Chương 2 Bút ký của-Harry Haller
Chương 2
bút ký của
harry haller
ành riêng cho những
Người điên
Ngày hôm nay đã trôi qua, như mọi ngày vẫn trôi qua; tôi đã kết liễu nó, đã nhẹ nhàng thủ tiêu nó bằng nghệ thuật sống tạm bợ và nhút nhát của tôi; tôi đã làm việc được vài giờ, tra cứu những quyển sách cổ; tôi bị một cơn đau hành hạ suốt hai tiếng đồng hồ, giống như những người luống tuổi vẫn phải chịu đựng thôi; tôi uống tí thuốc bột và mừng rõ vì đã đánh lừa được cơn đau, rồi đầm mình trong bồn nước nóng, để hơi ấm dễ chịu thấm vào người. Ba lần tôi ra nhận thư và đọc lướt qua mọi thư từ cùng ấn phẩm chẳng quan trọng này, sau đó luyện cách hô hấp, nhưng lười biếng nên hôm nay bỏ những bài tập về tư duy; tôi đã đi dạo một giờ, ngắm nhìn trên bầu trời hình dáng những áng mây tơ đẹp đẽ, mỏng mảnh, hiếm khi xuất hiện. Rất thú vị, giống như việc đọc những quyển sách cổ, như nằm trong bồn nước ấm, nhưng nói chung đó không hẳn là một ngày tuyệt vời, cũng chẳng được là một ngày chan hòa hạnh phúc và phới phới niềm vui, mà chỉ là một trong những ngày bình thường và quen thuộc với tôi từ lâu nay: những ngày thoải mái vừa phải, chịu đựng được, nhì nhằng, những ngày nhạt nhẽo của một kẻ luống tuổi bất đắc chí, những ngày tôi không bị đau nhức gì ghê gớm, không lo âu gì đặc biệt, không phiền não gì thật sự, không tuyệt vọng, những ngày mà ngay cả câu hỏi phải chăng đã đến lúc noi gương Adallbert Stifter (1) tử nạn trong lúc cạo râu, có thể được đem ra cân nhắc một cách khách quan và bình thản không chút căng thẳng sợ hãi.
Ai đã từng nếm trải những ngày khác, những ngày bị thảm với những cơn đau do chứng thống phong hoặc chứng nhức đầu tồi tệ bám rễ sau tròng mắt, như thế bị phù thủy quyệt trù ếm, khiến mọi hoạt động của mắt và tai bị biến từ niềm vui được nghe và được thấy thành cownd dau vò xe, hoặc những ngày tâm hồn lịm chết, những ngày khốn khổ tâm tư trống rỗng và tuyệt vọng, những ngày mà ngay trên Trái Đất bị hủy hoại và khai thác cạn kiệt bởi các hiệp hội cổ phần, chúng ta bị thế giới của con người cùng cái gọi là nền văn minh nham nhở ngạo nghễ cười nhạo báng và dai dẳng đeo đuổi trong cái vẻ hào nhoáng lọc lừa, đê tiện lẫn vô liêm sỉ kiểu chợ phiên của chúng, chẳng khác thứ thuốc dùng gây ói mửa, tập trung và thúc đẩy tới cai độ khiến Cái Tôi bệnh hoạn hết chịu đựng nổi – ai đã từng nếm trải những ngày địa ngục ấy sẽ rất hài lòng với những ngày bình thường hoặc làng nhàng không sự cố như ngày hôm nay; y sẽ ngồi bên lò sưởi ấm áp với lòng biết ơn, y sẽ đọc tờ báo buổi sáng và ghi nhận cũng với lòng biết ơn rằng thêm một ngày đã qua mà vẫn chưa nổ ra cuộc chiến tranh mới nào, không xuất hiện thêm một chế độ độc tài nào, không có thêm vụ những lạm trắng trợn nào trong chính trường và kinh tế bị phanh phui; y sẽ biết ơn nắn dây cây đàn thất huyền gỉ sét của mình tấu một bài thánh vịnh hòa nhã, âm hưởng nghe có phần hoan hỉ thú vị; với tấu khúc này y làm cho vị thần Toại nguyện nửa dơi nửa chuột – vốn trầm lặng, hòa nhã, thường khật khừ do tác dụng của thứ thuốc có chất Brom – đâm ra ngán ngẩm, và trong bầu không khí đậm đặc nhàm chán làm y hài lòng ấy, trong tình trạng không bị cơn đau nào hành hạ làm y thấy vô cùng biết ơn ấy, cả hai – vị thần nửa dơi nửa chuột ngủ gật nom phát chán và gã người nủa dơi nửa chuột tóc hoa râm ngân nga bài thánh vịnh – trông y hệt như anh em sinh đôi.
Quả là một điều tuyệt vời khi tâm hồn thư thái, cơ thể không đau đớn, với những ngày ngoan ngoãn dễ chịu này, khi chẳng cơn đau hay dục vọng nào dám lên tiếng kêu ca, mà tất cả chỉ thoảng qua như lời thì thào, như bước chân rón rén. Chỉ tiếc rằng tôi lại không chịu nổi chính tâm trạng hài lòng này, khiến ít lâu sau tôi đâm ra thù ghét lẫn kinh tởm nó thậm tệ và tôi phải tuyệt vọng chạy trốn vào những nhiệt độ khác, bằng cách đi tìm khoái cảm, và nếu cần, đi tìm cả cảm giác đớn đau. Cứ ít lâu sau khi phải sống thiếu vắng cảm giác hoạn lạc hay đau đớn, phải chịu đựng hít thở không khí vô vị nhạt nhẽo của những ngày gọi là tốt đẹp ấy, tôi liềm cảm thấy đau đớn và khốn khổ trong tâm hồn mãi còn thơ dại của mình, đến nỗi cầm cây đàn han gