← Quay lại trang sách

Chút gì tiếc nuối

Chút gì tiếc nuối

iếng trống tan học vang rền trong sân trường, âm hưởng vào từng lớp. Tiếng một cô giám thị oang oang trên loa phóng thanh: “Các học sinh nhớ tắt đèn, tắt quạt trước khi ra về”. Trên bục giảng bài, ông thầy buông viên phấn, rời bảng. Trên bàn học trò, những cô nữ sinh áo trắng tíu tít nhét sách vở vào túi xách một cách vội vã, vuốt lại nếp áo một cách cẩn thận trước khi rời lớp học. Hà Minh không cuống quít như các bạn, nàng nâng niu tập vở một cách mến thương, nàng còn thấy luyến tiếc buổi học. Thời giờ trôi mau làm sao! Năm nay là năm cuối cùng của bậc Trung Học, năm nay là năm thi Tú Tài Hai, nàng bận rộn lắm. Nếu nàng đậu cao, ba má hứa cho nàng đi du học ngoại quốc dù phải bỏ tiền nhà vì ông anh lớn đã xin được học bổng. Thời ấy, vào khoảng thập niên 70, mỗi gia đình chỉ có một người được học bổng chính phủ mà thôi. Vì thế, Hà Minh phải cố gắng. Mộng viễn du đã từ lâu lảng vảng trong đầu cô nữ sinh mười bảy tuổi. Mộng công danh cũng đã từ lâu làm bận óc cô con gái nết na, dịu dàng, xinh đẹp của ông bà kỹ sư Phước, một nhà trí thức danh gia vọng tộc tại Gò Công.

Gia đình Hà Minh tuy có tiếng nhưng thanh bạch vì ông kỹ sư Phước lo phục vụ xã hội nhiều hơn lo làm giầu. Bà Phước phải mở một cửa hàng tạp hóa nhỏ, phụ chồng trong việc nuôi con. Ông bà dạy dỗ bốn người con thật kỹ lưỡng, nhất là trong cuộc sống cần biết thương người, giúp đỡ ai yếu kém hơn mình. Ngay từ khi mới bắt đầu hiểu biết, Hà Minh đã thích chia sẻ với những trẻ nghèo cùng xóm những đồ chơi mà dù có thích cách mấy cô bé cũng cho đi vì không chịu nổi ánh mắt thèm thuồng của những đứa trẻ con bất hạnh. Hà Minh là út ở trong nhà nên được mẹ cưng, được ngủ chung với mẹ nhiều hơn chị Hà Thu, được cha cho quà nhiều hơn anh Văn, anh Vũ. Anh Văn là con trai lớn nên được giáo huấn nghiêm túc để làm gương cho các em; tuy nhiên Hà Minh vẫn là một cô con gái ngoan, biết vâng lời cha mẹ nhất nhà. Nàng cảm thấy an toàn thoải mái trong vòng tay cha mẹ.

Hà Minh thong thả lên xe nhà trường, nàng không thích tranh giành chỗ ngồi với các bạn, lúc nào nàng cũng săn lòng nhường bạn bè, thường thì nàng phải đứng. Nàng chỉ ngại xe Hiệu Đoàn nhà trường thỉnh thoảng đậu bên ngoài cổng trường đón học sinh lên trễ, như thế là nàng phải chạm trán với nhiều cậu con trai đứng chờ các nữ sinh giờ tan học. Nhiều cô còn thích đám con trai vây quanh, nhưng Hà Minh không vậy, nàng cảm thấy bất an khi một cậu trai lẽo đẽo đạp xe theo, nàng cảm thấy khó chịu khi một người đàn ông trân trối nhìn nàng hoặc mở miệng tán tỉnh. Hà Minh là một học sinh đẹp nổi tiếng của trường nữ trung học Mê Linh, một vẻ đẹp u uẩn vì cặp mắt huyền sâu thẳm đầy cuốn hút nhưng cũng rất ngây thơ trong sáng ẩn dưới hai rèm mi cong dài, cặp môi mọng đỏ ướt át với khóe miệng khi mủm mỉm khẽ nhếch lên duyên dáng mỹ miều; ít khi nàng cười nhưng khi cười, nụ cười nàng thật đáng yêu vì hai hàm răng ngà ngọc đều đặn làm tươi hẳn khuôn mặt trái soan, chiếc mũi thanh tú gọn gàng giữa đôi chân mày lá liễu, mái tóc dài đen mướt phủ kín lưng đúng vẻ nữ sinh. Vóc người mảnh khảnh, cân đối dịu dàng... nàng là đối tượng cho biết bao nhiêu ong bướm, nàng là nữ thần sắc đẹp của biết bao chàng trai trẻ. Hà Minh biết mình được nhiều ưu điểm trời cho, nhưng nàng không bao giờ tỏ vẻ kiêu kỳ, nàng đối với ai cũng nhã nhặn, lễ độ, nàng e sợ những gì sẽ sàng, thô lỗ. Theo đúng gia phong thanh lịch tao nhã, Hà Minh lúc nào cũng nhỏ nhẹ đối với mọi người; với cha mẹ, nàng là một cô gái ngoan; với thầy cô, nàng là một thiếu nữ được giáo huấn kỹ lưỡng; với bạn bè, nàng là một người rộng rãi, có nhiệt tình.

Tuổi học trò trôi trong êm đẹp, Hà Mình ham học và bản chất thông minh nên lúc nào nàng cũng đứng đầu lớp nhưng không bao giờ nàng cao ngạo, nàng sẵn lòng bỏ cả buổi chỉ dẫn bài cho bạn một cách tận tình. Mười bảy tuổi rồi, nàng vẫn chưa biết thế nào là yêu đương; nàng thấy yêu gia đình, yêu học đường, yêu xã hội là quá đầy đủ. Mười bảy tuổi rồi, nàng vẫn chưa bao giờ đến phòng trà ca nhạc, nàng vẫn chưa biết son phấn, ăn mặc kiểu cách như các bạn thường khoe trong lúc tán gẫu. Mười bảy tuổi rồi, nàng vẫn chưa dám đi chơi một mình, lúc nào cũng kề bên mẹ, hoặc có anh trai đi kế bên nàng mới thấy an lòng. Nàng nhìn những cậu trai, những người đàn ông đeo đuổi tán tỉnh một cách thản nhiên nếu không nói là nhuốm chút khó chịu. Hà Minh cảm thấy mất thì giờ khi nghĩ đến ái tình, với nàng còn phải học trước đã, với nàng con đường sự nghiệp phải hoàn tất trước đã, với nàng chữ hiếu phải được trả trước đã, nàng còn trẻ mà! Cuộc đời nàng vạch sẵn, một cuộc đời đúng đắn, một cuộc đời gương mẫu, hãy cứ thế mà theo! Hà Minh biết mình có nhược điểm là nhút nhát vì nàng được gia đình che chở kỹ càng nên nàng rất sợ một mình trước đám đông, trước người lạ. Giáo sư hướng dẫn lớp Hà Minh thấy nàng vừa học giỏi vừa đẹp, đã nhiều lần đề nghị nàng lên trình diễn thời trang trên sân khấu trong những buổi Đại Nhạc Hội lấy tiền gây quỹ cho nhà trường, nhưng Hà Minh trốn tránh, thoái thác lấy cớ bận học. Nàng cũng cảm thấy áy náy vì những hoạt động của nhà trường là những hoạt động thiện nguyện, nhưng nàng không thể tham gia vì con người nàng là thế! Quả thật, có đôi lần Hà Minh thấy một chút gì nuối tiếc trong lòng!

Chỉ có u già là hiểu cô bé rõ thôi, u là người chăm nom nàng từ khi Hà Minh mới năm sáu tuổi; u di cư từ ngoài Bắc vào, tứ cố vô thân. Ông kỹ sư Phước hồi năm 1954 làm việc tại văn phòng định cư cho dân tị nạn Cộng sản đi từ Bắc vào Nam, thấy u đơn chiếc, mang về nuôi, đối xử tử tế như người nhà. Từ đây u trở thành một quản gia và Hà Minh út ít trong nhà được u thương yêu hết mực. Những lúc rảnh rỗi, u làm đồ chơi cho cô bé, chơi bán hàng với cô bé. Hà Minh còn nhớ mãi món đồ chơi nàng ưa thích là chiếc đòn gánh bé nhỏ xinh xinh u đẽo gọt và đánh bóng láng để cô bé quẩy trên vai gánh hàng đi bán dạo như một người buôn thúng bán bưng quê mùa miền Bắc. Hà Minh thương và gần gũi u già nên cô bé có cảm tình với dân miền Bác từ dạo ấy. Vì thế, những bạn học của nàng Bắc, Nam đủ cả, nàng không kỳ thị như một số khá đông con gái Nam khác không ưa con gái Bắc xí xọn. Tiêu chuẩn chọn bạn là những cô gái ngoan hiền, chăm chỉ, biết vâng lời cha mẹ. Mỗi lần bị đàn ông con trai đeo đuổi, Hà Minh lại nhớ tới lời dặn của mẹ “Đừng để cho tình trai gái chiếm mất thì giờ”, nàng lại lạnh lùng với những bộ mặt thất tình của các chàng trai mà bây giờ nghĩ lại, Hà Minh thấy chạnh lòng; trong số những người đó chắc chắn có người mang hạnh phúc đến cho nàng. Nhưng, tính lãnh đạm cứng cỏi được tập luyện lâu dần đã thành một thói quen, đã thành bản chất của nàng. Nhìn quanh, các bạn người nào cũng có những buổi yêu đương hò hẹn, riêng Hà Minh nàng chưa hiểu thế nào là sự đợi chờ, sự ray rứt trong tình yêu, thế nào là sự nồng nàn nhớ nhung, điên cuồng mãnh liệt. Cha mẹ cũng chẳng bao giờ cấm cản vì Hà Minh có bao giờ đắm chìm trong biển tình ái! Bây giờ nghĩ lại, nàng thấy một chút gì khắc khoải nuối tiếc bàng bạc khôn nguôi.

