Chương 7
Toda Hiromatsu , Chúa tể của tỉnh Sagami và Kozuke, vị tướng và cố vấn thân tín nhất của Toranaga, tổng tư lệnh tất cả các đạo quân, bước xuống ván cầu, lên bến một mình. Ông cao so với người Nhật, xấp xỉ sáu feet (Đơn vị đo chiều dài Anh; 1 feet = 0,3048m), giống như một con bò mộng cường tráng. Chiếc kimono nhà binh bằng lụa nâu thẳng tắp với huy hiệu biểu tượng của Toranaga - ba cành tre nhỏ đan vào nhau. Ông mặc áo giáp che ngực bóng loáng và giáp che cánh tay bằng thép. Ở thắt lưng chỉ có một thanh kiếm ngắn. Thanh kia, thanh kiếm để chém, ông cầm lăm lăm trong tay. Ông sẵn sàng rút nó ra tức thì để bảo vệ Chúa của mình. Đó là thói quen từ khi ông mười bảy tuổi.
Không một người nào, kể cả Taiko, có thể làm ông thay đổi thói quen đó.
Một năm trước đây, khi Taiko chết, Hiromatsu trở thành chư hầu của Toranaga. Toranaga đã cho ông Sagami và Kozuke, hai trong số tám tỉnh của mình, để cai trị, mỗi năm được năm trăm nghìn Koku và vẫn để ông giữ nguyên thói quen của mình - Hiromatsu giết người rất giỏi.
Lúc này trên bãi biển đầy dân làng - đàn ông, đàn bà, trẻ con - tất cả đều quỳ, đầu cúi thấp. Samurai xếp thành hàng nghiêm chỉnh, ở phía trước. Yabu đứng ở hàng đầu, cùng những cận vệ của mình.
Nếu Yabu là một phụ nữ hoặc một người yếu đuối hơn, hẳn lão phải đấm ngực than vãn hoặc vò đầu, bứt tai. Trường hợp này thật là quá sức. Toda Hiromatsu lừng lẫy tiếng tăm có mặt ở đây, vào ngày này, có nghĩa là Yabu đã bị phản bội - hoặc ở Yedo do một người trong gia đình lão, hoặc ở Anjiro này, do Omi, một người của Omi, hoặc những người trong dân làng, một kẻ nào đó bất tuân lệnh lão. Một kẻ thù nào đó đã lợi đụng mối quan tâm của lão đối với con tàu.
Lão quỳ xuống và tất cả các Samurai của lão làm theo, lão nguyền rủa con tàu và tất cả mọi người đi trên con tàu ấy.
"À, Yabu Sama", lão nghe Hiromatsu nói, và thấy ông này quỳ trên tấm chiếu đã trải sẵn để đáp lễ. Nhưng độ sâu của cái chào ấy không đúng lẽ, bởi vậy lão biết, lão đang ở trong tình trạng cực kỳ nguy hiểm.
Lão thấy viên tướng ngồi trên gót chân. Quả Đấm Sắt, lão đã từng nghe nói. Chỉ có Toranaga hoặc một trong ba cố vấn của ông được đặc quyền cắm cờ Toranaga. Tại sao lại phái một vị tướng quan trọng như vậy để bắt quả tang mình rời khỏi Yedo?
"Ngài đã ban cho tôi niềm vinh dự là đã đến một trong những làng nghèo nàn của tôi, thưa Hiromatsu Sama", lão nói.
"Chủ của ta ra lệnh cho ta đến đây", Hirornatsu nổi tiếng là một người ăn nói thẳng thừng. Ông không có sự khéo léo láu lỉnh gì hết, chỉ có một niềm tin tuyệt dối vào chủ của mình.
"Tôi rất vinh dự và sung sướng", Yabu nói.
"Tôi phải vội vã từ Yedo tới đây vì cái tàu của bọn rợ đó."
"Lãnh chúa Toranaga đã mời tất cả Daimyo thân hữu đợi ở Yedo cho đến khi Người từ Osaka trở về."
"Chúa công của chúng ta ra sao? Tôi hi vọng mọi chuyện đều tốt đẹp với Người chứ ạ?"
"Lãnh chúa Toranaga càng sớm yên ổn trở về lâu đài của người ở Yedo chừng nào càng hay chừng nấy. Cuộc đụng độ với Ishido càng mở màn sớm chừng nào và chúng ta dẫn quân cắt một con đường trở lại lâu đài Osaka, đốt nó thành tro bụi sớm chừng nào tất chừng ấy."
Quai hàm ông già đỏ lên khi nỗi lo lắng của ông cho Toranaga càng tăng. Ông ghét phải xa cách Chúa của mình.
Taiko đã xây dựng lâu đài Osaka vững chắc không thể phá nổi. Nó là lâu đài vĩ đại nhất trong toàn đế quốc với những pháo đài, hào rãnh, tháp canh, cầu và một khoảng rộng cho tám vạn quân lính ở bên trong tường thành và chung quanh những bức tường là thành phố khổng lồ, là những đạo quân khác, cũng có kỷ luật như vậy, được vũ trang như vậy, tất cả đều là những người ủng hộ cuồng tín của Yaemon, công tử thừa kế.
"Tôi đã thưa với Người hàng chục lần rằng, có điên mới đưa mình vào vòng quyền lực của Ishido. Mất trí."
"Lãnh chúa Toranaga phải đi, đúng không? Người không còn con đường nào khác"
Taiko đã ra lệnh cho Hội đồng Nhiếp chính trị vì dưới danh nghĩa của Yemon, phải họp trong mười ngày, ít nhất là hai lần trong một năm, và bao giờ cũng phải ở trong lâu đài Osaka và mang theo tối đa năm trăm tùy tùng vào trong thành. Và tất cả các Daimyo khác cũng có nhiệm vụ một năm hai lần phải đến thăm lâu đài cùng với gia đình của họ, để tỏ lòng kính trọng đối với người thừa kế. Như vậy, tất cả đều bị kiểm soát ,mỗi năm tất cả đều không được bảo vệ trong một thời gian.
"Cuộc họp đã ấn định, đúng không? Nếu Người không đi, như vậy là phản bội?"
"Phản bội ai?" Hiromatsu càng đỏ mặt lên.
"Ishido đang cố cô lập chủ của chúng ta. Nếu tôi nắm được Ishido trong tầm tay của mình, như ông ấy hiện nay đang nắm Lãnh chúa Toranaga, tôi sẽ không do dự một giây - dù nguy hiểm đến thế nào chăng nữa, đầu của ông ta đã lìa khỏi cổ từ lâu, và linh hồn của ông ấy phải đang được tái sinh."
Vị tướng bất giác vặn bao kiếm bao năm thân thiết đang cầm trong tay trái. Bàn tay phải gân guốc, chai sạn để sẵn trong lòng. Ông ngắm nghía con tàu Erasmus.
"Đại bác đâu?"
"Tôi cho đem lên bờ, cho an toàn. Ngài Toranaga liệu có thoả hiệp một lần nữa với Ishido không?"
"Khi ta rời Osaka tất cả đều yên tĩnh. Hội đồng sẽ họp trong ba ngày nữa."
"Liệu sự mâu thuẫn có trở nên công khai không?"
"Ta thích nó công khai. Nhưng Chúa công của ta ư? Nếu Người muốn thỏa hiệp, Người sẽ thỏa hiệp."
Hiromatsu nhìn lại Yabu.
"Người ra lệnh cho tất cả Daimyo liên minh đợi Người ở Yedo Cho đến khi Người trở về. Đây khôrg phải là Yedo."
"Vâng. Tôi cảm thấy con tàu này đủ quan trọng đối với sự nghiệp của chúng ta, nên cần phải điều tra nó ngay."
"Không cần, Yabu Sama ạ. Đáng lẽ ra ông nên tự tin hơn. Không một chuyện gì xảy ra mà không được chủ ta biết. Đáng lẽ Người đã sai người nào đó đi điều tra. Người ấy là ta. Ông ở đây được bao lâu rồi?"
"Một ngày và một đêm."
"Vậy là hai ngày từ Yedo đến?"
"Vâng."
"Ông đến rất nhanh. Ông đáng được khen ngợi."
Để tranh thủ thời giản, Yabu bắt đầu kể cho Hiromatsu về chuyến đi bắt buộc của mình. Nhưng trí óc lão còn để vào những vấn đề cốt tử hơn. Ai là gián điệp? Làm sao Toranaga có được thông tin về con tàu cũng nhanh như lão? Và ai đã bảo cho Toranaga về chuyến đi của lão? Bây giờ lão biết ứng xử ra sao để đương đầu với Hiromatsu .
Hiromatsu nghe hết, rồi nói như đinh đóng cột:
"Lãnh chúa Toranaga tịch thu con tàu và tất cả những thứ bên trong của nó."
Một sự yên lặng choáng váng tràn ngập bãi biển. Đây là Izu, thái ấp của Yabu. Toranaga không có quyền gì ở đây. Hiromatsu cũng chẳng có quyền ra lệnh.Yabu nắm chặt đốc kiếm.
Hiromatsu chờ đợi với một sự bình tĩnh thành thục, ông làm đúng như Toranaga ra lệnh và giờ đây ông đã lâm cuộc. Rõ ràng là giết hay bị giết.
Yabu lúc này cũng biết mình đã lâm cuộc. Không còn đợi chờ gì nữa. Nếu lão từ chối không trao con tàu thì lão sẽ phải giết Hiromatsu - Quả Đấm Sất. Bởi vì Hiromatsu - Quả Đấm Sắt không bao giờ chịu đi không. Có lẽ có khoảng hai trăm Samurai có hạng trên thuyền đang buông neo ở bến. Họ cũng phải chết. Lão có thể mời họ lên bờ, chiêu đãi họ trong vòng vài tiếng đồng hồ, lão sẽ có đủ Samurai ở Anjiro để đè bẹp tất cả bọn họ, bởi vì lão là bậc thầy của phục kích.
Nhưng như vậy sẽ khiến Toranaga phái quân đánh Izu. Mình sẽ bị nuốt chửng, lão tự nhủ, trừ phi Ishido đến cứu mình. Mà tại sao Ishido lại cứu mình, khi kẻ thù của mình, Ika là họ hàng và cũng muốn chiếm Izu này cho chính hắn? Giết Hiromatsu sẽ mở ra sự thù địch, bởi vì Toranaga vì danh dự sẽ phải điều quân đánh mình, sẽ thúc đẩy bàn tay Ishido, và Izu sẽ là bãi chiến trường đầu tiên.
Còn súng của ta thì sao? Những khẩu súng đẹp và kế hoạch đẹp của ta? Ta sẽ mất một dịp cốt tử vĩnh viễn nếu phải trao chúng cho Toranaga.
Tay lão đặt trên đốc kiếm Mura Sama, lão cảm thấy máu rần rật chảy trong cánh tay cầm kiếm thôi thúc lão đến chóa mắt. Lão bỏ ngay cái khả năng không nhắc tới những khẩu hỏa mai. Nếu tin tức về con tàu đã bị phản bội thì chắc chắn là những hàng hóa của nó cũng bị phản bội như vậy.
Nhưng làm sao Toranaga nhận được tin sớm như vậy? Bằng chim đưa thư? Đó là câu trả lời duy nhất. Từ Yedo hay từ đây? Ở đây ai có chim đưa thư? Tại sao mình lại không có dịch vụ như vậy? Đó là lỗi của Zukimoto - anh ta nên nghĩ tới điều đó mới phải.
Hãy quyết định đi. Chiến tranh hay không chiến tranh? Yabu kêu gọi ác quỷ, các thần, cả các vị thần linh đã có và được nghĩ ra, hãy trừng phạt kẻ đã phản bội lão, cả cha mẹ họ, cả đời đời dòng giống họ. Và lão chấp nhận.
"Lãnh chúa Toranaga không thể tịch thu con tàu bởi vì nó sẽ là món quà tặng. Tôi đã đọc một lá thư. Có phải vậy không Zukimoto?"
"Thưa ngài, vâng."
"Tất nhiên, nếu Lãnh chúa Toranaga muốn coi nó là bị tịch thu, Người có thể coi như vậy. Nhưng nó là món quà tặng." Yabu sung sướng thấy giọng mình nghe có vẻ thực tế.
"Người sẽ vui với món quà này."
"Thay mặt chủ ta, cám ơn ông."
Hiromatsu thán phục tài tiên tri của Toranaga.
Toranaga đoán trước được điều này sẽ xảy ra và sẽ không có đánh nhau.
"Tôi không tin điều đó", Hiromatsu đã nói.
"Không một Daimyo nào lại để quyền lợi của mình bị tước đoạt như vậy. Yabu sẽ không chịu. Tôi cũng không chịu. Ngay cả để cho tướng công nữa, thưa tướng công."
"Nhưng nếu là ông, thì ông đã tuân lệnh và đã nói cho tôi biết về con tàu rồi. Yabu cần phải được vận động, đúng không? Tôi cần sự hung bạo và quỷ quyệt của hắn - hắn vô hiệu hóa Ikaoa Jikkiu và bảo vệ sườn của ta."
Ở đây trên bãi biển, dưới ánh nắng chan hòa, Hiromatsu đã buộc mình cúi chào, bực bội vì cái trò hai mang này.
"Chúa công Toranaga sẽ rất hài lòng vì sự hào phóng của ông."
Yabu theo sát ông:
"Đây không phải là tàu Portugal."
"Vâng. Chúng tôi đã nghe nói."
"Và nó là hải tặc."
Lão thấy con mắt viên tướng bé lại.
"Hả?"
Trong khi lão kể cho viên tướng nghe những điều gã thầy tu nói, Yabu suy nghĩ, nếu như nó mới lạ đối với ngươi cũng như đối với ta, phải chăng điều đó có nghĩa là Toranaga có cùng nguồn thông tin như ta? Nhưng nếu ngươi biết bên trong con tàu có gì, thì tên gián điệp ấy là Omi, hoặc một tên Samurai của anh ta hay một người làng.
"Có rất nhiều vải vóc. Một số báu vật. Hỏa mai. Thuốc súng và đạn."
Hiromatsu do dự một lúc. Rồi ông nói:" Vải vóc lụa là Trung Quốc?"
"Không, thưa Hiromatsu-san", lão nói, dùng chữ
"San." Họ cùng là Daimyo như nhau. Nhưng bây giờ lão đã
"Cho" con tàu một cách hào phóng như vậy, lão cảm thấy đủ an toàn để dùng một từ ít kính trọng hơn. Lão hài lòng nhận thấy từ đó không phải không được con người nhiều tuổi hơn chú ý. Ta là Daimyo của Izu, thề có mặt trời, mặt trăng và các vì sao!
"Nó rất bình thường, vải nặng dày, hoàn toàn vô dụng đối với chúng ta", lão nói.
"Tôi đã cho mang lên bờ tất cả những gì đáng quý."
"Tốt. Đem tất cả những thứ đó lên tàu của ta."
"Cái gì?" Ruột gan Yabu sốt lên.
"Tất cả. Ngay lập tức."
"Bây giờ?"
"Vâng. Hết sức xin lỗi, nhưng chắc ông hiểu rằng tôi muốn trở về Osaka càng sớm càng tốt."
"Vâng, nhưng - nhưng liệu có chỗ cho tất cả mọi thứ không?"
"Đưa đại bác lại tàu của bọn rợ và niêm phong lại. Trong ba ngày nữa, sẽ có thuyền tới dong về Yedo. Còn hỏa mai, thuốc súng, đạn thì có…"
Hiromatsu dừng lại, tránh cái bẫy mà ông đột nhiên nhận ra, đang giăng cho ông.
"Có đủ chỗ cho năm trăm hỏa mai"- Toranaga đã nói với ông-
"Và tất cả thuốc súng, hai mươi ngàn lublun (tiền Spain) bạc đưa lên thuyền. Để lại đại bác trên boong tàu và vải vóc ở các khoang. Để cho Yabu muốn nói gì thì nói, còn ông chỉ ra lệnh, đừng để hắn có thời gian suy nghĩ.
Nhưng đừng có bực bội hay nôn nóng với hắn. Ta cần hắn, nhưng ta muốn lấy súng ống và con tàu đó. Cẩn thận, đừng để hắn giương bẫy cho ông bộc lộ chính xác hàng hóa gì, không được để hắn khám phá ra điệp viên của ta."
Hiromatsu rủa mình. không đủ khả năng đóng những vai trò cần thiết đó.
"Còn cần bao nhiêu chỗ?" Lát sau ông nói.
