Phần 2 Chương 9 NGỌN HẢI ĐĂNG MẶC KHẢI
Tôi cố gắng thích nghi với cuộc sống mới. Tôi bắt đầu chơi điện tử, xem bóng đá, chơi bóng đá, đánh bài đến tối khuya, thậm chí còn đem trả lại hết những cuốn sách chuyên ngành đã mượn ở thư viện, sau đó ôm về một chồng đĩa DVD. Tồi tập tành chơi cổ phiếu, còn định nuôi một chú chó. Tôi tiếp tục thói nghiện rượu đã học được ở Siberia. Có lúc tôi uống một mình, có lúc uống với những người mà gần đây tôi kết giao được, ngày càng nhiều, đủ các thành phần… Tôi thậm chí còn định tìm một cô bạn gái, lập gia đình, chỉ tiếc là chưa có cơ hội. Tôi không còn phải nhìn chăm chăm vào đống phương trình vi phân tới ngơ ngẩn vào lúc hai giờ đêm, chờ đợi một kết quả chắc chắn sẽ làm mình thất vọng nữa. Trước kia, tôi rất quý trọng thời gian, còn hiện tại thì thời gian đối với tôi như vô hạn. Lần đầu tiên, tôi biết thế nào là thư thái và nhàn hạ; lần đầu tiên, tôi biết cuộc sống có nhiều điều phong phú tới vậy; lần đầu tiên, tôi chợt nhận ra những người trước kia bị tôi khinh thường và thương hại hóa ra lại sống tốt hơn tôi rất nhiều. Sau hơn một tháng, tôi bắt đầu mập lên, đầu tóc vốn đã ít ỏi lại bị rụng nhiều giờ bắt đầu rậm rạp trở lại, hơn một lần, tôi thầm chúc mừng bản thân, giờ tỉnh lại hóa ra vẫn chưa muộn.
Thế nhưng đôi khi, chỉ trong vài giây ngắn ngủi, tôi của quá khứ lại sống dậy như một bóng ma. Thường là vào lúc tỉnh dậy giữa đêm, trong khoảnh khắc ấy, tôi luôn thấy mình đang ngủ trong cái hang sâu hẻo lánh dưới lòng đất kia, đàn tế sừng sững trong bóng tối, phía trên khắc rất nhiều đường cong ngoằn ngoèo như những con rắn… Nhưng chẳng mấy chốc, hình ảnh cây cối được đèn đường chiếu sáng hắt bóng lên tấm rèm cửa khiến tôi nhận thức được mình đang ở đâu, sau đó nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Chuyện này cũng giống như ta đang chôn một cái xác ở sau vườn, rất sâu, ta cho rằng mình đã thoát khỏi nó, nhưng không hề, ta luôn biết nó ở đó, quan trọng hơn hết, ta luôn biết rằng mình biết. Ta biết rõ sau này muốn thực sự thoát khỏi nó thì phải ra sau vườn, đào nó lên, chạy tới một nơi thật xa để thiêu hủy nó, nhưng ta không đủ sức lực để làm việc ấy nữa. Chôn càng sâu, ta càng khó đào lên, lại càng không dám mường tượng xem nó ở trong lòng đất đã biến dạng thành thứ gì rồi.