Trong vòng tay ấp yêu của mẹ, trong vòng tay che chở của cha, trong vòng tay thân ái của anh chị, đối với Hà Minh, mái ấm gia đình thật là cần thiết, thật là trọn vẹn. Đó là tình, còn tình gì đẹp hơn thế nữa đâu? Tuổi ấu thơ, tuổi trẻ của nàng là một vùng hào quang sáng lạn; nàng đã cảm thấy hạnh phúc tràn trề cho đến ngày nàng đi du học. Cả tuần lễ trước khi lên đường sang Mỹ, đêm đêm nằm cạnh mẹ, nghe hơi ấm từ người mẹ tỏa ra, Hà Minh thầm hứa sẽ một ngày công thành danh toại về báo hiếu. Ít nhất cũng bốn năm trời, chắc chắn nàng sẽ về nước làm cha mẹ mát lòng, nàng sẽ lo cho ông bà Phước để chẳng còn gì phải nuối tiếc, chắc chắn nàng sẽ về nước làm những gì hữu ích cho người nghèo như nàng vẫn hằng tâm nguyện. Chuyến đi này chỉ là một bàn đạp để nàng tiến tới thành công trên con đường đời nàng phác họa trong cuộc sống nàng toan tính.

Ngày tiễn đưa Hà Minh lên đường du học là một ngày nắng đẹp, nắng vàng chan hòa trên bầu trời Sài Gòn, nắng hồng ấm áp như reo vui trong không gian như báo hiệu một thành công rực rỡ cho ngày mai tươi sáng. Mẹ cha còn dặn dò lần cuối, sợ xa gia đình Hà Mình ham chơi. Không, không bao giờ nàng ham vui buông thả, con đường đã vạch, những cân nhấc đã chỉ định, nàng là con người có lý trí, chắc chắn nàng sẽ làm đúng. Không, không bao giờ nàng để cha mẹ từ chốn xa xôi phải lo lắng, phiền muộn vì nàng. Ông bà Phước dặn dò là theo thói quen chứ ông bà vẫn chắc chắn con gái mình rất trọng đạo làm người.

Hà Minh ôm hôn cha, mẹ mà nước mắt chan hòa; chưa bao giờ rời vòng tay gia đình, chưa bao giờ đi xa một mình ngay cả đi dạo chơi trong đô thành Sài Gòn, đi chợ Bến Thành lúc nào mẹ nàng cũng kế cận... thế mà bây giờ... nàng sẽ phải một mình đương đầu với tất cả mọi thứ xa lạ ở một nơi xa lạ... ở một phương trời xa quê hương tít mù khơi! Ngày nào mới hội ngộ cùng những người thương yêu, ngày nào mới được nũng nịu trong vòng tay êm ấm của mẹ, trong vòng tay cứng rắn cửa cha? Lần đầu tiên trong đời Hà Minh thầm nhủ mình phải tự dấn thân một cách vững vàng, lòng nhủ lòng mà nước mắt chứa chan...

Thành phố Claremont ở miền nam tiểu bang California, trên vùng cao nguyên thơ mộng với những núi đồi trùng điệp bao quanh, với những hàng cây trắc bá diệp, cây thông quanh năm đầy bóng mát, với những con đường mòn sương phủ mờ mờ ảo ảo vào những ngày đầu xuân, với những lá úa ngả màu từ xanh lục sang sắc vàng, sắc đỏ, sắc nâu, sắc tím vào những ngày thu muộn. Từ trên trường Đại học Claremont, nhìn xuống thung lũng xa xa chìm trong đám khói bụi màu ngà sẫm như mây mù che phủ vòm trời Los Angeles, nơi phồn hoa đô hội của tiểu bang Cali., nơi quanh năm bụi bậm với những nhà máy khổng lồ nhả khói liên tục kết thành đám mây vàng.

Thú vui của Hà Minh là những chiều sau buổi học từ trên cao phóng tầm mắt lặng ngắm thành phố đô thị phía dưới lẫn trong đám khói hoàng diêm với những vệt tà dương khi hồng khi xanh ẩn ẩn hiện hiện như một bức tranh tuyệt mỹ. Nếu có nhiều thì giờ hơn nàng mang giá vẽ phác họa cảnh chiều tà cô tịch, cố diễn tả màu sắc hài hòa của nét đẹp thiên nhiên. Nàng yêu hội họa, nàng có tài vẽ, có năng khiếu. Tuy nhiên nàng không thể dành nhiều thì giờ cho những bức tranh nghệ thuật, cho những thú tiêu khiển quý giá vì phải vùi đầu vào sách vở. Nàng học như điên cuồng, học vội vã vì buồn chán, vì nhớ nhà. Sách vở là con đường tiến thủ, là con đường ngắn nhất để trở lại với quê hương, trở lại với gia đình. Hơn thế, càng học bao nhiêu càng thấy mình thiếu sót bấy nhiêu. Ý chí cương quyết, học để mà mở mang kiến thức, để có một tầm nhìn rộng rãi, để vững chãi với đời đã khiến Hà Minh cố gắng tận lực trong biển sách. Nàng không dám đi chơi đâu, chỉ quanh quẩn trong khuôn viên đại học. Họa hoằn, nàng tới những trường kế cận vì toàn khu này bao gồm năm trường rất gần gũi nhau. Đại học Claremont là ngôi trường tư nổi tiếng gồm toàn nữ sinh viên, đó cũng là lý do nàng ghi danh tại đây. Nhìn quanh, bạn bè toàn người ngoại quốc, có tâm sự cũng khó vì cảm quan khác nhau, vì được nuôi dưỡng trong hai môi trường sống khác nhau. Những cô bạn gái Mỹ trong Đại học Claremont rất tự do, rất cởi mở; các cô nhiều khi rũ Hà Minh đi chơi tối, đi party. Nhưng Hà Minh khéo léo chối từ, nàng không thấy thú vị gì với ánh đèn màu hoang loạn, với tiếng nhạc bập bùng xa lạ. Bạn bè đi chơi khuya vắng, trong “dom” nhiều khi một mình nàng mê mải học bài. Giờ đây, sách vở là bạn chí thiết của Hà Minh.

Thầy Cheng Yan, một giáo sư Mỹ gốc Trung Hoa, một trong những ông thầy dạy các môn chính yếu của khoa Kinh tế học thấy Hà Minh chăm chỉ, thường tận tình giảng bài cho riêng nàng. Nàng cố thú thật với thầy là nàng không ham gì môn Kinh tế, môn nàng chọn, nhưng nàng phải chọn thôi vì nàng nghĩ đến ngày về, vì môn học này cần thiết cho đất nước, vì môn học này sẽ giúp nàng kiếm sống một cách dễ dàng ở Việt Nam. Hà Minh tin tưởng ở thầy Cheng vì ông là người Á Đông, dù gì cũng có nhiều quan niệm chung về cuộc sống với nàng hơn người Anh Mỹ, dù gì ông cũng là con cháu của Đức Khổng Phu Tử. Từ ngày sang Mỹ, đây là lần đầu tiên nàng nói chuyện nhiều với một người đàn ông ngoại quốc, con trai Mỹ đeo đuổi nàng nhiều, nhưng Hà Minh cứ làm lơ như không biết, ngay cả con trai Á Đông cũng mong ước được làm bạn với nàng, không hiểu sao nàng vẫn thích tránh người khác phái, tính này nàng có từ khi ở quê nhà. Thật sư Hà Minh không muốn làm khổ ai nhưng nàng cũng không muốn ai làm phiền mình. Cha mẹ dặn cố học hành đừng để dở dang, nàng vẫn tâm niệm ghi nhớ. Hà Minh thân mật với thầy Cheng vì là người dạy nàng học, vì là người hướng dẫn bài vở cho nàng và nhất là thầy đã có vợ, nàng vẫn ngây thơ kề cận bên thầy, nàng coi thầy như một người anh lớn, nàng chưa bao giờ để ý đến ánh mắt của đàn ông!

Hà Minh còn nhớ buổi chiều hôm ấy sau giờ học, thầy Cheng dặn nặng ghé lại bàn giấy thầy lấy bài vở về xem trước và chỗ nào cần thầy sẽ giảng giải thêm. Văn phòng của các giáo sư dạy môn Kinh tế nằm một dọc dài trong một hành lang vắng vẻ, biệt lập hẳn khu giảng đường mặc dầu cùng tọa lạc trong một tòa nhà bốn tầng xây bằng gạch đỏ cổ xưa. Hà Minh rất thích ngôi trường kiểu cổ này, trông nó trang nghiệm mà ấm cúng với màu đất nung vào những ngày giá lạnh, trông nó cổ kính mà thơ mộng gợi nhớ tới trường Mê Linh từ đất nước thân yêu. Sau khi rời giảng đường, Hà Minh đi thẳng tới cafeteria, tới quầy hàng lấy một đĩa cá hấp, một đĩa rau sống trộn Jalapeno dressing, một chén soup nhỏ cho bữa cơm chiều. Ngồi trong phòng ăn, nhìn qua khung kinh cửa sổ, Hà Minh vừa nhai vừa mơ màng nhìn rặng núi xa xa đang chuyển dần sang sắc tím thẫm trong hoàng hôn cô tịch. Đây là lúc nàng thấy thoải mái nhất trong ngày. Tối nay, nàng phải dành nhiều thời giờ để trò chuyện về bài vở với thầy Cheng.

Vấn vương với nét đẹp của thiên nhiên trong cảnh tà huy nhưng Hà Minh cũng phải dứt để đến văn phòng thầy Cheng trong ngôi nhà gạch đỏ quạnh trông nồng ấm dưới ánh nắng chiều. Giờ này các thầy khác đã về nhà hết trừ giáo sư Cheng đương đợi nàng. Thật là một ông thầy tận tâm! Nàng đưa tay gõ nhẹ trên cánh cửa kính mờ. Một giọng nói trầm trầm quen thuộc vọng ra: “Vào đi! Tôi đang chờ đây!”

Hà Minh đẩy cửa bước vào. Thầy Cheng đứng dậy tươi cười chỉ ghế mời nàng: “Đợi tôi một chút!” Lần đầu tiên, nàng gặp thầy trong khung cảnh vắng lặng. Lần đầu tiên, mắt nàng chạm phải tia mắt rực lửa của thầy. Hà Minh sợ hãi đến lạnh người, giác quan thứ sáu báo động một cách nhậy cảm, Hà Minh lùi ra cửa, thầy Cheng nhanh nhẹn nhào theo. Hà Mình chạy vội ra ngoài hành lang, sau lưng bước chân rộn rã làm nàng cuống quít, vấp ngã... Thầy Cheng đè trên mình nàng, hổn hển: “Tôi yêu em! Tôi yêu em!” Đôi tay cứng mạnh ghì xiết thân mình nàng, đôi môi tham lam tìm kiếm làn môi thơm tho của người con gái. Trong cơn nguy, Hà Minh có thêm sức mạnh, nàng đạp bật ông thầy kỳ quái sang một bên, nhổm dậy tiếp tục chạy nhanh ra cửa ngoài. Thầy Cheng không bỏ lỡ con mồi, tiếp tục đuổi theo. Cheng chỉ còn cách nàng một tầm tay với, bỗng dưng cánh cửa hành lang thông ra khuôn viên bên ngoài bật mở, thầy Kromer bước vào, kinh ngạc nhìn cảnh rượt bắt của hai người. Hà Minh kêu lên: “Cứu tôi với!” Nàng chạy thoát ra ngoài. Nàng không thể ngờ trong cương vị một ông thầy mà cô sinh viên đặt hết lòng tin tưởng lại có một hành động xấu xa như thế, nàng không thể ngờ được một người đàn ông đã có vợ mà nàng vẫn quý trọng lại có một hành động tồi bại đến thế! Đàn ông! Thảo nào mà mẹ nàng chẳng dặn dò nàng kỹ lưỡng từ khi nàng tới tuổi dậy thì. Thảo nào mà nàng không thấy thú thích gì khi nhìn những cặp mắt si tình của các chàng trai theo đuổi tán tỉnh. Trở lại phòng, khóa kín cửa mà nàng vẫn còn cảm giác bất an, cảm giác lo âu sợ hãi nàng bật khóc... Mẹ ơi!

Sáng hôm sau có giờ thầy Cheng, Hà Minh hồi hộp đợi chờ, nàng đang tính phải sắp đặt một thái độ sao đây cho hữu lý, cho ông thầy khỏi thù oán nàng. Nhưng rất may, giáo sư Kromer, chairman của môn Kinh tế học vào lớp. Ông vắn tắt cho sinh viên biết thầy Cheng đã ra đi, không nói lý do. Ông nhìn nàng đầy ý nghĩa với một sự cảm thông. Hà Minh chỉ nhìn ông với cặp biết ơn. Không ai nói gì. Không ai biết gì.

Sau ngày hãi hùng đó, Hà Minh càng cẩn thận hơn trong vấn đề giao tế với người khác phái, nàng hầu như loại hẳn các bạn trai ra khỏi cuộc đời, nàng học nhiều hơn đến nỗi rộc rạc hẳn người, mỗi lần chải đầu tóc rụng cả nắm nhưng với tình nhớ thương gia đình sâu xa, với ý chí sắt đá tạo dựng một tương lai tươi sáng Hà Minh vẫn tiếp tực con đường đã vạch. Mỗi ngày đắm mình trong biển học là một vất vả hốc hác nhưng mỗi ngày qua là gia đình và đất nước kề cận gần gũi hơn. Tính ra nàng sẽ xong chương trình bốn năm học trong vòng hơn ba năm trời. Ở phương trời xa xôi chắc cha mẹ bằng lòng lắm, và nàng cũng bằng lòng với chính mình vì những cố gắng không uổng công.

Tòa đại sứ Việt Nam mỗi năm tổ chức buổi họp mặt tất niên một lần và cho mời những sinh viên người Việt đến tham dự vừa để các sinh viên có dịp gần gũi nhau vừa để hà hơi cho sinh viên Việt Nam tiếp tay chống Cộng, chống lại bọn sinh viên phản chiến theo nhóm Jane Fonda khí thế đang lên ngùn ngụt. Hà Minh nghiêng về nhóm sinh viên Quốc Gia dù nàng không biết nhiều về chính trị, nhưng nàng thấy khó chịu lá cờ đỏ sao vàng, nàng chỉ yêu màu cờ quốc gia mà cha nàng luôn luôn bảo vệ. Nhìn bọn sinh viên phản chiến la hét, nàng nghĩ đến thuở xa xưa, thời năm 54, những người Bắc di cư vào Nam mà ông Phước, cha nàng tận tình giứp đỡ, tại sao họ phải bỏ nhà cửa đất cát trốn tránh hiểm họa, nỗi niềm ấy bọn phản chiến có hiểu không? Những lời cha dạy Hà Minh vẫn khắc sâu trong tâm hồn, bọn sinh viên bên kia không sao lôi kéo được một người đẹp mà chúng muốn dùng làm quân cờ cho những âm mưu, những toan tính ở Mỹ. Cũng trong những buổi hội họp tại sứ quán mà Hà Minh gặp Hương, một nữ sinh viên đã có gia đình, một người hăng say chống bọn Jane Fonda. Chồng của chị Hương, anh Cương ít ra mặt hơn vợ nhưng nhanh nhẩu và khéo léo. Cả hai vợ chồng đều mến Hà Minh.

Mỗi dịp hè, Hà Minh phải rời trường, rời “dom”, tới tạm trú tại nhà những cô bạn gái Mỹ, nàng cảm thấy buồn tủi khi nhìn thấy các bạn đoàn tụ với mẹ cha, dù gia đình nào có tử tế cách mấy nàng vẫn cảm thấy xa lạ. Mùa hè năm đó là lần thứ ba Hà Minh xa nhà. Lần này chị Hương mời nàng về tá túc với gia đình chị chờ niên học cuối tới. Anh Cương săn đón, phụ họa cùng vợ. Anh chị mới có một cháu bé gái mười tám tháng trông xinh xắn đáng yêu, Hà Minh vẫn thích trẻ con vì trông chúng mới ngây thơ trong sáng làm sao, đẹp như thiên thần. Nàng nhận lời anh chị Cương và cảm thấy thú vị khi nghĩ tới săn sóc bé Mimi, phụ cho chị đỡ vất vả. Nàng biết chị Hương vừa học, vừa đi làm, vừa lo con, vừa lo công tác Tòa đại sứ giao phó, Chị là người đầy nhiệt huyết, nàng thấy thương chị.

Căn nhà xinh xắn của hai vợ chồng chị nằm trên một vùng đất thưa thớt dân cư, nhiều cây to rậm rạp bao quanh, rất mát vào mùa hạ, rất yên tĩnh cho những ngày nghỉ xả hơi sắp tới. Nhà có ba phòng ngủ, phòng nàng kế bên phòng bé Mimi, xế phòng ngủ của anh chị, nhưng nàng có phòng tắm riêng. Chị Hương xếp đặt đâu đấy cho nàng vì biết tính Hà Minh cẩn thận. Từ ngày đi du học, đây là lần đầu nàng sống với một gia đình người cùng xứ, cùng một tập quán với nàng, Hà Minh thấy đỡ buồn, đỡ nhớ quê hương. Nàng cố vui trong cái vui của những người bên cạnh, nàng cố cười trong những tràng cười vang động của cặp vợ chồng đang tràn trề hạnh phúc. Nàng phụ giúp chị Hương nấu ăn, nhiều khi chính nàng làm đầu bếp cho cả nhà. Mỗi lần như vậy, anh Cương lên bàn ăn luôn miệng khen ngon, khen nàng khéo, có tài nấu nướng. Chị Hương thì bảo nàng sẽ là người “vượng phu, ích tử”. Nàng phụ giúp chị Hương trông nom bé Mimi, nào pha sữa, cho bú, nào thay tã, tắm rửa bé. Mỗi lần như vậy, anh Cương rối rít khen nàng, nào ngoan, nào chịu khó, anh còn bảo nàng nên làm mẹ thứ hai của bé Mini. Hà Minh chỉ cười nhẹ cảm ơn, nàng vẫn ngây thơ không hiểu ẩn ý của câu nói.

Một tối, cả nhà đang quây quần trong phòng khách sau bữa cơm thì tiếng chuông điện thoại reo vang. Anh Cương cầm ống nghe lên trả lời, rồi đưa cho vợ: “Trên Tòa đại sứ muốn nói chuyện với em”. Chị Hương tiếp điện thoại từ tay chồng, trò chuyện xong, quay lại nói: “Em phải đi họp gấp bây giờ. Anh cho Mimi đi ngủ vậy! Chắc em sẽ về khuya vì buổi họp cấp bách, có cán sự từ D.C. sang”.

- Để em lo cho cháu. Chị cứ an tâm. - Hà Minh lên tiếng, nàng thấy ái ngại cho chị Hương, chắc anh Cương sùng lắm, nhưng liếc nhanh nhìn mặt anh, nàng thoáng thấy vẻ hài lòng mừng rỡ, nàng hơi ngạc nhiên.

- Cám ơn Hà Mình! Có em, chị an tâm vì ông chồng chị làm biếng trông con lắm! - Nói xong, chị vào phòng trong thay đồ rồi hối hả ra xe.

Còn lại hai người trong phòng khách, Hà Minh cảm thấy mất tự nhiên, nàng biết Cương đang nhìn mình đăm đăm, nàng ngước thẳng nhìn vào ánh mắt anh vẻ lạnh lùng, nàng thấy tia nhìn khao khát van xin trên khuôn mặt người đàn ông. Hà Minh đứng bật dậy vừa lúc tiếng khóc của bé Mimi vọng từ phòng bên sang.

Thay tã cho bé xong, Hà Minh vội vã trở về phòng khóa chặt cửa lại, với tay tìm nút bấm đèn. Chợt một vòng tay đam mê ôm cứng lấy thân thể người con gái, những nụ hôn cuồng điên trải khắp trên mặt trên cổ thiếu nữ. Giọng nói hổn hển đứt quãng của Cương vang lên trong bóng tối: “Em đẹp lắm! Em đẹp lắm! Anh thương em ngay từ buổi ban đầu... đừng chống trả anh... đừng hất hủi anh!” Sự sợ hãi không làm Hà Minh mềm người, nghị lực từ đâu tiếp sức cho nàng, Hà Minh cắn vào cặp môi tham lam đương vò xé môi nàng, mười ngón tay bấu chặt vào bụng dưới người đàn ông đang dướn mình đè lên nàng. Cương thét lên một tiếng đau đớn, buông lơi người con gái, Hà Minh tông cửa thoát ra ngoài. Quần áo xốc xếch, đầu tóc tả tơi, Hà Minh nhào lên xe, nổ máy, lao vào đêm tối hãi hùng...

Tin tức hằng ngày về chiến cuộc Việt Nam làm Hà Minh mất ăn mất ngủ. Người nước nhà chưa biết nhưng ở ngoại quốc ai ai cũng biết miền Nam nước Việt đã bị bỏ rơi, đang từ từ lọt vào tay Cộng sản, Hà Minh rất lo cho cha mẹ. Ngày từng ngày, người Việt tị nạn đến Mỹ càng đông. Tháng Tư Đen năm 75, Hà Minh cuống cuồng tới Tòa đại sứ Việt Nam Cộng Hòa, không cỏn ai đón tiếp nàng, ông Đại sứ cũng đã ra đi... nước nhà đã mất... miền Nam nước Việt đã đổi chủ... tin tức gia đình đã bị đứt đoạn. Hà Minh chỉ còn một niềm hy vọng mỏng manh là cha mẹ đã rời nước trên những chuyến tầu ti nạn, nhưng càng tìm, càng nhắn nhe, càng bật vô âm tín! Lòng dạ như bào xé, Hà Minh như điên vì thất vọng, vì đau khổ. Một hôm, tình cờ đọc trên tờ báo hằng ngày mục nhắn tin của một sĩ quan Mỹ tìm một sinh viên Việt Nam mang tên nàng để tường thuật về tin tức gia đình, Hà Minh mừng tới phát khóc, nàng vội gọi ngay điện thoại cho người sĩ quan. Anh ta cho nàng biết có một thanh niên tên Phương vừa đến trại tạm trú ở Pendleton muốn tìm nàng để nhắn tin về gia đình. Lục tìm trong trí, Hà Minh mang máng nhớ tới người bạn của anh Văn đang du học tại Nhật, nàng vội vàng lấy xe bus đi thẳng tới trại tị nạn, nơi tạm trú của anh Phương. Hơn bốn năm trời mới gặp lại, anh Phương trông già đi quá nhiều, anh kể cho nàng biết tình trạng sinh sống của gia đình nàng sau ngày miền Nam thất thủ. Ông Phước đã đi học tập, chị Hà Thu đã cùng chồng vượt biên chưa biết tin tức ra sao, nhà chỉ còn bà Phước và anh Vũ, nhưng sớm muộn gì bà cũng tìm cách cho Vũ ra đi. Trong thời gian còn ở Việt Nam, anh Phương tới gia đình nàng thường xuyên, anh là người giúp cho vợ chồng Hà Thu vượt biển, anh là người lo cho gia đình nàng thay thế anh Văn sau ngày miền Nam thất thủ. Nàng chỉ còn biết cảm ơn anh Phương, nàng sẽ tìm vợ chồng chị Hà Thu để hai chị em cùng lo cho cha mẹ ra nước ngoài khi ông Phước mãn hạn tù. Nàng không để ý đến cặp mắt u sầu của Phương nhìn nàng, nàng không để ý đến sự ngập ngừng của anh như có điều gì muốn nói. Nàng chỉ dịu dàng từ biệt anh, một sự dịu dàng lịch sự nhưng xa cách. Anh Phương tiễn nàng với vẻ bùi ngùi...

Hà Minh đã xong B.A. sớm hơn dự tính, mới hơn ba năm trời nàng đã trở thành cô Cử đúng vào thời gian mất nước, mộng trở về gặp lại những người thân yêu thôi đành gác lại. Bây giờ nàng phải tự xoay sở một mình, Hà Minh vừa đi làm vừa tiếp tục Cao Học. Thôi đành chờ đợi tới ngày nàng có quốc tịch Mỹ bảo lãnh cho cha mẹ... mà biết đến bao giờ?... Chính nàng cũng không còn tổ quốc, nàng không còn là công dân Việt Nam, nàng chỉ sống ở xứ này theo dạng tị nạn, làm sao đây? Anh Văn vẫn còn ở bên Nhật, anh Văn cũng như nàng làm sao đưa gia đình ra khỏi nước? Công việc và học vấn bề bộn cũng khỏa lấp thời giờ, nhưng đêm khuya, một mình trong căn phòng trọ trống vắng, nàng không khỏi giữ được tiếng nấc nghẹn ngào. Công ơn sinh thành chưa được đền đáp, công thành danh toại cũng vô nghĩa mà thôi! Nàng không có nhiều bạn, nàng không mắc điện thoại trong nhà, nàng sợ mọi người gọi đến, nàng sợ đàn ông con trai, nàng càng ghê sợ hơn kể từ ngày thầy Cheng và anh Cương, những người mà nàng tin cẩn mưu toan cưỡng bức nàng. Cái sắc đẹp nhiều khi làm phiền nàng, nàng chỉ mong gặp được người có một tấm chân tình, hiểu và thương yêu nàng thành thật chứ không phải ham cái mã bên ngoài, nhưng sao khó quá, có phải vì nàng trốn chạy đàn ông nên chẳng còn cơ hội tìm ra được ai đúng ý không?

Đương cắm cúi trên bàn máy điện toán thì chuông điện thoại trên bàn giấy reo vang, Hà Minh với tay cầm ống nghe, nhỏ nhẹ: “Alô! Hà Minh đây!”

Đầu dây bên kia, một giọng thân thuộc, giọng chị Hà Thu: “Chị đây, Hà Minh! Anh Tôn và chị hiện đương ở Hawaii. Chị mong sớm gặp Minh!”

Hà Minh lặng người trong sung sướng, ít nhất nàng đã tìm được một thành viên trong gia đình. Nàng tíu tít hỏi chuyện. Vợ chồng chị Hà Thu đã tới Hawaii được gần hai tháng. Ông Phước vẫn còn trong trại giam nhưng không cách Sài Gòn bao xa, bà Phước cứ tới kỳ thăm nuôi lại mang thức ăn cho ông bồi bổ nhưng ông yếu phổi, kết quả của những năm tháng sống thiếu vệ sinh trong ngục tù Cộng sản. Cả nhà hy vọng với tuổi già yếu và gốc gác miền Nam, ông có thể sớm được thả. Anh Vũ đã vượt biên tới Mã Lai. Chị Thu và chồng đang ở Hawaii. Anh Tôn, chồng chị Thu có một người bạn Mỹ làm tại cơ quan US AID, hai người chân nhau từ khi còn ở Việt Nam. Anh bạn Mỹ này đã bảo lãnh cho hai vợ chồng chị Thu vào Honolulu, và hiện thời anh Tôn đang làm việc tại một văn phòng thương mại, còn chị Thu đang tiếp tục theo học Đại học Hawaii. Hà Minh cho chị biết nàng sẽ thu xếp công việc để bay sang gặp chị. Nàng cảm thấy phấn khỏi, mai này, anh Văn cũng sẽ từ Nhật tới đây, anh Vũ cũng sẽ tới Mỹ, cơ hội tái ngộ chỉ còn là thời gian; bốn anh chị em sẽ cùng lo cho cha mẹ để có ngày đoàn tụ. Tương lai, ôi, sẽ đẹp, sự trùng phùng với những người thân là điều Hà Minh quan tâm nhất trong cuộc đời.

Hawaii kia, Hawaii trên đảo Honolulu, nơi có những ngọn núi lửa tàn bạo phũ phàng mà tuyệt vời, nơi cát trắng, biển trong đẹp mơ mộng với màu của ráng trời, màu của cầu vồng, nơi ước ao của biết bao du khách đương trải dưới chân nàng khi Hà Minh nghiêng mình qua cửa sổ phi cơ đúng lúc cánh máy bay chao lượn tìm chỗ xuống phi trường. Hà Minh thở dài khoan khoái nghĩ tới giây phút gặp lại người chị thân yêu sau hơn bốn năm trời xa cách...

Vừa rời ống uốn dẫn đến phòng đợi, Hà Minh thấy ngay chị Hà Thu đang đứng với một người đàn ông, chắc chắn là anh Tôn, chồng chị. Hà Minh nhào vào vòng tay chị, bật khóc. Hà Thu cũng tức tưởi theo, hai chị em ôm chặt lấy nhau không thốt được một tiếng. Giây phút cảm động... cuối cùng, chính anh Tôn lên tiếng: “Thôi, chúng ta về nhà hai chị em tha hồ trò chuyện và để cô ấy nghỉ, ngồi trên máy bay sáu tiếng đồng hồ cũng mỏi mệt đấy!”

Hà Thu buông em ra: “Em có gầy đi!”

Hà Minh vui vẻ: “Em lo cho ba má quá, em lo cho cả chị và anh Vũ nữa, lo muốn chết luôn!” Nàng ngưng lại một chút, nhìn sang người đàn ông bên cạnh chị Thu: “Anh Tôn, phải không ạ? Lần đầu tiên được gặp anh, tiếc là em không có ở nhà để được biết anh sớm hơn, được làm dâu phụ cho đám cưới của anh chị”.

Anh Tôn có vẻ vui: “Tôi không ngờ Thu lại có cô em đẹp đến thế. Tôi không ngờ người đẹp lại nói năng lưu loát, lễ độ đến thế. Hà Thu cứ bảo cô ấy không biếc nói gì, xem ra không phải vậy”.

Hà Thu ôm lưng em gái, nói với chồng: “Gần bốn năm trời ở ngoại quốc một mình, cô ấy đương nhiên khôn ngoan, lanh lợi hơn ngày xưa”. Cả ba người cùng cười. Đây là giây phút sung sướng nhất của Hà Minh kể từ bốn năm qua.

Hà Minh nhìn chị âu yếm: “Sao chị tìm ra số điện thoại ở sở làm của em?”

Hà Thu nhanh nhẩu: “Tất cả nhờ ở anh Phương đấy, anh tìm ra chỗ Minh làm, anh biết địa chỉ nơi Minh ở nhưng anh không muốn làm phiền, anh không muốn Minh biết, anh dặn chị đừng để em bận tâm vì anh, Minh có hiểu không?”

Không, không, nàng không hiểu... nàng chỉ nghĩ anh Phương là một người thân tín đối với gia đình nàng, nàng nhìn anh như anh Văn, thế thôi. Mà có gì phải bận tâm? Anh Phương giữ kẽ quá, tốt thì cứ để nàng biết, nàng sẽ tìm cách tạ ơn thật sòng phẳng. Hà Minh nói ý tưởng này với chị, Hà Thu chỉ cười đưa mắt nhìn chồng.

Lần đầu tiên tới Hawaii lại có người thân kế bên, Hà Minh thấy cái gì cũng đẹp, cái gì cũng đáng yêu, nàng thật thà nói ý tưởng của mình cho vợ chồng Hà Thu nghe. Anh Tôn dí dỏm: “Thiên đàng hạ giới, quả không sai. Cảnh thơ mộng, lãng mạn, trữ tình; khí hậu làm con người trường thọ thêm mười năm, người hồn nhiên sống trong âm nhạc dặt dìu. Cô sang đây khéo có ngày thành gia thất ở đây”. Rồi anh ngâm nga:

“Hawaii dễ đến, khó về

Trai đi có vợ, gái về có con”

Trai đi có vợ, gái về có con”

Hai vợ chồng lại nhìn nhau, cười vang. Hà Minh không hiểu ra sao nhưng nàng cũng cười theo vì nàng đang vui.

Tiếng gõ cửa nhè nhẹ. Anh Tôn dợm đứng dậy, chị Thu đưa tay ngăn; “Minh ra mở cửa hộ anh chị, anh Tôn phụ em treo cho xong cái màn cửa trong phòng ăn đi”.

Cánh cửa mở rộng, một thanh niên tầm thước, mái tóc bồng bềnh cố nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt rám nắng, tay cầm một bó hồng nhung tươi thắm: “Cô Hà Minh, phải không ạ?! Tôi là Hoàng Cầm, bạn anh Tôn”.

Hà Minh nhỏ nhẹ: “Hân hạnh! Xin mời anh vào!” Nàng nhường bước cho khách. Khách lịch sự giơ tay mời nàng đi trước, thong thả theo sau.

Chị Thu vội vã chạy ra, đon đã: “Anh Cầm! Chúng tôi đương chờ anh đây!” Rồi quay sang Minh, chị nói với khách: “Cô em tôi đây. Chắc hai người biết nhau rồi”.

Hà Minh ngạc nhiên, lúng túng: “Thưa, đây là lần thứ nhất em gặp anh Cầm. Anh ấy vừa tự giới thiệu!”

Hoàng Cầm nhìn nàng, cái nhìn trìu mến, đầy ý nghĩa: “Vâng, chị Thu ạ. Đầy là lần thứ nhất chúng tôi được gặp nhau, nhưng qua những tấm hình trong cuốn album của chị thì tôi đã biết Hà Minh từ lâu rồi, và cũng đã từ lâu, tôi nóng lòng muốn gặp. Hôm nay thật có cơ duyên”.

Anh chàng này nói khéo quá, Hà Minh thầm nghĩ. Nàng nhìn thẳng vào mắt chàng. Cũng lại ánh mắt si mê đắm đuối của đàn ông, nhưng có cái gì lịch sự có cái gì chân thành. Thốt nhiên, nàng có cảm tình với người đàn ông mới tới, cảm tình rất nhẹ, cảm tình cho một người đáng tín cẩn, thế thôi.

Anh Tôn ồn ào: “Bây giờ ông vừa lòng rồi chứ? Người đẹp bên ngoài còn quyến rũ hơn trong hình, phải không?”