"Có lẽ ông nên nói cho tôi biết. Mà hàng hóa gì nhỉ? Bao nhiêu hỏa mai, đạn dược..? Bạc là bạc thỏi hay là đồng tiền... Bạc hay vàng?"
"Zukimoto!"
"Dạ thưa Yabu Sama."
"Đưa danh sách những thứ trong tàu." Ta sẽ liệu với nhà ngươi sau, Yabu nghĩ.
Zukimoto vội vã đi.
"Chắc hẳn ngài mệt, Hiromatsu-san Có lẽ dùng một chút trà? Chỗ nghỉ ngơi đã được chuẩn bị sẵn cho ngài. Tắm chắc là không xứng đáng với ngài, nhưng có lẽ cũng làm ngài sảng khoái đôi chút."
"Cám ơn ông. Ông chu đáo quá. Tắm và trà là tuyệt vời. Sau đó, trước tiên, hãy cho tôi biết tất cả mọi chuyện xảy ra từ khi con tàu tới đây."
Yabu kể cho ông nghe sự thật, trừ cái đoạn cô kỹ nữ và chú bé, không cần thiết. Theo lệnh của Yabu, Omi kể lại câu chuyện, trừ những cuộc nói chuyện riêng với Yabu. Mura kể lại câu chuyện của mình, trừ cái đoạn dương vật của Anjin cứng lên mà Mura lập luận là hay thì hay thật, nhưng có thể làm phật ý Hiromatsu . Ở tuổi ông ta, cái của ông ta có thể không được tốt đẹp lắm nữa.
Hiromatsu nhìn vệt khói vẫn còn bốc lên từ giàn thiêu.
"Còn bao nhiêu tên cướp biển?"
"Thưa ngài, mười, kể cả tên thủ lĩnh", Omi nói.
"Tên thủ lĩnh bây giờ ở đâu?"
"Ở nhà Mura."
"Hắn đã làm gì? Việc đầu tiên hắn làm khi bước ra khỏi hầm là gì?"
"Hắn đi thẳng vào nhà tắm, thưa đại nhân", Mura nói nhanh.
"Thưa đại nhân, bây giờ hắn đang ngủ như chết."
"Lần này, ngươi không phải khiêng hắn nữa chứ?"
"Thưa Chúa công, không."
"Tôi cũng không. Không bao giờ. Bọn rợ rất kỳ."
Hiromatsu lại suy nghĩ về con tàu.
"Ai sẽ giám sát việc bốc dỡ?"
"Cháu tôi, Omi-san."
"Tốt, Omi-san, ta muốn lên đường trước lúc hoàng hôn. Thuyền trưởng của ta sẽ giúp anh làm rất nhanh, trong thời gian tàn ba nén nhang." Đơn vị thời gian là khoảng thời gian cháy hết một nén nhang tiêu chuẩn, chừng một giờ một nén.
"Thưa Chúa công, vâng."
"Tại sao không đi cùng ta tới Osaka, Yabu-san?" - Hiromatsu nói ý như thể đó là một ý nghĩ đến bất chợt.
"Lãnh chúa Toranaga sẽ sung sướng lắm, nếu người nhận được những thứ này từ chính tay ông. Chính ông. Xin mời ông, còn chỗ."
Khi Yabu bắt đầu từ chối, ông cho phép lão cứ tiếp tục một thời gian, như Toranaga đã ra lệnh.
"Tôi xin mời ông. Nhân danh Lãnh chúa Toranaga, tôi xin mời. Sự hào phóng của ông đáng được khen thưởng."
Với cái đầu ta và những đất đai của ta? Yabu tự hỏi một cách cay đắng, biết bây giờ mình không thể làm gì được nữa, chỉ còn cách chấp nhận một cách biết ơn.
"Xin cảm ơn. Tôi lấy làm vinh dự."
"Tốt rồi tất cả sẽ tốt đẹp", Quả Đấm Sắt nói, rõ ràng là nhẹ nhõm trong người.
"Bây giờ uống trà. Và tắm."
Yabu lịch sự dẫn đường ngược lên đồi đến nhà Omi. Ông già được tắm rửa, kỳ cọ, rồi ông nằm khoan khoái trong hơi nước nóng. Sau đó, đôi bàn tay-của Suwo đã làm ông tươi mát trở lại. Một chút cơm và cá tươi, dưa muối. Trà uống bằng chén sang trọng, một giấc ngủ ngắn không mộng mị.
Cháy tàn ba nén nhang, cửa shoji mở. Vệ sĩ biết tốt nhất là không nên vào đường đột. Hiromatsu đã thức, thanh kiếm rút ra một nửa và sẵn sàng.
"Yabu Sama đang đợi ở ngoài, thưa đại nhân. Ngài nói tàu đã chất xong hàng hóa."
"Rất tốt."
Hiromatsu ra ngoài hiên, đại tiện vào một cái thùng.
"Thuộc hạ của ông rất tháo vát, Yabu Sama."
"Thuộc hạ của ông giúp đỡ, Hiromatsu-san Họ còn hơn cả sự tháo vát nữa."
Phải, thề có mặt trời, nên như vậy, Hiromatsu nghĩ. Rồi nói một cách vui vẻ:
"Không gì sung sướng bằng đang mót mà tè một bãi, nhỉ? Nó làm mình thấy trẻ lại. Ở tuổi tôi người ta cần cảm thấy mình trẻ lại." Ông thoải mái vạch khố, đợi Yabu đưa ra một nhận xét lịch sự đồng ý, nhưng không có gì hết. Sự bực bội của ông tăng lên, nhưng ông cố dẹp nó.
"Tên thủ lĩnh cướp biển được đưa tới tàu của tôi chưa?"
"Cái gì ạ?"
"Ông rộng lượng tặng Chúa công con tàu và những thứ ở trong đó. Thủy thủ đoàn là những thứ bên trong. Vậy tôi sẽ đem tên thủ lĩnh cướp biển đi Osaka. Lãnh chúa Toranaga muốn thấy hắn. Tất nhiên những tên còn lại, ông muốn làm gì thì làm. Nhưng trong thời gian ông đi vắng, xin hãy làm cho những tuỳ tùng của ông nhận thức được rằng bọn rợ là tài sản của chủ tôi và cả chín người đều phải mạnh khỏe, sống nguyên vẹn và ở tại đây khi chúng tôi cần tới họ."
Yabu vội vã tới cầu tàu, nơi Omi đang đứng ở đó.
Trước đó, khi để Hiromatsu tắm, lão đã đi lên con đường uốn qua nghĩa địa. Ở đó, lão đã cúi chào về phía giàn thiêu và bước tiếp, dọc theo những khoảnh ruộng lúa mỳ và vườn cây quả mọc trên một đồi nhỏ, cao hơn mặt làng.
Một miếu thờ thần nhỏ nhắn canh giữ chốn êm đềm này. Một cây cổ thụ tỏa bóng mát và sự thanh thản. Lão tới đó cho nguôi cơn giận và suy tư.
Lão không dám đến gần con tàu, gần Omi hoặc tùy tùng của lão, vì lão biết lão sẽ có thể ra lệnh cho hầu hết, nếu không phải là tất cả phải mổ bụng tự tử. Như vậy là một sự lãng phí và lý ra lão đã giết cả làng, như vậy là điên rồ, - người nông dân đánh cá trồng lúa, cung cấp của cải, sự giàu có cho Samurai.
Trong khi lão ngồi đó, tức giận một mình và cố gắng làm cho đầu óc minh mẫn thì mặt trời đã xua đi những đám sương mù của biển. Những đám mây bao phủ những dãy núi xa phía Tây đã tách ra trong giây lát, và lão đã nhìn thấy cái đẹp của những đỉnh núi tuyết phủ vút lên. Cảnh tượng này làm lão yên lòng, lão bắt đầu thư thái để suy nghĩ và hoạch định.
Phải tung gián điệp của mình tìm cho ra tên gián điệp, lão tự nhủ. Tất cả những điều Hiromatsu nói đều chưa đủ để xác định được kẻ phản bội ở đây hay ở Yedo. Ở Osaka mình có những người bạn có thế lực, Chúa Ishido cũng ở trong số đó. Có lẽ, một trong số họ có thể đánh hơi được kẻ thù.
Nhưng hãy viết ngay một lá thư riêng cho vợ, ngộ nhỡ tên chỉ điểm có ở đó chăng? Còn Omi thì sao? Giao cho hắn trách nhiệm tìm ra tên chỉ điểm ở đây. Có phải chính hắn là tên chỉ điểm không? Có vẻ không phải vậy, nhưng cũng không hẳn là không thể. Có khả năng sự phản bội bắt đầu từ Yedo.