Nhưng rồi chỉ hơn một tháng sau, số lần tôi của ngày trước trở về càng thưa dần, vì tôi đã đem lòng thích một cô gái. Cô ấy là sinh viên đại học mới đến Sở làm việc, tôi cảm thấy rất rõ rằng cô ấy cũng có ấn tượng tốt về tôi. Buổi sáng ngày đầu tiên của đợt nghỉ lễ Quốc tế Lao động, tôi ngồi trong ký túc xá do dự mấy phút, cuối cùng quyết tâm mời cô ấy đi ăn, tôi định bụng đứng dậy tới tìm cô ấy nhưng nghĩ lại, có lẽ gọi điện sẽ tốt hơn, thế là tôi với lấy điện thoại…
Cuộc sống mới này của tôi có lẽ sẽ tiếp tục thoải mái và suôn sẻ. Tôi sẽ yêu, sau đó lập gia đình, có con cái, có sự nghiệp thành công mà ai ai cũng mong muốn. Tôi sẽ có một cuộc sống bình thường và hạnh phúc như đa số mọi người. Có lẽ, trong những năm tháng xế chiều, khi ngồi trên bãi biển dưới ánh chiều tà, những ký ức thầm kín nhất sẽ hiện lên đôi chút, tôi sẽ nhớ về con phố nhỏ ở Vân Nam, Thái Sơn trong cơn giông bão, căn cứ vũ khí sét ở ngoại ô Bắc Kinh và Siberia trong gió tuyết, sẽ nhớ tới cô gái mặc quân phục và thanh kiếm sắc nhọn trước ngực… Nhưng lúc ấy, mọi thứ đó đã xa lắm rồi, như thể ở trong một thời không khác.
Tay tôi vừa chạm tới ống nghe thì điện thoại đổ chuông.
Người gọi tới là Đại tá Giang Tinh Thần, anh ấy hỏi tôi đợt nghỉ lễ này có dự định gì không, tôi đáp mình chưa có kế hoạch gì cả.
“Anh có muốn giong thuyền ra khơi không?”
“Có chứ, như thế được không?”
“Vậy thì đi thôi.”
Sau khi đặt điện thoại xuống, tôi có phần kinh ngạc, tôi và anh ấy mới chỉ gặp nhau một lần, từ sau lần gặp ở chỗ của Lâm Vân thì cũng chưa từng liên lạc lại, vậy anh ấy mời tôi là có ý gì? Tôi vội vàng thu dọn đồ đạc, bay tới Quảng Châu, quên mất hẳn chuyện mời cô gái đi ăn tối.
Tôi tới Quảng Châu trong ngày, không khí trước chiến tranh nơi đây mạnh mẽ hơn thủ đô rất nhiều, xe quân sự ở khắp mọi nơi, đâu đâu cũng thấy bảng hiệu, áp phích về phòng không. Trong lúc này, đội trưởng của hạm đội Nam Hải vẫn ung dung khiến tôi cảm thấy khó hiểu. Ngày hôm sau, tôi lên một con thuyền nhỏ một buồm ra khơi từ Xà Khẩu*; trên thuyền, ngoài tôi và Đại tá Giang, còn có một sĩ quan hải quân và một viên phi công hải quân. Giang Tinh Thần nhiệt tình dạy tôi mấy thứ về hàng hải, dạy xem bản đồ, dùng kính lục phân. Tôi nhận thấy điều khiển thuyền buồm là một công việc rất mệt mỏi, ngoài việc bị dây thừng cọ rách da ngón tay, tôi chẳng giúp đỡ được gì cả. Đa phần thời gian tôi ngồi một mình ở mũi thuyền, ngắm nhìn biển xanh mây trắng, ngắm ánh sáng mặt trời nhảy múa trên mặt biển, ngắm mây trắng như pha lê đổ bóng trên sóng biển, cảm thấy vô cùng sống động.
“Những người cả ngày ở trên biển như các anh vẫn dùng cách này để tiêu khiển sao?” Tôi hỏi Giang Tinh Thần.
“Tất nhiên là không rồi, chuyến đi lần này là dành cho anh,” anh ấy bí ẩn đáp.
Chạng vạng, chúng tôi tới một hoang đảo nhỏ, rộng bằng khoảng hai sân bóng đá, có duy nhất một ngọn hải đăng không người canh gác. Chúng tôi định qua đêm trên đảo. Vừa lúc chúng tôi mang lều và các vật dụng khác từ thuyền buồm lên đảo, thì phía xa xuất hiện một cảnh tượng kỳ lạ.