À, thì ra họ đã bàn với nhau, hẹn ngày gặp gỡ; thảo nào, nàng mới tới đây chiều hôm qua, hôm nay đã là ngày ra mắt anh chàng này. Hà Minh hơi thấy bực như bị xúc phạm. Nhìn vẻ mặt của em, Hà Thu hiểu ngay vội vã nói:

- Anh Cầm tuần nào cũng đến chơi với anh Tôn. Hai ông thân nhau như hình với bóng. Hôm nay chàng lại tìm ra một quán ăn ngon tại Waikiki Beach chứ gì? Minh là hên lắm đấy. Thế nào anh Cầm cũng đưa tụi mình đi đây đi đó trong thời gian em ở đây với anh chị. Hôm nay chắc chắn có một bữa ăn lạ miệng ngon lành!

- Thôi, chị ạ. Em mới đến, còn nhiều thời giờ đi chơi. Để em ở nhà nấu nướng vài món đợi anh chị về dùng. - Hà Minh tìm cớ thoái thác.

- Không, không được! - Hà Thu kêu lên - Em không mệt chứ gì? Ngày nào em còn ở đấy, ngày ấy em chơi vui với anh chị, chứ không phải chui vô bếp.

- Cô Hà Minh đừng làm khổ chúng tôi như cô đấ từng làm khổ biết bao người đấy nhé. - Anh Tôn phụ họa.

- Trời đẹp như thế này mà không đi thăm cảnh Honolulu thì thật uổng. Cô Hà Minh đến chơi đây thì phải tận hưởng cái đẹp ở đây. - Giọng ấm cúng của Hoàng Cầm nhẹ nhàng bên tai nàng.

Không còn cớ thoái thác, Hà Minh im lặng trong tiếng reo vui của mọi người.

Ánh mắt của Hoàng Cầm nhìn nàng đầy vẻ cám ơn trìu mến. Hà Minh quay đi tránh tia mắt chàng.

Những ngày ở Honolulu là những ngày thần tiên, những ngày nghỉ thực sự của Hà Minh, những ngày được chị Thu săn sóc lo lắng. Sự sung sướng đó như chuộc lại cái đen tối mà nàng đã trải qua, Cảnh Hawaii thật tuyệt vời. Hải đảo nào cũng có những bãi cát đẹp, nơi thì trắng muốt, nơi thì vàng óng, nơi thì đen tuyền. Bầu trời luôn luôn trong xanh với những cụm mây lơ lửng hữu tình. Vườn cây, ôi, thật là kỳ hoa dị thảo, màu của các sắc hoa vô cùng lộng lẫy, vô cùng thu hút. Rừng cây rậm rì xanh ngát với những gốc đại mộc quấn quít bởi những dây leo chằng chịt như chẳng thể rời nhau. Những cây cọ, cây dừa ngả nghiêng nổi bật dưới móng trời chói lọi. Những chùm hoa giấy đủ màu tranh vẻ lộng lẫy với những đóa dâm bụt vàng, hồng, đỏ, tím. Những rặng núi trùng trùng điệp điệp tiếp nối nhau ngút ngàn, chỗ âm u đen tối, chỗ tím buồn man mác, chỗ sáng sủa đầy cây tươi màu lục đậm... chỗ nào cũng lôi cuốn được con người nghệ sĩ nơi nàng. Tới đâu nàng cũng mang giấy vẽ và thuốc màu để ghi ngay cái đẹp tự nhiên của đất trời. Hoàng Cầm là một hướng dẫn viên thông thạo, nhờ anh, Hà Minh có được những bức tranh đúng ý, anh cũng tỏ ra yêu thích hội họa, anh rất chiều nàng, không bao giờ làm nàng phật lòng, anh giữ lễ độ và nói năng đứng đắn, nhưng nhìn ánh mắt anh, Hà Minh vẫn cảm thấy có cái gì anh muốn tỏ cùng nàng. Qua câu chuyện giữa vợ chồng anh Tôn và chị Thu, nàng biết Hoàng Cầm là con trai duy nhất của một gia đình danh gia thế phiệt người Bắc, cha mẹ anh hiện cư ngụ tại Honolulu sau ngày mất nước. Trước kia, cha anh là một vị Đại sứ tại Thụy Sĩ, anh chỉ có một người chị gái hiện cùng chồng con sinh sống tại Maryland. Nhà neo người nên anh lúc nào cũng kế cận bên cha mẹ, anh là người con chí hiếu. Ngay khi ông bà Hoàng Kỳ thân sinh anh còn ở Thụy Sĩ, anh đã được gửi sang du học tại Mỹ năm vừa tròn hai mươi tuổi. Bây giờ anh đã là một kỹ sư có chức phận, có nghề nghiệp vững chãi, anh vẫn còn độc thân, vẫn còn chung sống với cha mẹ. Bây giờ anh đã ngoài ba mươi tuổi, chắc anh kén vợ kỹ lưỡng; học thức, con nhà tăm tiếng, trông cũng khá bảnh trai, chắc hẳn anh bay bướm lắm. Đã mấy lần chị Hà Thu gợi chuyện về Hoàng Cầm với cô em gái, nhưng chị thấy Hà Minh quá lơ là, hơn thế nữa, Hà Minh cứ nghĩ là Hoàng Cầm đã có bồ bịch, phải làm sao chứ đã ngoài ba mươi mà vẫn kề cận bên cha mẹ thì cũng lạ! Hà Minh chỉ coi Hoàng Cầm như một người quen, một người bạn của anh chị mình nàng không hề để ý đến chàng, thói quen của nàng không nên để ý đến đàn ông. Biết tính em gái Hà Thu không nói nhiều, cũng không đả động gì đến Hoàng Cầm nữa.

Hai tuần lễ ở “thiên đàng hạ giới” làm Hà Minh trẻ trung, yêu đời hẳn. Nàng bịn rịn không muốn chia tay chị tại phi trường. Hai chị em ôm nhau trong nước mắt, anh Tôn đứng thộn ra, không nói năng gì, chỉ Hoàng Cầm thốt một câu chân tình: “Hà Minh nên về ở hẳn Hawaii cho vui!” Nàng cũng nghĩ thế, nhưng làm sao được!

Trở lại California lần này Hà Minh yêu đời hơn; nàng đã liên lạc được với vợ chồng chị Thu, với anh Văn. Anh Vũ cũng đã đến Mã Lai, chỉ còn tìm cách đưa cha mẹ thoát khỏi Việt Nam là nàng toại nguyện. Nàng cũng vừa xong luận án Cao Học, công việc làm cũng đâu vào đấy, chỉ còn chờ thời gian vào quốc tịch Mỹ... Ôi? Thời gian sao quá lâu!

Đã ba tháng trôi qua, cứ cách một tuần, hai chị em Hà Minh lại trò chuyên với nhau qua đường dây điện thoại. Lần đầu, Hà Thu chỉ kể chuyện gia đình nhắc nhở những kỷ niệm ấu thơ giữa hai chị em, nhưng dần dần, tên Hoàng Cầm càng lúc càng được nhắc tới nhiều, Hà Thu khen ngợi anh ta nào đứng đắn, nào có địa vị, có cơ sở vững vàng, nào hiếu đễ, nào chịu khó nào có tinh thần trách nhiệm... và lần này, chị Thu cho biết vừa nhận được tin nhà, ông Phước đã ra khỏi trại giam, ông rất yếu, ông bà chỉ còn trông chờ các con bảo lãnh rời nước càng sớm càng tốt, bà Phước đã năn nỉ chị Thu tìm nơi chốn cho Hà Minh yên bề gia thất, đó là tâm nguyện của mẹ hiền. Hà Thu đề nghị em gái nhận lời cầu hôn của Hoàng Cầm vừa làm yên lòng mẹ cha, vừa sớm vào công dân Mỹ để bảo lãnh cho gia đình vì Hoàng Cầm đã có quốc tịch. Hà Minh yên lặng không trả lời chị, nàng chưa muốn lấy chồng, nàng còn muốn sống với gia đình, muốn phụng dưỡng song thân, hơn thế nữa nàng chỉ coi Hoàng Cầm như một người thân, nàng chưa bao giờ nhớ nhung chàng kể từ ngày gặp gỡ, Hoàng Cầm cũng như các người bạn của anh Văn, anh Vũ, cũng như anh Phương thôi. Nhưng, nếu không nhận lời cầu hôn của chàng thì làm sao ông bà Phước sớm đặt chân lên xứ Hoa Kỳ, làm sao gia đình đoàn tụ? Thật ra, không thiếu gì chàng trai theo đuổi Hà Minh, người Việt cũng như người Mỹ, nhưng làm sao tin cậy họ được? Dù gì, Hoàng Cầm cũng là bạn thân của anh Tôn, đã được chị Hà Thu đoan quyết là một người chồng lý tưởng, chàng học thức, có danh vọng, con nhà lễ giáo, chàng bảnh trai và yêu Hà Minh tha thiết từ phứt đầu gặp gỡ; dù gì nàng cũng không đến nỗi muốn trốn tránh chàng như những người đàn ông khác. Sau khi trò chuyện với chị, nhận lời cầu hôn, nàng suy nghĩ suốt đêm về dự tính tương lai, về cuộc sống mới với Hoàng Cầm.