Một vấn đề thời gian. Nếu Toranaga ở Osaka được tin về con tàu khi nó tới, thì Hiromatsu , phải đã có mặt ở đây trước rồi. Mình có những tên chỉ điểm ở Yedo. Hãy để họ chứng minh khả năng của họ.
Còn bọn rợ thì sao? Bây giờ chúng là món lợi duy nhất còn lại của ngươi. Ngươi có thể sử dụng chúng như thế nào? Khoan đã, Omi chẳng đã cho ngươi một câu trả lời đấy ư? Ngươi có thể dùng tri thức về biển của chúng và những con tàu để đổi chác với Toranaga lấy súng. Nhỉ?
Một khả năng nữa: trở thành chư hầu của Toranaga, hoàn toàn trao cho ông ta kế hoạch của ngươi. Yêu cầu ông ta cho ngươi chỉ huy đạo quân cầm súng - để đem lại vinh quang cho ông ta, nhưng một chư hầu không bao giờ nên mong đợi ở chủ của mình ân thưởng cho công lao hay thậm chí thừa nhận chúng. Phục vụ là nhiệm vụ của Samurai, Samurai là bất tử. Đó là con đường hay nhất, con đường hay duy nhất, Yabu nghĩ. Mình có thể thực sự làm chư hầu của ông ta được không? Hay của Ishido?
Không, điều đó không thể được nghĩ đến. Đồng minh, được. Chư hầu, không.
Tốt. Vậy thì bọn rợ cuối cùng là vật quý. Omi lại đúng. Lão cảm thấy bình tĩnh hơn, khi thời gian đã tới, một người đem tin báo tàu đã chất xong, lão đến chỗ Hiromatsu và thấy rằng bây giờ lão đã mất cả bọn rợ. Lão giận sôi người khi lão tới cầu tàu.
"Omi-san!"
"Thưa Yabu Sama, có?"
"Mang tên thủ lĩnh của bọn rợ đến đây. Ta sẽ đưa nó đi Osaka. Còn những người khác, để ý trông nom họ cẩn thận trong khi ta đi vắng. Ta muốn họ khoẻ mạnh và biết cách cư xử. Dùng cái hầm nếu buộc phải như vậy."
Từ khi con thuyền galleon tới, đầu óc Omi luôn xao động và đầy lo ngại cho sự an toàn của Yabu.
"Thưa Chúa công, cho phép con đi cùng, con có thể có ích."
"Không, bây giờ ta muốn con trông nom bọn rợ."
"Xin Chúa công, có lẽ bằng một cách nhỏ mọn nào đó, con có thể đền đáp lại tấm lòng của Chúa công đối với con."
"Không cần thiết", Yabu nói, tử tế hơn là lão muốn biểu lộ. Lão nhớ đã tăng lương của Omi lên ba ngàn Koku và đã mở rộng thái ấp của anh ta vì những nén vàng bạc và súng ống. Những cái đó bây giờ đã tiêu tan, nhưng lão đã thấy chàng trai trẻ rất quan tâm và điều đó làm lão ấm lòng lên đôi chút.
Với những chư hầu như thế này, ta sẽ tạo một đế chế, lão tự hứa với mình, Omi sẽ chỉ huy một trong những đơn vị đó khi ta lấy lại súng của ta." Khi nào chiến tranh xảy ra, ta sẽ có công việc rất quan trọng cho cháu, Omi-san. Thôi, bây giờ hãy đi đem tên rợ đến."
Omi mang theo bốn người gác. Và Mura làm phiên dịch.
*
Blackthorne bị lôi ra khỏi giấc ngủ. Phải mất một phút anh mới định thần lại được. Khi lớp sương mù quang, Omi đang nhìn xuống anh chăm chăm.
Một Samurai lôi cái mền ra khỏi người anh, người khác lay cho anh tỉnh, hai người khiêng những đòn tre trông gớm ghiếc. Mura có một cuộn dây thừng ngắn.
Mura quỳ và chào:
"Kounichi wa"
"Kounichi wa" Blackthorne cũng quỳ đầu gối xuống, mặc dù đang trần truồng, anh vẫn chào lại với cùng một sự lễ độ như vậy.
Vấn đề chỉ là lịch sự thôi, Blackthorne tự nhủ. Đó là phong tục của họ, họ chào để tỏ ra có giáo dục vì vậy chẳng có gì phải xấu hổ cả. Sự trần truồng cũng không được người ta để ý và cũng là phong tục của họ, và trần truồng cũng chằng có gì phải xấu hổ.
"Anjin - mời mặc quần áo", Mura nói.
Anjin? À, bây giờ mình nhớ rồi. Gã thầy tu nói, họ không thể phát âm được tên mình, vì vậy họ cho mình cái tên Anjin-san - ông hoa tiêu - khi nào mình xứng đáng.
Đừng nhìn Omi, anh tự dặn mình. Đừng vội nhìn. Đừng nhớ lại quảng trường làng và Omi và Croocq và Pieterzoon. Mỗi lúc một thứ thôi. Đó là điều mình sẽ làm. Đó là điều mình đã thề trước Chúa phải làm.
Mỗi lúc một thứ thôi. Thề có đức Chúa cha, trả thù là việc của ta. Blackthorne thấy quần áo của mình lại được giặt, anh cầu nguyện cho người nào đã làm việc ấy. Anh bò ra khỏi quần áo của mình ở trong nhà tắm như thể bị dịch.
Anh đã nói họ kỳ lưng cho mình ba lần bằng bọt bể thô nhám nhất và bằng đá kỳ. Nhưng anh vẫn còn cảm thấy những giọt nước tè nóng bỏng. Anh rời mắt khỏi Mura và nhìn Omi. Anh thấy một nỗi sung sướng đến điên dại khi biết kẻ thù của anh vẫn còn sống và ở gần kề.
Anh cúi chào như anh từng thấy người ta chào.
"Kounichi wa, Omi-san", anh nói. Nói cái ngôn ngữ của họ cũng chẳng có gì là xấu hổ, nói
"Chào" hay mình chào trước như phong tục của họ, cũng chẳng có gì là xấu hổ.
Omi cúi chào lại.
Blackthorne để ý thấy cái chào không hoàn toàn bình đẳng, nhưng lúc này thế là đủ.
"Kounichi wa, Anjin", Omi nói.
Giọng nói lịch sự nhưng chưa đủ:
"Anjin-san", Blackthorne nhìn thẳng vào gã ta.
Ý chí của hai người xoắn bện vào nhau. Omi như đang trong ván bài. Mình có biết cách cư xử hay không?
"Kounichi wa, Anjin-san", cuối cùng Omi nói, thoáng một nụ cười.
Blackthorne mặc nhanh quần áo.
Anh mặc quần rộng, xi líp, bít tất, áo sơ mi và áo khoác, mái tóc dài của anh buộc thành đuôi gọn gàng, râu đã được tỉa bằng kéo người thợ cắt tóc cho anh mượn.
"Hai, Omi-san", Blackthorne hỏi khi anh mặc xong quần áo. Cảm thấy dễ chịu hơn nhưng rất cảnh giác, chỉ mong mình có nhiều từ hơn để dùng.
"Làm ơn, tay", Mura nói.
Blackthorne không hiểu và dùng cử chỉ để nói lên điều đó, Mura giơ hai tay mình ra, làm như trói lại.
"Tay, làm ơn."
"Không." Blackthorne nói trực tiếp với Omi và lắc đầu:
"Điều đó không cần thiết." Anh nói bằng tiếng Anh,
"Không cần thiết chút nào hết, tôi hứa", anh để giọng nói của mình nhẹ nhàng và hợp lý rồi nói thêm giọng gay gắt bắt chước Omi
"Wakari masu ka, Omi
san? Ông có hiểu không?"
Omi cười. Rồi nói,
"Hai, Anjin-san - Wakari matsu." Anh ta quay lưng lại và đi.
Mura và những người khác nhìn anh ta chằm chằm, kinh ngạc. Blackthorne đi theo Omi trong nắng. Đôi ủng của anh đã được đánh bóng. Trước khi anh định đi vào, thì người đầy tớ gái
"Onna" đã quỳ gối giúp anh." Cám ơn Haku-san." Anh nói, nhớ lại tên của chị ta. Chữ
"Cám ơn" nói thế nào nhỉ? Anh tự hỏi.
