sinh viên đã có ý thức về bản thân nhưng chưa hoàn toàn trưởng thành. Tiến sĩ Rubin giới thiệu ngắn gọn rồi rời khỏi đó, còn bà tiếp tục câu chuyện, “Chàng trai, chúng ta sẽ bắt đầu với việc cậu thấy mình đang ở trong một hoàn cảnh hoàn toàn ngớ ngẩn. Nếu chúng ta làm như vậy thì việc lựa chọn phương án sẽ trở nên dễ dàng hơn đôi chút. Quan điểm của chính phủ rất mâu thuẫn, trái đạo đức, bất hợp pháp và, theo ý kiến riêng của tôi, còn trái với Hiến pháp nữa, xét ở điểm không có cuộc chiến tranh được tuyên bố chính thức. Điều này có nghĩa là không có cơ sở pháp lý cho các hoạt động mà họ sẽ tiến hành để chống lại cậu. Mặt khác, bằng việc trả thẻ quân dịch và chối bỏ chế độ, cậu đã đánh vào trung tâm của nền dân chủ hợp tác và cậu phải bị trừng phạt. Việc của chúng ta là phải xem xét chính xác cậu đang đứng ở đâu.

“Cậu có thể làm một trong ba việc. Ngày 2 tháng Giêng cậu có thể đến trình diện tại hội đồng quân dịch, xin họ bỏ qua bức thư của cậu và đề nghị phục hồi lại quyền lợi và nghĩa vụ. Điều này sẽ được chấp thuận nhanh chóng, vì không ai muốn rắc rối cả. Trong trường hợp của cậu, chúng tôi có thể chứng nhận cậu bị rối loạn thần kinh sau khi bị đánh bất hợp pháp vào đầu. Chúng tôi có thể thu xếp mọi việc dễ dàng, và tôi có nghĩa vụ pháp lý phải khuyên cậu như vậy.”

Thấy Joe lắc đầu không đồng ý, bà lại nói tiếp, “Không chấp nhận cách đó thì cậu sẽ tự động bị xếp trở lại loại 1-A và bị coi là phạm pháp. Cậu có thể bị bắt bất cứ lúc nào, nhưng nếu chưa ai gây sức ép thì có thể cậu vẫn chưa bị đâu, do đó bây giờ đối diện hai chọn lựa. Cậu có thể rời trường đại học và cố gắng ẩn trốn trong phạm vi Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Có một tổ chức ngầm hiệu quả sẽ làm hết khả năng có thể để giúp cậu. Tổ chức này hoạt động ở tất cả các thành phố... tìm việc cho những người như cậu... cho cậu quần áo... cho cậu thức ăn. Cậu sẽ ngạc nhiên bởi số lượng những người tử tế cả đàn ông lẫn đàn bà tự nguyện che giấu cậu và cung cấp cho cậu một kế sinh nhai nào đó. Nhưng không dễ đâu, bởi các hãng uy tín thường kiên quyết yêu cầu cậu trình thẻ quân dịch, điều đó có nghĩa một khi đã là tội phạm thì cậu không thể xin được bất cứ việc gì yên ổn ngoài công việc chui.

“Chọn lựa thứ ba của cậu là rời đất nước... trở thành một kẻ tị nạn chính trị. Nhưng trước khi cậu vội vàng chấp nhận điều này, tôi buộc phải báo trước cho cậu biết là ngay cả khi cậu đã tiến xa được tới mức trở thành công dân nước khác, thì ngày đặt chân trở lại trên đất Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ cậu sẽ bị bắt và đối mặt với thời gian cải tạo. Và cũng đừng trông chờ vào hy vọng ân xá, vì nước Mỹ thù rất dai, không có chuyện ân xá. Cuối Thế chiến II, Tổng thống Truman đã đề xướng việc thành lập hội đồng ân xá đầu tiên trong lịch sử nước ta. Hội đồng xem xét lại trên một trăm nghìn trường hợp trốn quân dịch và đào ngũ, cuối cùng chấp nhận ân xá cho năm nghìn người. Cậu phải đối diện với một thực tế là cuối cùng thế nào cậu cũng phải ngồi tù đấy.”

Joe hít một hơi thật sâu và kiên quyết nói, “Tôi không thể nhận lại thẻ quân dịch.”

Bà Rubin gật đầu tán thành. Bà luôn hài lòng khi nghe một thanh niên nói “Tôi không thể” hơn là “Tôi sẽ không”, bởi vì câu trước thể hiện lòng tin tinh thần không thể lay chuyển được, trong khi câu sau chỉ ngụ ý sở thích cá nhân không có cơ sở chắc chắn. Các chàng trai tôi-sẽ-không thường gặp phải rắc rối; những người tôi-không-thể thì vào trại giam.

Không khí trong căn phòng hẹp khá căng thẳng, và bà Rubin lên tiếng phá vỡ bầu không khí đó, “Nếu cậu thay đổi ý kiến và nhận lại thẻ quân dịch, chúng tôi vẫn có thể đưa ra cho cậu một vài giải pháp hấp dẫn thắng được cơ chế. Nhiều cô gái sẽ sẵn sàng lấy cậu... nhanh chóng có một đứa con. Hay chúng tôi có thể tìm một mục sư để huấn luyện cậu trở thành một người từ chối nhập ngũ vì lương tâm không cho phép. Cậu không theo thuyết vô thần phải không? Hay chúng tôi cũng có nhiều bác sĩ, họ sẽ cấp giấy chứng nhận rối loạn tâm lý. Với cái cú đập lên đầu ấy, thậm chí chúng tôi còn có thể xoay được một giấy chứng thương đàng hoàng. Hoặc là cậu có thể thú nhận là lối sống của mình đồi bại.”

“Không thú vị,” Joe đáp.

Đến lúc này bà Rubin phá lên cười, vẫn bẽn lẽn nhưng với hàm ý vui thích rõ rệt. “Nếu thế thì chỉ còn một lối thoát. Nhưng là một cách tuyệt vời. Tôi thích cách này vì nó nêu bật được tình trạng điên rồ mà chúng ta đang sống. Nếu cậu thực sự quyết tâm thoát quân dịch, giải pháp đơn giản là tập hợp hai người bạn cùng chí hướng và âm mưu bắn một con đại bàng trắng.”

“Cái gì?” Joe há hốc miệng kinh ngạc.

“Bất cứ thanh niên nào phạm trọng tội đều không đủ tiêu chuẩn phục vụ trong các lực lượng vũ trang của chúng ta. Vì giết người là một trọng tội, nên nếu cậu phạm tội giết người, cậu sẽ thoát quân dịch, nhưng có vẻ như đây là một cái giá quá đắt để trả cho tự do nhất thời, vì cậu có thể bị treo cổ. Còn nhiều trọng tội khác cậu sẽ không muốn dính vào, như tội phản quốc chẳng hạn. Trọng tội đơn giản nhất trong danh sách là bắn một con đại bàng trắng. Nhưng biết tìm đâu ra một con đại bàng trắng chứ? Vì vậy việc cậu cần làm là tham gia vào âm mưu bắn một con, và rồi thậm chí cậu chẳng phải nhọc công tìm kiếm cái đồ chết tiệt đó.”

Joe không phải kẻ hay cười, nhưng viễn cảnh lén lút mò vào một hành lang tối om, gõ ba tiếng lên một cánh cửa đóng im ỉm và thì thào, “Đi săn đại bàng nào, các chàng trai!” thật hợp tình hợp cảnh ở thời điểm này, khiến anh khúc khích cười, và trong bầu không khí đã bớt căng thẳng ấy, bà Rubin nói, “Vậy là chúng ta đối diện thực tế cậu đã chọn một con đường gian nan. Nếu cậu có thể trông chờ vào sự hỗ trợ tài chính nào đó từ phía cha mẹ cậu thì sẽ dễ dàng hơn. Cha cậu thế nào?”

“Một người bất hạnh bẩm sinh.”

“Mẹ cậu?”

“Bà sưu tập phiếu khuyến mãi.”

Anh không tự nguyện nói thêm nữa, vì vậy bà Rubin bỏ qua đề tài này. “Nói chung cậu quyết định làm gì?” bà hỏi.

“Vào lúc này tôi chưa nói được.”

“Về mặt pháp lý, tôi không được phép quyết định hộ cậu. Nhưng nếu cậu muốn hỏi tôi những câu hỏi thẳng thắn, tôi sẽ trả lời.”

Hơn ba phút trôi qua - một khoảng thời gian dài cho sự im lặng giữa hai con người - Joe ngập ngừng nói, “Tôi phát ốm lên với cái lối cảnh sát đánh đập anh bạn cùng phòng tôi. Khi bọn họ đánh tôi thì cũng không thành vấn đề quá to tát. Đó chỉ là một tai nạn. Nhưng họ truy bắt anh ấy và họ thực sự trút hận thù vào anh ấy.”

Bà Rubin không nói gì, và sau một khoảng im lặng dài nữa, Joe hỏi, “Giả dụ tôi muốn rời khỏi đất nước này? Thế thì sao?”

Bà Rubin lấy một chiếc bút chì nhọn mới gọt ra bắt đầu ghi thứ tự từng điểm. “Cậu sẽ có hai chọn lựa hiển nhiên, Mexico hoặc Canada. Lựa chọn đầu tiên thì khó hơn cả. Ngôn ngữ xa lạ. Phong tục tập quán xa lạ và ác cảm với các trò sinh viên cấp tiến. Mexico không thích hợp. Canada thì ổn. Nhiều người ở đó hiểu các vấn đề của cậu và thông cảm. Nhưng vào được đó không dễ. Dọc theo các bang phía Bắc của ta, viên chức phụ trách nhập cư của Canada bắt những người trốn quân dịch quay về và báo cho cảnh sát Mỹ. Để vào Canada, cậu phải móc nối với đường xe điện ngầm của chúng tôi ra khỏi New York.”

“Tôi làm vậy bằng cách nào?”

“Có một nhà thờ nằm trên Quảng trường Washington ở New York, nó thuộc khu Greenwich Village. Cậu đến đó liên lạc rồi họ sẽ gửi cậu lên phía Bắc.”

Joe không nói gì, vì vậy bà Rubin kết luận, “Về mặt pháp lý, tôi bắt buộc phải khuyên cậu đến trình diện ở trại giam ngay bây giờ và tôi cũng đề nghị cậu như vậy.” Bà lấy một mẫu đơn, ghi cẩn thận họ tên Joe, địa chỉ trường anh học và viết, “Tôi đã khuyên người thanh niên này chấp nhận thi hành án tù ngay lập tức.”

Nhưng khi Joe đứng lên ra về, bà tiễn anh ra tận cửa, nắm tay anh thì thầm, “Theo ý kiến cá nhân tôi, cậu nên tránh xa chuyện điên rồ này. Hãy tới Samarkand, Pretoria hay Marrakech. Tuổi trẻ là thời dành cho ước mơ và phiêu lưu, không phải chiến tranh. Hãy vào tù khi cậu đã bốn mươi tuổi, bởi vì lúc đó - ai thèm quan tâm chứ?”

—★—

Ngày 1 tháng Giêng năm 1969, Joe bắt đầu cuộc hành trình đi vào cảnh lưu đày, và việc không chọn đường Nam tiến dễ dàng để tới Boston mà chọn những xa lộ đóng băng ở miền Bắc đã thể hiện rõ tính cách của anh, anh cũng không hề nghĩ đến việc gọi điện thoại cho ông bố bà mẹ bất lực của mình: cha anh sẽ cằn nhằn còn mẹ anh sẽ khóc lóc, giữa cha mẹ và con cái sẽ chẳng nói được điều gì thích đáng cả.