Biển và bầu trời ở phía Tây được nối liền với nhau bởi một vành đai khổng lồ. Nửa dưới của vành đai ấy có màu trắng, còn nửa trên đỏ sẫm do ánh tà dương chiếu vào. Vành đai ấy trông giống như một sinh vật sống uốn lượn trong biển trời. Trong không gian tĩnh lặng đột nhiên xuất hiện một vật thể lạ khổng lồ như vậy, chẳng khác nào trên bãi cỏ xanh giữa buổi dã ngoại tự dưng xuất hiện một con trăn lớn, khiến thế giới quen thuộc bỗng chốc trở nên lạ lùng và hung ác.
“Ồ, Tiến sĩ Trần, chúng ta có tiếng nói chung rồi! Anh đoán xem nó khoảng chừng cấp mấy?” Giang Tinh Thần chỉ tay về hướng đó rồi hỏi tôi.
“Tôi không chắc lắm, đây cũng là lần đầu tiên tôi nhìn thấy một cơn lốc xoáy… Có lẽ là F2*,” tôi trả lời.
“Chúng ta có gặp nguy hiểm không?” Phi công lo lắng hỏi.
“Đánh giá theo hướng di chuyển thì không đâu,” vị đại tá bình tĩnh trả lời.
“Nhưng làm thế nào mà anh biết được cơn lốc đó không chuyển hướng qua đây?”
“Lốc xoáy thường di chuyển theo đường thẳng”
Cơn lốc xoáy ở rất xa di chuyển về phía đông, lúc cơn lốc gần với hòn đảo nhất, bầu trời tối sầm lại, chúng tôi nghe thấy âm thanh ầm ầm trầm thấp, âm thanh ấy làm tôi ớn lạnh. Tôi quay lại nhìn Giang Tinh Thần, anh ấy vẫn rất bình tĩnh, phong thái ung dung, cho tới khi cơn lốc biến mất, tôi mới miễn cưỡng không nhìn nữa.
“Trong giới khí tượng học gần đây có tiến bộ nào về kỹ thuật dự báo lốc xoáy không?” Đại tá hỏi.
“Hình như không. Lốc xoáy và địa chấn là hai loại thiên tai khó dự báo nhất.”
“Dựa theo sự thay đổi của khí hậu, biển Đông dần trở thành vùng biển thường xuyên xảy ra lốc xoáy, trở thành mối đe dọa rất lớn.”
“Sao lại thế? Tàu sân bay cũng sợ lốc xoáy sao? Lốc xoáy có thể cuốn sạch mọi phi cơ ở trên boong tàu cơ à?”
“Tiến sĩ Trần, anh nghĩ đơn giản quá rồi,” vị trung tá hải quân đi cùng trả lời. “Kết cấu của tàu sân bay thường chỉ chịu được lốc xoáy cấp độ F2 thôi. Nếu tiếp xúc với một cơn lốc xoáy lớn hơn thì boong chính sẽ bị bẻ gãy. Như vậy sẽ trở thành thảm họa khủng khiếp nhất đấy!”
Khi nước biển bị lốc xoáy cuốn lên trời bắt đầu đổ ập xuống, hình thành nên một trận mưa bão dữ dội nhưng ngắn ngủi, trong mưa còn mang theo vài con cá sống bay lạc tới hòn đảo, trở thành bữa ăn tối của chúng tôi.
Tôi và vị đại tá cùng đi dạo trên bãi biển dưới bầu trời đêm đầy sao, làm tôi nhớ về đêm ở Thái Sơn.
“Việc anh rời khỏi dự án nghiên cứu sét hòn khiến Lâm Vân rất buồn. Dự án này không thể thiếu anh, cho nên tôi đã xung phong tới thuyết phục anh quay lại, còn cam đoan với Lâm Vân rằng mình sẽ thành công” Giang Tinh Thần lên tiếng.