Đám cưới được tổ chức vào ngày Mồng Một Tết, một đám cưới rầm rộ, linh đình với sự hiện diện của tất cả tai mắt Việt-Mỹ tại Oahu. Gia đình Hoàng Cầm quen biết nhiều vì thân sinh ra anh, ông Hoàng Kỳ đã lâu năm trong ngành ngoại giao; hầu như tất cả người Việt có máu mặt sinh sống tại Hawaii đều hiện diện trong ngày cưới. Chính bản thân chú rể Hoàng Cầm rất quảng giao trong giới trí thức Mỹ tại “thiên đàng hạ giới” này vì anh là Phó giám đốc một cơ sở chế tạo đường mía lớn vào bậc nhất nhì tại Hawaii. Đám cưới sẽ cử hành trọng thể tại Royal Hawaiian Hotel một khách sạn xây cất theo kiểu cổ nhưng sang trọng một cách cầu kỳ vào bực nhất Oahu ngay trên bãi Waikiki nhìn ra biển khơi. Gia đình Hoàng Cầm và chính bản thân chú rể muốn thế, chàng nói với nàng là chàng muốn cho thiên hạ biết chàng hãnh diện cưới được một người con gái nết na do chính chàng chọn lựa. Hà Minh không có ý kiến, vợ chồng anh Tôn cũng không nói năng gì. Áo cưới nàng đã may sẵn từ khi còn ở Cali, nhưng tới gần ngày cưới, bà Hoàng Kỳ gọi nàng đến, đưa cho cô con dâu tương lai một tấm áo màu son đỏ đã cũ, bà nói như ra lệnh: “Tôi muốn cô mặc tấm áo khoác này ngày hôm đó vì áo này tôi đã phủ lên người vào hôm cưới của chính tôi. Cô mặc áo này để lấy hên!” Hà Minh nhận tấm áo mà lòng buồn rầu. Dù gì nàng cũng còn son trẻ, dù gì nàng cũng như bao cô dâu khác mơ ước một tấm áo cưới hợp thời trang vừa khít với tầm vóc nàng chứ đâu rộng lùng thùng, bạc màu như áo bà mẹ chồng tương lai đưa cho. Nhưng nàng cũng phải chịu thôi. Chính Hoàng Cầm cũng lơ đi, anh muốn làm vui lòng mẹ. Hôn lễ sẽ được làm phép tại một ngôi chùa Nhật Bản không xa Royal Hawaiian Hotel vì hai bên gia đình đều theo Phật Giáo, mà trong thời gian đó chưa có chùa Việt tại Hawaii. Những nghi thức thật đầy đủ của một hôn nhân trong vòng lễ giáo, của một đám cưới cho những danh gia vọng tộc. Tất cả là do sự sắp đặt bên đằng trai, Hà Minh chỉ biết tuân theo. Nàng mong mỏi anh Văn từ Nhật sang thay mặt cho cha mẹ nàng trong dịp trọng đại này mà cũng là để nàng đỡ thấy thiếu thốn cô đơn. Hà Minh chờ đợi ngày quan trọng nhất đời nàng với một cảm giác bồn chồn lo lắng, không mấy vui, chắc nàng thương nhớ ông bà Phước còn ở lại đất nước nghìn trùng xa cách. Ngày hăm ba tháng Chạp, hai chị em Hà Minh đi đón anh Văn tại phi trường, mừng mừng tủi tủi, ba anh em ôm nhau khóc ròng. Hà Minh còn được ít ngày vui vầy cùng anh chị như những năm xưa... thuở nàng còn nhỏ... ôi, đáng yêu thay những ngày cuối của cuộc đời con gái!

Đúng mười hai giờ trưa ngày mùng một, cả một dãy xe hơi bóng loáng đậu trước cửa căn nhà vợ chồng Hà Thu. Cả tràng pháo dài hơn ba thước màu hồng đào tóe ra những tia lửa đỏ vui mắt, tiếng pháo nổ ran làm nhiều người hiếu kỳ đổ ra ngoài phố. Nhà trai đã tới! Một đoàn người, đi đầu là một cụ già áo thụng xanh râu tóc bạc phơ đi cùng với ông bà Hoàng Kỳ; kế tiếp là những cậu trai trẻ, những cô gái thanh xuân bưng những mâm quả đựng trầu cau, bánh trái, mứt rượu, sau cùng là chú rể và hai phù rể.

Cánh cửa mở rộng để đón họ nhà trai. Anh Văn thay mặt cho đằng gái ra tận cửa để tiếp rước ông bà Hoàng Kỳ. Hà Minh và anh chị Tôn đứng trong nhà chờ đợi, Hà Minh thấy anh Văn khom mình cúi chào bố mẹ chồng tương lai của cô em gái một cách rất cung kính, nhưng nàng đau lòng biết bao khi thấy ông Kỳ chỉ hất hàm và bà Kỳ mặt lạnh như tiền làm như không thấy sự hiện diện của anh Văn, chỉ có anh Cầm niềm nở bắt tay ông anh vợ. Hoàng Cầm mặt sáng như gương, sung sướng nhìn cô dâu, chàng không nói nhưng ánh mắt của chàng cho Hà Minh biết hôm nay nàng lộng lẫy vô cùng. Nàng còn nghe tiếng kháo nhỏ to của mấy cô em họ anh Cầm khen “Cô dâu đẹp quá!” Hà Minh ra cúi chào cha mẹ chồng. Anh Tôn xin phép cho cô dâu chú rể ra lạy tạ, nhưng rất may, Hà Minh nghĩ vậy, ông bà Kỳ nhạt nhẽo xua tay từ chối. Bà mẹ chồng liếc cô con dâu tương lai một cách thờ ơ, trịch thượng: “Tôi có mấy món nữ trang cho mợ. Tôi tuy không có cái may được kén vợ cho con trai, nhưng con tôi hạnh phúc là tôi cũng mãn nguyện, mợ nhớ đấy nhé!”. Hà Minh lạnh người vì câu nói của mẹ chồng, nước mắt nàng cứ chực ứa ra, nhưng nhìn ánh mắt van xin của chị Thu, ánh mắt khuyến khích của anh Văn, và ánh mắt chân thành của chính anh Cầm, nàng gượng cười, lễ phép, nhẹ nhàng thưa gửi. Bà Kỳ có vẻ hài lòng, trao của hồi môn cho nàng xong, bà lại hỏi: “Áo cưới tôi đưa mợ sao không khoác vào? Đến chùa làm lễ là phải mặc áo vào đấy!” Hà Minh chỉ còn biết vâng dạ mà lòng như bào muối, hồn nàng gửi tận đâu đâu... “hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa”... nàng nhớ tới cha mẹ một cách xót xa, da diết... Giá có cha mẹ ở đây lúc này, gia đình nàng đỡ bị bên nhà chồng coi thường, anh chị nàng phận dưới, dám nói năng gì!

Tiếng tụng kinh đều đều của các vị thiền sư làm Hà Minh tỉnh táo, nàng tĩnh tâm dần dần, dù gì nàng cũng đã hứa hôn, dù gì hôn lễ đang cử hành trang trọng, nàng không có lý do gì để rút lui, nàng đã nhận lời, nàng phải vui vẻ. Nhìn những tượng Phật bất động nhuốm đầy sắc từ bi, nhìn những vị sư nét mặt thanh thản, Hà Minh thấy lòng mình lắng dịu, nàng sẵn sàng đối phó với những khó khăn sắp tới trong cuộc đời mới, cuộc đời làm vợ đầy bổn phận của một gia đình nặng lòng với đạo Khổng. Nàng chấp nhận những thử thách đang chờ đợi, nàng sẽ vượt qua, nàng sẽ làm những người chung quanh hài lòng, cứ chân thành hành động theo đúng cung cách một người vợ hiền dâu thảo trong xã hội phong kiến Việt Nam, nàng sẽ thành công. Cuộc sống nào mà chẳng đầy chông gai đầy thử thách. Hãy nhìn đến khía cạnh đẹp của nó, đừng sợ, đừng chùn bước, một lối rẽ mới vạch ra cứ thế mà đi như nàng đã từng toan tính những bước đi trong cuộc đời. Cuộc đời không còn chỉ cho riêng nàng mà còn cho người hôn phối. Hoàng Cầm có hạnh phúc là nàng có hạnh phúc. Hãy cứ nghĩ đến bổn phận và chu toàn bổn phận là thấy hạnh phúc từ đây. Hà Minh tươi dần nét mặt và quay nhìn Hoàng Cầm cảm thông.

Dạ tiệc tại nhà hàng Royal Hawaiian Hotel thật linh đình... Hoa vùng nhiệt đới đủ loại rực rỡ kết thành vòm ngay từ cổng vào. Ánh nắng chiều vẫn chói lọi trên những cụm hoa đỏ thẫm, vàng rực tượng trưng cho sự thịnh vượng và sự thương yêu nồng nhiệt. Hà Minh tươi đẹp diễm lệ trong áo dài cưới màu nước biển mát dịu. Cặp mắt to đen u uẩn hơn ngày thường vì điểm vài hạt lệ chưa ráo được tô đậm thêm nổi như một bầu trời khuya lấp lánh những vì sao. Hà Minh cố tươi tỉnh, đôi môi hồng hạnh mỗi khi nhếch lên thật dịu dàng thu hút, mái tóc huyền bỏ xõa trên đôi vai trắng nuột nà quyến rũ bao cặp mắt của quan khách trong buổi dạ tiệc. Ai cũng khen cô dâu lộng lẫy quá, não nùng quá. Hoàng Cầm sung sướng đến tột độ, tiếp đón khách mà anh vẫn không ngừng trông lén Hà Minh. Dạ tiệc sang trọng với những món ăn theo kiểu Ý, rượu ngon hạng nhất được đưa ra, tiếp tân chu đáo lịch sự. Đó là ý nguyện của Hoàng Cầm, anh muốn cái gì cũng toàn hảo cho một người vợ toàn hảo, anh muốn mọi người vùng này biết anh đã lấy được một người vợ xứng ý, anh muốn Hà Minh hiểu rõ điều này. Một đám cưới tốn kém hơn bình thường đâu có gì đáng kể. Nhưng anh quên mất một người thân yêu thứ hai trong đời là mẹ anh, bà Hoàng Kỳ không mấy hài lòng cái đám cưới xa xỉ này mà con trai đã qua mắt bà kén vợ, hơn thế nữa con dâu bà không choàng áo thụng đỏ trong ngày cưới như ý bà.

Ngày nào hai vợ chồng cũng đến thăm ông bà Hoàng Kỳ dù Cầm đã quyết định dọn ra riêng; chàng sợ sẽ có những đụng phạm giữa mẹ chồng nàng dâu, chàng muốn tránh cho vợ những bẽ bàng. Bà mẹ tuy không bằng lòng nhưng bà vẫn ngọt nhạt, găng quá sợ mất con, thôi thì ngày nào chúng cũng đến thăm, ngày nào con dâu bà cũng phải bếp nước hầu hạ, tắm rửa cho bà cũng đủ. Kể ra thì con bé rất ngoan, lễ độ, nhưng sao bà vẫn không thể ưa, vì nó quá đẹp khiến con trai bà mê như điếu đổ, vì nó quá ngoan khiến bà khó tìm ra lỗi lầm để trách cứ, vì nó không phải do bà lựa chọn, vì nó học thức cao mà cứ nhún nhường hay chính vì nó là người Nam, nó là người đã đánh bạt cô con gái Bắc, người mà bà muốn lấy làm dâu nhà bà người đã bị Hà Minh gạt ra khỏi trái tim thằng con trai si tình của bà!? Càng nghĩ bà càng cảm thấy ức lòng nhất là mỗi lần gặp Thu Anh cô con dâu hụt thủ thỉ giọng Bắc bà vẫn thấy tiếc.

Ngày nào hai vợ chồng đến thăm, bà cũng lôi con dâu ra ngắm nghía, giơ tay sờ bụng, bà muốn có cháu ông bà cũng gần bảy mưdi, đã có bốn đứa cháu ngoại nhưng chúng ở xa, bà muốn có cháu đích tôn mang dòng họ nhà. Hà Minh hiểu ý mẹ chồng nên dù thâm tâm chưa muốn có con nàng vẫn cố gắng, vẫn cầu xin Trời Phật cho nàng một đứa con trai đầu lòng để chồng và nhất là bố mẹ chồng hả dạ. May mắn thay hơn một năm sau, Hà Minh cho ra đời một cậu con trai xinh xắn, khỏe mạnh, bụ bẫm đáng yêu. Bà nội thích nó lắm, chỉ chê thằng cháu đích tôn giống mẹ con trai gì mà mắt huyền mơ màng, lông mi dài dài cong cong như con gái. Hà Minh lại cố thêm một đứa nữa mặc dầu sinh hạ khó khăn, lần nào cũng phải mổ. Nàng vẫn thèm một đứa con gái nhưng nàng vẫn mong có thêm một cậu con trai giống gia đình bên chồng vì nếu lại giống nàng sợ bà nội phiền lòng. May cho nàng lần này thằng bé thứ hai ra đời bự con còn hơn thằng đầu và nó có nét mặt bầu bĩnh, giống Đại Hàn của bà nội. Lần này bà nội hả hê, bà bảo cho phép nàng sinh thêm con gái, nhưng nàng quá yếu sau hai lần mổ, nàng phải ngưng sinh đẻ. Bận bịu vì hai đứa bé, bận đi làm, bận lo cơm nước cho chồng, nàng vẫn không xao nhãng hầu hạ bố mẹ chồng. Có lần tắm gội cho bà cụ, bà hẩy tay nàng, dằn dỗi: “Tao chỉ muốn con gái tao nó hầu tao thôi. Khác máu, tanh lòng mà cũng bầy đặt!” Hà Minh điếng người vì câu nói vô tình đó. Nàng đã cố hết mình cho chồng, cho bố mẹ chồng, nàng còn biết làm sao khi thực tâm, mẹ chồng nàng không bao giờ có thể thương yêu nàng như một người con, nàng chỉ là dâu do Hoàng Cầm lựa ngoài ý muốn của mẹ chàng.

Sau lễ cưới, Hà Minh mới biết chồng đã có vị hôn thê do gia đình hỏi trước khi gặp nàng nhưng có lẽ hai người không hợp, mà cũng có lẽ Hoàng Cầm quá say mê nàng nên đã quyết định từ hôn Thu Anh. Bây giờ Hà Minh mới hiểu tại sao nàng không được mẹ chồng chấp thuận. Hơn thế nữa, Hoàng Cầm đã quyết định mua nhà ra ở riêng sau khi lập gia đình trong khi bà mẹ chỉ muốn con kề cận bên mình mãi mãi, bà chỉ có một cậu con trai duy nhất mà nó bỏ ông bà đi ở chỗ khác vì vợ thì thử hỏi bà thương yêu Hà Minh sao được? Nếu Hoàng Cầm lấy Thu Anh chắc chắn chàng vẫn còn trong vòng tay bà. Biết những nguyên cớ mà mẹ chồng chất chứa trong lòng, Hà Minh tìm mọi cách làm vừa lòng bà; không một ngày giỗ kỵ nào mà nàng không đứng đầu bếp, không một ý thích nào của mẹ chồng mà nàng không tìm hiểu rào đón cho bà thỏa lòng. Nhưng nàng càng cố gắng làm vừa ý mẹ chồng thì bà càng bực, càng không vừa ý! Những người quen, kẻ thuộc, và ngay chính họ hàng bên gia đình chồng đều phải thán phục vì sự chí tâm của nàng. Hoàng Cầm hiểu điều này hơn ai hết, nhưng chàng vẫn mang nặng mặc cảm cưỡng lại ý nguyện của cha mẹ là không chung sống cùng một mái nhà như song thân mơ ước, chàng vẫn mang nặng mặc cảm đã không chọn người hôn phối hợp lòng mẹ nên không bao giờ chàng nói năng gì dù một tiếng nhỏ để xoa dịu những bực bội của mẹ đối với vợ; nhiều lúc chàng còn nói trước mặt Hà Minh với nhiều người là vợ có thể bỏ chứ cha mẹ không bao giờ có thể xa rời. Hà Minh nghe mà đau lòng, nàng biết chàng không có ý làm nàng buồn nhưng rõ ra là chàng chịu ảnh hưởng của gia đình tôn trọng lễ giáo thời cổ, lấy vợ là thiên chức của người con chí hiếu để nối dõi gia tông, lấy vợ là để người đàn bà đảm đang quán xuyến bên gia đình nhà chồng cho mát mặt với dòng họ dù chàng thực tâm thương yêu vợ, nhưng đó chỉ là thứ yếu. Thời gian đầu mới về nhà chồng Hà Minh cảm thấy ngột ngạt khó thở, cảm thấy như mình chỉ là một công cụ của dòng họ Hoàng, nàng cảm thấy bị gò ép bó buộc trong nhiều khuôn phép mà nàng chưa hề biết, chưa từng được ông bà Phước rèn luyện, những lễ giáo đặc thù của những gia đình quan cách, trưởng giả miền Bắc, nàng cảm thấy xót xa cho thân phận, nàng cảm thấy một chút gì tiếc nuối... nếu như nàng không nhận lời cầu hôn