Anh đi nhờ xe lên thung lũng trung tâm bang California, tới Sacramento thì theo hướng Đông tới Reno. Các ngọn đèo cao đều phủ tuyết, vì vậy thỉnh thoảng anh có thể ngước lên cả hai bên thấy những dải băng đặc nằm cách ba, bốn foot[6] phía trên đầu. Rồi anh cắt ngang qua bang Nevada trống trải hoang vắng để tới Salt Lake City, dành một vài ngày ở đây để cảm nhận thủ đô của những người theo đạo Mormon, nhưng những phút giây ngây ngất đầu tiên - sự phấn khích mà anh kiếm tìm, cảm nhận về nước Mỹ - chỉ tới sau này, khi anh vượt qua những vùng đất hoang bao la cằn cỗi của bang Wyoming. Con đường chạy dài về phía Đông bằng những đường uốn lượn đẹp mắt qua núi non và những đồng bằng vô tận. Anh nhanh chóng vượt qua năm, sáu mươi dặm đường, không hề nhìn thấy dù chỉ một trạm xăng, chỉ thỉnh thoảng mới có một thị trấn nhỏ xíu trông như con bê lạc đàn lang thang vô định trong khoảng mênh mông của bầu trời và vùng đất hoang vu.

Trên dãy núi Continental pide chia cắt vùng đất phía Tây mà Joe vừa đi qua với vùng phía Đông mà anh sắp đến, một cơn bão tuyết đuổi kịp anh, rồi khi anh ngồi trong chiếc xe tải xuyên qua đêm tối tiến về Cheyenne, ánh đèn pha phản chiếu lên hàng triệu bông tuyết lấp lánh.

“Đây là vùng đất tuyệt vời,” anh hài lòng lẩm bẩm với lái xe, nhưng người này chỉ lo ngại nhìn con đường trước mặt càu nhàu, “Đáng lẽ họ nên để nó lại cho người da đỏ.”

Phía Đông thành phố Rawlins, tuyết phủ dày đến nỗi máy cày cũng bị sa lầy, buộc một hàng dài xe tải và những chiếc xe con tư nhân liều lĩnh phải dừng lại ở ngã tư, giao với đường 130 từ phía Nam. Lái xe và hành khách chen chúc trong một quán ăn nhỏ, gặp đúng lúc không có người giúp việc, ông chủ phải mệt bở hơi tai phục vụ cà phê và bánh cuộn.

“Đây là vùng đất tuyệt vời,” Joe nói với một nhóm người đang túm tụm quanh lỗ thông hơi của bếp lò.

“Anh đi về phía Đông hay Tây?” một người hỏi.

“Đông.”

“Anh không đi lính à?” một người lớn tuổi hỏi, chỉ vào mái tóc dài của Joe.

“Không.”

Sau này Joe không sao hình dung lại được những gì diễn ra tiếp theo, nhưng không biết thế nào mà mọi người lại nảy ra ý nghĩ anh đang đi về phía Đông để hoàn thành thủ tục tuyển quân, họ khăng khăng đòi trả tiền cà phê và mua thuốc lá cho anh.

“Những năm tháng tuyệt vời nhất tôi từng trải qua chính là thời gian ở trong quân đội,” một anh lái xe tuyên bố.

“Họ đã dạy tôi làm thế nào tránh xa rắc rối,” một người khác tán thành.

Một người đàn ông lớn tuổi xen ngang, “Tôi đã trải qua ba năm tuyệt diệu ở Nhật.” Ông ta cười thích thú. “Tôi đã đánh nhau với bọn con hoang da vàng bé nhỏ từ Guadalcanal tới vịnh Leyte; tôi ngủ với bọn chúng từ Osaka tới Tokyo - và tôi sẽ làm lại c?