Sắc đêm trên biển rất trầm, nhưng tôi có thể mường tượng được nụ cười của anh ấy, vì người yêu mà đảm đương một nhiệm vụ như vậy quả thực rất tự tin. Nhưng mặt khác, còn bao hàm một sự khinh thường nào đó của Lâm Vân dành cho tôi mà anh ấy chưa ý thức được.
“Đại tá Giang, dự án nghiên cứu đó không có hy vọng nào đâu,” tôi nhìn mặt biển trong đêm thở dài.
“Lâm Vân nói với tôi rằng lần tới Nga đó đã ảnh hưởng rất lớn tới anh. Thực ra, anh không cần cảm thấy sợ hãi trước khoản đầu tư khổng lồ và thời gian dài của họ. Từ những lời Lâm Vân khái quát với tôi sau khi quay về, tôi nhận ra rằng: Người Liên Xô đã sử dụng một cơ chế nghiên cứu vũ khí cứng nhắc để nghiên cứu một môn cơ bản trong giới khoa học tự nhiên. Vậy nên trong quá trình nghiên cứu không tránh được những thiếu sót về cách tư duy mới, trí tưởng tượng và sức sáng tạo.”
Lời ít ý nhiều của Giang Tinh Thần đã đặt đúng chỗ, cần một tầm nhìn nhất định để coi việc nghiên cứu sét hòn là khoa học cơ bản.
“Hơn nữa, sét hòn cũng từng là mục tiêu theo đuổi cả đời của anh, Lâm Vân nói với tôi như vậy. Nếu quả thực là vậy, anh đừng vội từ bỏ. Ví dụ như tôi, tôi từng có lý tưởng trở thành một học giả nghiên cứu chiến lược quân sự, nhưng vì nhiều lý do mà rẽ sang con đường hiện tại. Dù ngồi đến vị trí này, trong lòng tôi vẫn cảm thấy rất lạc lõng”
“Để tôi nghĩ thêm xem sao,” tôi mơ hồ đáp, nhưng cuộc nói chuyện ngay sau đó khiến tôi nhận ra mọi thứ phức tạp hơn những gì mình tưởng rất nhiều.
“Anh cộng tác với Lâm Vân cũng được một thời gian dài rồi, có lẽ cũng hiểu nhiều điều về cô ấy. Suy nghĩ và tính cách của cô ấy có vài… yếu tố nguy hiểm, tôi muốn anh giúp cô ấy tránh khỏi mối nguy hiểm đó.”
“Nguy hiểm mà anh nói tới là bản thân cô ấy hay phương diện… khác?” Tôi bối rối.
“Cả hai. Để tôi kể cho anh chuyện này: Lúc Trung Quốc gia nhập Chiến dịch Quốc tế về chống bom mìn, Lâm Vân đang học thạc sĩ, cô ấy cho rằng hành động này là hoàn toàn sai lầm. Vì bom mìn là vũ khí chống xâm lược, là vũ khí của người nghèo. Sau này, vào năm đầu học tiến sĩ, cô ấy đã tự nghiên cứu chế tạo ra một loại mìn mới. Cô ấy cùng hai bạn học nữa nghiên cứu nó trong phòng thí nghiệm. Mục tiêu của cô ấy là chế tạo ra một loại mìn mà các thủ đoạn truyền thống không thể phát hiện được, vốn bị nghiêm cấm bởi Chiến dịch chống bom mìn. Kết quả là cô ấy đã thành công, loại mìn đó thoạt nhìn rất đơn giản.”
“Tôi đã nhìn thấy đoạn trúc treo trong xe của cô ấy,” tôi nói xen vào.