Anh đi qua cổng, Omi đi trước.
Ta đi sau ngươi, cái đồ... Chúa nguyền rủa - khoan nào! Ngươi nhớ ngươi đã từng hứa cái gì không? Mà tại sao lại chửi thề hắn, cả mình nữa? Hắn có chửi thề mình đâu? Chửi thề là dành cho kẻ yếu, bọn ngu. Phải vậy không?
Mỗi lần một chuyện thôi. Mình đi theo anh ta là được rồi. Ngươi biết điều đó rõ ràng. Đừng mắc khuyết điểm gì hết, anh ta biết điều đó rất rõ ràng.
Bốn người Samurai đi kèm hai bên Blackthorne khi anh bước xuống đồi, bến cảng vẫn còn khuất tầm mắt. Mura kín đáo đi sau mười bước. Omi đi đầu.
Bọn họ lại cho mình xuống hầm nữa sao? Anh tự hỏi. Tại sao họ lại muốn trói tay mình? Omi chẳng nói là ngày hôm qua - lạy Chúa, phải chăng đó chỉ là ngày hôm qua...
"Nếu anh cư xử tử tế, anh có thể ra ngoài hầm. Nếu anh cư xử tồi tệ, ngày mai một người nữa sẽ bị đưa ra khỏi hầm. Có lẽ. Và có lẽ nhiều hơn nữa."
Có phải hắn ta nói như vậy không nhỉ?
Mình có cư xử tử tế không? Không hiểu Croocq bây giờ thế nào? Cậu bé còn sống khi họ khiêng tới ngôi nhà nơi đoàn thủy thủ ở lại lần đầu.
Hôm nay Blackthorne cảm thấy khá hơn. Tắm rồi ngủ và thức ăn tươi đã bắt đầu làm anh hồi phục. Anh biết, nếu cẩn thận, được nghỉ ngơi, ngủ và ăn, trong vòng một tháng anh có thể chạy một dặm, bơi một dặm, chỉ huy một tàu chiến và đưa nó đi vòng quanh trái đất.
Đừng nghĩ đến điều đó vội. Bây giờ hãy giữ gìn sức khỏe. Một tháng không nhiều để hi vọng, phải không? Đi bộ xuống đồi và qua làng làm anh mệt. Ngươi đuối hơn là ngươi tưởng. .. Không. Ngươi khỏe hơn là ngươi tưởng, anh ra lệnh cho mình.
Những cột buồm của con tàu Erasmus vươn cao trên những mái ngói. Tim anh đập rộn ràng. Phía trước mặt, phố lượn theo sườn đồi, trườn xuống quảng trường và kết thúc. Một chiếc kiệu buông rèm ngoài nắng. Bốn người khiêng đóng khố gọn ghẽ ngồi xổm bên cạnh, xỉa răng một cách lơ đãng. Khi nhìn thấy Omi, họ quỳ xuống sát đất.
Omi khẽ gật đầu khi anh ta đi qua, nhưng khi một thiếu nữ ra khỏi cổng tiến tới kiệu, anh ta dừng lại.
Blackthorne nín thở và cũng dừng lại.
Một người đầy tớ gái trẻ chạy ra, giơ chiếc dù xanh để che cho cô gái. Omi cúi chào, cô gái cúi chào, họ nói chuyện vui vẻ với nhau. Vẻ kiêu căng, khệnh khạng đã biến mất khỏi Omi.
Cô gái mặc kimono màu hoa đào, chiếc thắt lưng to màu vàng, đôi dép da màu vàng. Blackthorne thấy cô gái liếc nhìn anh. Rõ ràng cô và Omi đang nói về anh. Anh không biết phải làm gì, vì vậy anh không làm gì hết, chỉ kiên nhẫn đợi, rạng rỡ trong nhan sắc của nàng, sự thanh khiết và ấm áp trong sự hiện diện của nàng.
Anh tự hỏi, không hiểu nàng và Omi có phải là người yêu của nhau không, hay nàng là vợ của Omi? Và anh nghĩ, nàng có phải là thật không?
Omi hỏi nàng điều gì, nàng trả lời, phất chiếc quạt xanh, nó ánh lên và nhảy múa trong nắng.Tiếng cười của nàng, tiếng nhạc và vẻ thanh khiết của nàng. Omi cùng cười rồi anh ta quay gót, rảo bước, lại trở lại là một Samurai.
Blackthorne đi theo. Đôi mắt nàng nhìn anh, và anh nói:
"Konnichi wa."
"Konnichi wa, Anjin-san." Nàng trả lời, giọng nàng làm anh xúc động, nàng cao chừng năm feet và hoàn hảo. Khi nàng khẽ cúi chào, gió lay mảnh lụa bên ngoài để lộ
chiếc kimono lót đỏ tươi mà anh thấy khêu gợi lạ lùng.
Mùi hương của cô gái vẫn còn bao phủ lấy anh khi anh rẽ vào góc phố. Anh nhìn thấy cánh cửa nắp hầm và con tàu . Một con thuyền galleon. Cô gái biến khỏi trí óc anh.
Tại sao chỗ để súng của chúng ta lại trống không? Đại bác của chúng ta ở đâu? Và Chúa chứng giám, cái con thuyền galleon khốn kiếp làm gì ở đây và điều gì đã xảy ra trong hầm?
Mỗi lần một thứ thôi.
Trước tiên là tàu Erasmus. Mẩu cột buồm trước đây bị cơn bão tiện đi nhô lên một cách kheo. chịu. Không sao, anh nghĩ. Chúng ta có thể đưa nó ra khơi dễ dàng. Chúng ta có thể tháo neo, gió ban đêm và thủy triều sẽ đưa chúng ta đi lặng lẽ và ngày mai đã ở tít bên kia hải đảo.
Mất nửa ngày để giương buồm dự trữ, thế rồi mọi cánh buồm đều căng phồng lao thẳng ra khơi. Có lẽ là không buông neo, cứ chạy thẳng tới những vùng biển an toàn. Những ai sẽ thành thủy thủ? Mình không thể một mình đưa nó ra khơi được.
Con thuyền khốn kiếp ấy từ đâu tới? Và tại sao nó lại ở đây?
Anh có thể thấy bọn Samurai và các thủy thủ ở dưới bến. Con thuyền sáu mươi mái chèo - mỗi bên ba mươi mái - gọn ghẽ, ngăn nắp, những mái chèo xếp cẩn thận, sẵn sàng lên đường tức khắc. Bất giác anh rùng mình.
Lần cuối cùng anh nhìn thấy một chiếc galleon là ở ngoài khơi Bờ Biển Vàng (Gold Coast : tên cũ của Ghana cho đến năm 1957) hai năm về trước, khi hạm đội của anh vượt đại dương, toàn bộ năm chiếc tàu. Đó là một thuyền buôn giàu có, con thuyền Portugal, nó chạy trốn tàu anh, ngược chiều gió. Không đuổi kịp được nó, không bắt được hoặc nhấn chìm được nó.
Blackthorne hiểu rất rõ bờ biển Nam Phi. Anh đã từng là hoa tiêu, là chủ thuyền trong mười năm cho công ty của những lái buôn Barbary (một vùng ở Bắc Phi chạy dài từ Tây Ai Cập tới Đại Tây Dương) , London, một công ty liên hợp trang bị cho những lái buôn chiến đấu phong tỏa Spain và buôn bán ở bờ biển Barbary.
Anh đã dẫn tàu tới Tây và Bắc Phi, tới miền Nam tận Lagos (thủ đô và cảng chính của Nigeria), về phía Bắc và Đông, qua eo Gibralta đầy bất trắc - luôn do Spain tuần tra - cho mãi đến tận Salécnô trong vương quốc Náplơ. Địa Trung Hải nguy hiểm đối với tàu bè của Anh và Holland. Chiến thuyền thù địch của Spain và Portugal rất đông, rất mạnh ở đó và tệ hơn nữa, bọn Ottoman, bọn Thổ Nhĩ Kỳ bất trung đầy rẫy ngoài biển với những chiến thuyền và thuyền galleon đốn mạt.