Vị đại tá xua tay phản bác: “Không, không, thứ đó so với loại mìn mà cô ấy chế ra chỉ là một món đồ chơi mà thôi. Thứ cô ấy phát minh ra là loại mìn chất lỏng kia, thoạt nhìn thì chẳng khác gì một chất lỏng trong suốt không màu, nhưng thực tế lại sử dụng kỹ thuật nano để cải tạo thành nitroglycerin*, loại bỏ tính nhạy cảm của chất lỏng nổ này đối với rung động nhưng lại gia tăng tính nhạy cảm của nó với áp suất. Cho nên, độ sâu khi lưu trữ chất lỏng này đã bị hạn chế nghiêm ngặt. Thùng chứa được chia thành nhiều lớp không thông với nhau, để phòng trừ trường hợp chất lỏng dưới đáy chịu áp suất lớn rồi phát nổ. Nếu chất lỏng này được đổ trên mặt đất thì sẽ được coi như cài xong mìn, chỉ cần có người đi trên khoảnh đất này thì nó sẽ kích nổ, độ sát thương rất lớn, đặc công truyền thống không thể phát hiện ra được. Cô ấy đề xuất loại mìn này với cấp trên, yêu cầu trang bị cho quân đội. Tất nhiên là cô ấy đã bị phê bình đích đáng. Cô ấy thề rằng sẽ khiến mọi người thấy tiềm năng của loại mìn này trên chiến trường”
“Từ niềm đam mê của cô ấy với vũ khí, đặc biệt là loại vũ khí khái niệm mới, tôi có thể hình dung ra được những chuyện như vậy.”
“Nhưng chuyện sau đây anh khó mà tưởng tượng được đấy: Trong cuộc xung đột biên giới giữa Chile và Bolivia nửa đầu năm ngoái đã xuất hiện loại mìn này, gây sát thương rất lớn.”
Tôi hoảng hốt nhìn vị đại tá, nhận ra tính nghiêm trọng của vấn đề.
“Không thể tưởng tượng nổi là loại mìn này được sử dụng bởi cả hai phe đối lập, quân đội Chile và Bolivia.”
“Hả!” Tôi dừng bước, từ hoảng hốt chuyển sang sợ hãi.
“Nhưng… Cô ấy chỉ là một thiếu tá, có thể có được cách đó sao?”
“Xem ra Lâm Vân chưa nói với anh nhiều về bản thân mình. Cô ấy cũng ít khi nói với ai về chuyện này.” Giang Tinh Thần nhìn tôi, trong bóng tối, tôi không nhìn rõ được ánh mắt của anh ấy, nhưng tôi chắc chắn câu nói vừa rồi hàm chứa ý sâu khó lường. “Đúng vậy, cô ấy có cách.”
Sau khi trở về lều, tôi không ngủ được nên kéo mở khóa, trông ra ngọn hải đăng bên ngoài, kỳ vọng rằng ánh sáng nhấp nháy đều đều có quy luật của nó sẽ có tác dụng thôi miên. Và đúng là thế thật, trong lúc ý thức dần trở nên mơ hồ, ngọn hải đăng dần tan biến vào màn đêm, sau đó chỉ còn lại ánh sáng chớp tắt chớp mở. Lúc sáng đèn thì nhìn thấy ngọn hải đăng, nhưng sau đó thì chỉ còn lại màn đêm vô biên. Tôi mơ hồ nhận ra điều này rất quen thuộc, một âm thanh rất nhỏ vang lên trong đầu tôi, giống như bong bóng nước nổi lên từ biển sâu: “Ngọn đèn đó vốn ở đấy, nhưng chỉ khi có ánh sáng thì anh mới thấy được…”
Trong đầu tôi chợt lóe lên một tia sáng, tôi đột ngột ngồi thẳng dậy, thừ ra một lúc lâu trong tiếng sóng biển, sau đó, tôi lay Giang Tinh Thần đang nằm ngủ bên cạnh dậy.
“Đại tá, chúng ta có thể quay về được không?”
“Để làm gì?”
“Đương nhiên là để nghiên cứu sét hòn rồi!”