Những chuyến đi đó rất có lợi cho anh, anh đã mua tàu riêng cho mình, một con thuyền hai buồm trọng tải một trăm năm mươi tấn để buôn bán. Nhưng thuyền của anh đã bị đắm và mất hết. Con thuyền không có gió ở hòn đảo Sacdinia (Một hòn đảo lớn thứ hai Địa Trung Hải), lúc đó con thuyền galleon Thổ Nhĩ Kỳ tiến ra. Cuộc chiến đấu tàn khốc, và đến khi mặt trời lặn, mũi nhọn của tàu địch đâm vào đuôi tàu của họ, họ phải chạy vát rất nhanh. Anh không bao giờ quên được tiếng thét
"Al lahhh!" khi bọn hải tặc tràn lên mép tàu của anh. Chúng được vũ trang bằng kiếm và hoả mai. Anh đã tập hợp đồng đội của mình,và cuộc tấn công thứ nhất bị đẩy lùi, nhưng cuộc tấn công thứ hai đã đè bẹp họ và anh đã quyết định thà chết còn hơn bị đưa lên thuyền địch. Anh luôn khiếp sợ bị bắt sống và phải làm nô lệ chèo galleon - chuyện bình thường đối với người đi biển bị bắt.
Khi kho thuốc súng nổ, sự chấn động đã xé rách đáy tàu của anh và làm hư hỏng một phần con thuyền galleon. Trong lúc lộn xộn, anh đã bơi được tới sà-lúp và trốn thoát cùng bốn người trong đoàn thủy thủ. Những người không bơi được tới chỗ anh, anh đành phải từ bỏ họ và anh vẫn còn nhớ những tiếng kêu cứu, gọi tên Chúa của họ.
Nhưng hôm ấy, Chúa đã quay mặt khỏi những con người đó. Bởi vậy họ đã chết hoặc bị bắt làm nô lệ chèo thuyền. Và Chúa đã quay bộ mặt của Người về phía Blackthorne và bốn người. Họ đã tới được Cagliari (Một cảng ở Ý, thủ đô của Sadinia, trên bờ biển miền Nam ) ở Sacdinia. Từ đó họ lần đường về, không một xu dính túi.
Chuyện đó cách đây tám năm. Cũng năm ấy, nạn dịch lại bùng nổ. Dịch, đói và nổi loạn của những người thất nghiệp chết đói. Em trai cùng gia đình đã bị chết . Đứa con trai đầu lòng của anh cũng chết. Nhưng đến mùa đông, nạn dịch hết, anh dễ dàng kiếm được một con tàu mới và ra biển để dựng lại cơ đồ.
Thoạt tiên cho Công ty thương mại Bacbari Anh. Rồi một chuyến đi tới miền Tây Ấn Độ săn người Spain. Sau đó, giàu hơn một chút, anh đi biển cho Kees Veerman, người Holland trong chuyến đi thứ hai, tìm một lối đi Đông Bắc huyền thoại tới Cathay và những hòn đảo Hương liệu của châu Á mà người ta cho là tồn tại ở Biển Băng, phía Bắc của nước Nga Sa hoàng. Họ tìm kiếm trong hai năm rồi Kees Veerman chết ở vùng biển Bắc Cực với tám mươi phần trăm thủy thủ đoàn.
Blackthorne quay trở lại, dẫn những người còn lại về nhà. Rồi, ba năm trước đây, anh đã được Công ty Đông Ấn - Holland mới thành lập đến yêu cầu dẫn đoàn thám hiểm đầu tiên của họ tới Tân Thế Giới.
Họ thì thầm bí mật là đã có được, với tổn phí khổng lồ, một hải trình lậu của Portugal, mà người ta cho là đã tìm được những bí mật của eo Magellan và họ muốn chứng minh điều đó. Tất nhiên lái buôn Holland thích dùng một trong những hoa tiêu của họ hơn, nhưng không một người nào có thể so sánh được về chất lượng với những người Anh đã được Tritiny House độc quyền đào tạo và cái giá trị ghê gớm của hải trình này buộc họ phải đánh bạc với Blackthorne.
Nhưng là một lựa chọn hoàn hảo: anh là một hoa tiêu theo đạo Tin Lành tốt nhất hiện nay, mẹ anh là người Holland và anh nói tiếng Holland thông thạo. Blackthorne đã hăng hái nhận lời và nhận mười lăm phần trăm tổng số tiền lợi tức, và theo phong tục, anh đã long trọng thề trước Chúa, trung thành với Công ty, thề đưa hạm đội đi và mang nó trở về.
Lạy Chúa tôi, mình sẽ đem con tàu Erasmus về, Blackthorne nghĩ. Và cùng với những người còn sống. Lúc này họ đang đi qua quảng trường, anh rời mắt khỏi con tàu nô lệ và thấy ba Samurai gác nắp hầm. Họ đang ăn bằng bát và đũa gỗ một các khéo léo, Blackthorne đã thấy họ dùng nhiều lần nhưng mình thì không làm được.
"Omi-san!" , anh ra hiệu muốn tới nắp hầm, chỉ để hét một tiếng xuống cho các bạn. Chỉ một giây lát thôi.
Nhưng Omi lắc đầu, nói điều gì anh không hiểu và tiếp tục đi, xuống phần đất bồi, qua cái vạc, đi tiếp tới cầu tàu. Blackthorne ngoan ngoãn đi theo. Mỗi lần một thứ thôi, anh tự nhủ. Hãy kiên nhẫn.
Khi tới cầu tàu Omi quay lại, gọi những người gác ở nắp hầm, Blackthorne thấy họ mở nắp hầm và nhìn xuống. Một người vẫy gọi, những người làng lấy thang và một tha, tng nước mới khiêng xuống. .Họ khiêng lên chiếc thùng không. Và cả thùng vệ sinh nữa.
Đó! Nếu mình kiên nhẫn và chơi ván bài của họ với quy luật của họ, mình có thể giúp đỡ đồng đội của mình, anh hài lòng nghĩ như vậy. Nhiều nhóm Samurai đứng tụ tập gần thuyền galleon. Một ông già cao lớn đứng tách riêng. Xét ở sự kính trọng mà cái lão Daimyo Yabu để lộ ra, cái cách những người khác nhảy dựng lên mỗi khi ông ta làm điều gì nhỏ nhất, Blackthorne lập tức nhận ra tầm quan trọng của ông ta. Ông ta có phải là vua của họ không? anh tự hỏi. Omi khúm núm quỳ. Ông già hơi cúi chào, đưa mắt nhìn anh.
Cố gắng lẩm bẩm thật nhẹ nhàng, Blackthorne quỳ và đặt hai tay xuống cát như Omi đã làm, cúi chào thấp như Omi.
"Konnichi wa, Sama", anh nói lễ độ.
Anh lại thấy ông già khẽ cúi chào.
Giờ đây có cuộc đối thoại giữa Yabu, ông già và Omi. Yabu nói với Mura.
Mura chỉ vào chiếc galleon:
"Anjin-san, tới đó."
"Tại sao?"
"Đi! Nào, đi!"
Blackthorne thấy nỗi kinh hoàng tăng lên:
"Tại sao?"
"Isogi!" Omi ra lệnh, vẫy tay vè phía thuyền galleon.
"Không, tôi không..."
Tức khắc theo lệnh của Omi, bốn Samurai lao vào Blackthorne, tóm chặt hai cánh tay anh. Mura đưa ra cuộn dây thừng và trói giật tay anh lại sau.
"Đồ con hoang!" Blackthorne thét lên.
"Tao không lên cái con tàu nô lệ bị Chúa nguyền rủa đó!"
"Mẹ kiếp! Để nó đấy! Này, lũ khỉ uống nước tè kia, buông cái thằng con hoang ấy ra! Kinjiru, neh? Nó là hoa tiêu phải không? Anjin, ka?"
Blackthorne hầu như không tin được tai mình. Tiếng chửi mắng ồn ào bằng tiếng Portugal từ boong tàu galleon phát ra.
Rồi anh thấy người đàn ông đó đi xuống. Cũng cao lớn như anh và trạc tuổi anh nhưng tóc đen, mắt đen, mặc quần áo thuỷ thủ một cách cẩu thả, thanh trường kiếm giắt một bên, mấy khẩu súng lục giắt thắt lưng. Một cây thánh giá nạm đá quý đeo ở cổ. Anh ta đội chiếc mũ cát, miệng cười toác:
"Có phải anh là hoa tiêu không? Hoa tiêu Holland?"
"Đúng", Blackthorne trả lôi.
"Tốt. Tốt. Tôi là Vasco Rodrigues, hoa tiêu của tàu galleon này!"
Anh ta quay sang phía ông già, nói tiếng Nhật tiếng Bồ lung tung cả lên, gọi ông già là Monkey Sama (Ngài Khỉ) thỉnh thoảng là Toda Sama, nhưng cách phát âm nghe như Toady Sama (Ngài Cóc cụ). Hai lần anh ta rút súng chỉ vào Blackthorne rồi lại nhét vào thắt lưng, tiếng Nhật của anh ta pha âm sắc rất nặng của tiếng thông tục Portugal mà chỉ những người đi trên biển mới hiểu.
Hiromatsu nói ngắn gọn, bọn Samurai buông Blackthorne ra, Mura cởi trói cho anh.
"Như vậy tốt hơn. Này, hoa tiêu, con người này như một ông vua. Tớ bảo ông ta tớ chịu trách nhiệm về cậu, tớ sẽ bắn bể sọ cậu nếu cậu say!" Rodrigues cúi chào Hiromatsu , rồi hớn hở nhìn Blackthorne:
"Cúi chào Bastard Sama (Ngài Con hoang) đi."
Như trong mơ, Blackthorne làm theo.
"Cậu làm giống như một thằng Nhật", Rodrigues nói với nụ cười nhăn nhở." Cậu thực là hoa tiêu chứ?"
"Vĩ độ của Lizard là bao nhiêu?" (Mỏm ở Tây Nam England, ở Tây Nam Cornwall)
"Bốn mươi chín độ, năm mươi sáu phút Bắc - phải coi chừng đá ngầm ở New và Tây New."
"Lạy Chúa, cậu là hoa tiêu!" Rodrigues nồng nhiệt bắt tay Blackthorne.
"Lên tàu. Có thức ăn, rượu mạnh, rượu vang, rượu grộc và tất cả các hoa tiêu đều phải yêu hoa tiêu, tinh trùng của trái đất, Amen! Đúng không?"
"Đúng", Blackthorne nói yếu ớt.
"Khi tớ nghe nói bọn này sẽ mang một hoa tiêu về, tớ nói tốt. Đã bao nhiêu năm nay tớ chưa có cái sung sướng được nói chuyện với một hoa tiêu thứ thiệt. Lên tàu đi. Làm thế nào các cậu lên qua Malasca được vậy? Làm sao cậu có thể tránh được sự tuần tiễu Đại Dương Ấn Độ của bọn mình, hả? Cậu đã ăn cắp hải trình của ai vậy?"
"Các cậu mang mình đi đâu?"
"Osaka. Chính Chúa Công Hành Pháp Vĩ Đại muốn gặp cậu."
Blackthorne cảm thấy nỗi kinh hoàng trở lại.
"Ai?"
"Toranaga! Chúa của tám tỉnh, chẳng hiểu chúng ở cái chỗ chết tiệt nào! Vị Daimyo chính của Nhật Bản-một Daimyo như một ông vua hoặc Chúa phong kiến nhưng lại ghê hơn. Tất cả bọn chúng đều là bạo quân."
"Ông ta muốn ở gì tớ?"
"Tớ cũng không biết, nhưng chính vì thế mà chúng tớ đến đây và nếu Toranaga muốn gặp cậu, hoa tiêu ạ, ông ta sẽ gặp cậu. Họ nói, ông ta có hàng triệu tên cuồng tín mắt lé này, những kẻ sẽ chết vì được vinh dự chùi đít cho ông ta nếu ông ta thích!
"Toranaga muốn đem người hoa tiêu về,
"Vasco, phiên dịch của anh ta đã nói. Mang người hoa tiêu và hàng hóa về. Đưa Toda Hiromatsu đi để xem tàu và - ồ đúng rồi, hoa tiêu, tất cả đều bị tịch thu, tớ nghe thấy thế, tàu của cậu và mọi thứ trong đó!"
"Tịch thu?"
"Có thể là tin đồn. Bọn Nhật đôi khi tay này thì tịch thu, tay kia thì trả lại - hay giả vờ là họ không bao giờ ra lệnh như thế. Thật là khó hiểu cái lũ con hoang lùn mắc dịch này!"
Blackthorne cảm thấy những con mắt lạnh lùng của những người Nhật xoáy vào mình, anh cố gắng giấu sự sợ hãi của mình.
Rodrigues dõi theo cái nhìn của anh." Phải, chúng nó đã bồn chồn rồi đó. Thời gian nói chuyện đủ rồi. Lên tàu đi." Anh ta quay đi nhưng Blackthorne ngăn lại.
"Còn bạn của mình, thủy thủ của mình thì sao?"
"Hả?"
Blackthorne kể cho anh ta nghe ngắn gọn về cái hầm. Rodrigues hỏi Omi bằng thứ tiếng Nhật bồi.
"Nó nói họ không sao đâu. Này, bây giờ cả cậu lẫn mình đều không thể làm gì được đâu. Cậu phải đợi thôi - cậu không bao giờ có thể nói nổi một tên Nhật đâu. Chúng có sáu mặt, ba lòng." Rodrigues chào Hiromatsu như một cận thần Châu Âu.
"Đây là cách thức chúng tớ làm ở Nhật Bản. Y như ở triều đình gian dâm Philip II vậy, Chúa hãy đem cái thằng Spain đó tới mồ sớm." Anh ta dẫn đường lên sàn tàu trước sự ngạc nhiên của Blackthorne, không có dây xích, cũng không có nô lệ.
"Làm sao thế? Cậu ốm à?" Rodrigues hỏi.
"Không. Mình nghĩ đây là một con tàu nô lệ."
"Ở Nhật Bản không có như vậy. Ở hầm mỏ của họ cũng không có. Lũ điên, nhưng thế đó. Cậu không bao giờ thấy một lũ điên như vậy, mà tớ thì đã đi khắp thế giới ba lần rồi . Bọn tớ có những người chèo thuyền Samurai. Họ là lính, lính của thằng già thủ dâm - mà cậu không bao giờ thấy những tên nô lệ nào chèo thuyền khá hơn, hoặc ai đánh nhau giỏi hơn." Rodrigues cười.
"Chúng để đít vào mái chèo, tớ đẩy chúng ra xem những thằng thủ dâm này có chảy máu không, chúng không bao giờ rời chỗ. Bọn mình đi từ Osaka - hơn ba trăm dặm đường biển trong bốn mươi tiếng. Bọn mình sắp quăng dây. Cậu chắc không bị sao chứ?"
"Không. Không sao."
Blackthorne nhìn con tàu Erasmus. Nó bỏ neo cách đó một trăm mã.
"Hoa tiêu ơi, không còn dịp nào lên boong nữa, phải không? Họ không để cho tôi trở lại tàu, tôi không có quần áo, họ đã niêm phong cả lại lúc tôi đến. Cậu làm ơn"
Rodrigues nhìn chăm chú con tàu.
"Cậu mất cột buồm khi nào?"
"Ngay trước khi mình cập bờ ở đây."
"Vẫn còn cái dự trữ trên boong chứ?"
"Ừ."
"Cảng xuất phát của nó ở đâu?"
"Rotterdam."
"Tàu được đóng ở đó à?"
"Phải."
"Mình cũng đã từng ở đó. Bãi cát xấu nhưng cảng thì hay đếch chịu được. Đẹp lắm, cái con tàu của cậu ấy. Mới - chưa bao giờ tớ nhìn thấy một con tàu như vậy. Mẹ ơi hẳn là nhanh, nhanh lắm. Khó điều khiển đây." Rodrigues nhìn anh.
"Cậu có thể lấy được đồ nhanh không?" Anh ta nhìn đồng hồ cát.
"Có." Blackthorne cố gắng không để lộ trên nét mặt niềm hi vọng ngày một tăng.
"Một điều kiện. Hoa tiêu không có vũ khí giấu trong ống tay áo hoặc bất cứ ở đâu. Lấy danh dự người hoa tiêu thề. Tớ đã nói với lũ khỉ tớ chịu trách nhiệm về cậu."
"Tớ đồng ý." Blackthorne nhìn cát rơi lặng lẽ qua cổ đồng hồ.
"Tớ sẽ bắn bể sọ hoặc cắt cổ cậu, hoa tiêu, nếu có một chút lừa bịp nào."
"Tớ hứa với cậu mà, lời hứa của hoa tiêu với hoa tiêu, thề có Chúa, giáng cái bệnh lậu cho bọn Spain!"
Rodrigues cười, đấm vào lưng anh." Tớ bắt đầu thích cậu rồi đó Ingeles ạ."
"Sao cậu biết tớ là người Anh?" Blackthorne hỏi, biết rằng tiếng Portugal của anh hoàn hảo và tất cả những điều anh nói không có gì làm anh khác với một người Holland.
"Tớ là thầy bói. Tất cả các hoa tiêu chẳng như vậy sao?"
"Cậu đã nói chuyện với ông thầy tu phải không? Cha Sebastio đã nói với cậu?"
"Nếu có thể, không bao giờ tớ nói chuyện với thầy tu cả. Một tuần một lần cũng quá đủ cho bất cứ ai." Rodrigues khéo léo nhổ vào lỗ thông nước, bước ra lối đi trông ra phía cầu tàu." Toady Sama! Ikimasho ka?"
"Ikimasho, Rodrigues-san, Ima!"
"Phải rồi Ima", Rodrigues trầm tư nhìn Blackthorne .
"Ima" Nghĩa là "Bây giờ",
"Ngay lập tức",
"Chúng ta sẽ đi ngay, Ingeles."
Cát đã tạo thành một mô nhỏ, gọn ở đáy đồng hồ.
"Cậu đã hỏi ông ta chưa? Tôi có lên được tàu của tôi không?"
"Không, Ingeles ạ. Tớ sẽ không hỏi nó cái đéo gì hết."
Blackthorne đột nhiên cảm thấy trống rỗng. Và rất già nua. Anh nhìn Rodrigues đi tới tay vịn của sàn lái và rống lên với một anh chàng thủy thủ nhỏ bé đáng chú ý đang đứng ở phía mũi tàu.
"Này, ông thuyền trưởng, Ikimasho? Bảo các Samurai lên tàu, Ima! Ima, Wakari masu ka?"
"Hai. Anjin-san."
Ngay lập tức Rodrigues rung to chuông tàu sáu lần và san - thuyền trưởng bắt đầu hét lệnh cho các thủy thủ và Samurai trên bờ và trên tàu. Các thủy thủ từ dưới vội vã lên boong, chuẩn bị xuất phát, trong sự lộn xộn có kỷ luật. Rodrigues lặng lẽ cầm cánh tay Blackthorne và đẩy anh vào trong, cách xa bờ.
"Có xuồng cao su ở dưới, Ingeles. Đừng chuyển động nhanh, đừng nhìn xung quanh và đừng chú ý đến ai hết, ngoài tớ. Nếu tớ bảo cậu quay lại, quay lại ngay."
Blackthorne đi qua boong, xuống cầu tàu, về phía chiếc thuyền Nhật Bản con con. Anh nghe thấy những giọng nói giận dữ ở phía sau, và cảm thấy tóc ở sau gáy dựng lên bởi vì trên tàu có rất nhiều Samurai, một số trang bị bằng cung tên, một số bằng hỏa mai.
"Ông không phải lo ngại gì về anh ta, san, thuyền trưởng, tôi chịu trách nhiệm. Tôi, Rodrigues-san, ichi ban Anjin-san, thề có Đức Mẹ Đồng Trinh. Wakari masu ka?"
Tiếng này át những tiếng khác, nhưng bọn này ngày một trở nên giận dữ hơn.
Blackthorne hầu như đã bước xuống xuồng, anh thấy không có cọc chèo. Mình không thể chèo như họ được, anh tự nhủ. Mình không biết sử dụng thuyền! Bơi thì xa quá. Có xa quá không? Anh do dự, ước lượng khoảng cách. Nếu như anh còn đủ sức lực thì anh đã chẳng phải do dự giây nào.
Nhưng bây giờ? Những bước chân rầm rập ở cầu tàu phía sau anh. Anh phải đấu tranh với sự thôi thúc muốn quay lại.
"Ngồi ở đằng sau mũi", anh nghe Rodrigues giục giã."Nhanh lên!"
Anh làm theo, Rodrigues nhẹ nhàng nhảy vào, nắm lấy mái chèo, vẫn đứng, bơi ra một cách rất khéo léo.
Một Samurai đứng ở đầu cầu tàu, rất lúng túng, hai Samurai khác ở phía sau, cũng sẵn sàng. Thuyền trưởng Samurai gọi to, rõ ràng vẫy họ trở lại.
Cách con thuyền được vài
"Iat", Rodrigues quay lại.
"Tới đó" , anh nói to, chỉ con tàu Erasmus.
"Cho Samurai lên tàu đi!" Anh quay lưng lại một cách kiên quyết tiếp tục bơi, đẩy mái chèo theo kiểu Nhật Bản.
"Nếu chúng đặt tên vào cung, báo tớ biết ngay, Ingeles nhé! Để ý chúng cẩn thận? Bây giờ chúng đang làm gì đấy?"
"Tên thuyền trưởng rất tức giận. Cậu sẽ không lôi thôi gì chứ, hả?"
"Nếu chúng ta không đưa thuyền đi, lão Toađy có thể có lý do để phàn nàn. Bọn cung thủ đang làm gì đấy?"
"Chẳng làm gì cả. Chúng đang nghe hắn. Hắn chưa quyết định gì. Không. Chưa tên nào đặt tên lên cung cả."
Rodrigues chuẩn bị dừng.
"Mẹ ơi, chúng bắn chính xác đéo chịu được, không trệch phát nào đâu . Đặt vào cung chưa?"
"Rồi - nhưng đợi một chút đã! Có người nào tới bên hắn, một thủy thủ, tớ nghĩ thế. Hình như gã đang hỏi hắn điều gì về con tàu. Viên thuyền trưởng đang nhìn chúng mình. Hắn nói điều gì với tên cầm cung. Bây giờ nó đã bỏ xuống. Anh chàng thủy thủ đang chỉ cái gì trên boong."
Rodrigues liếc nhanh xem có đúng không và thở nhẹ nhàng hơn.
"Một người bạn đấy. Anh ta phải mất nửa tiếng đồng hồ để ổn định những người chèo."
Blackthorne chờ đợi, khoảng cách tăng lên.
"Viên thuyền trưởng lại nhìn chúng ta. Không, không sao. Hắn đi rồi Nhưng một tên Samurai."
"Kệ nó"'. Rodrigues thư thái nhưng vẫn không lơi tay chèo hay nhìn lại.
"Tớ không thích phơi lưng ra cho lũ Samurai, nhất là khi chúng có vũ khí trong tay. Mà tớ cũng chưa từng thấy một thằng con hoang nào không có vũ khí. Tất cả chúng nó đều là con hoang hết."
"Tại sao?"
"Tớ cũng chẳng hiểu tại sao. Ingeles, nhưng chúng là con hoang." Rodrigues trả lời, sung sướng được nói chuyện với người của mình.
"Tất nhiên tất cả bọn Nhật Bản này đều khác với chúng ta - chúng không cảm thấy đau đớn hay lạnh như chúng ta - nhưng bọn Samurai này thậm chí còn tệ hơn nữa. Chúng chẳng sợ gì hết, chết càng không. Tại sao? Chỉ có Chúa mới biết được, nhưng đó là sự thật. Nếu cấp trên bảo giết, chúng giết, bảo chết là chúng lao ngay vào lưỡi kiếm của chúng hoặc mổ ngay bụng ra."
"Chúng giết và chết dễ dàng như mình tè vậy. Phụ nữ cũng là Samurai Ingeles ạ. Họ sẽ giết để bảo vệ chủ của họ, ở đây họ gọi chồng như vậy, hay sẽ tự tử nếu họ được ra lệnh. Họ sẽ tự cắt cuống họng."
"Ở đây một Samurai có thể ra lệnh cho vợ phải tự tử và theo luật, người vợ phải thi hành. Hầy, Đức Mẹ Đồng Trinh ơi, tuy nhiên, phụ nữ là một cái gì khác, một loại khác, Ingeles ạ không có cái gì trên đời này giống họ, nhưng mà đàn ông... "
"Samurai là loài bò sát và cách an toàn nhất là hãy đối xử với họ như với những con rắn độc. Cậu bây giờ ổn rồi chứ?"
"Ừ, cám ơn. Có yếu một chút nhưng không sao."
"Chuyến đi của cậu thế nào?"
"Vất vả. Về bọn họ - bọn Samurai - làm sao họ giống nhau như một. Có phải họ chỉ việc nhặt hai thanh kiếm lên và cắt tóc đi?"
"Cậu phải sinh ra là Samurai mới hi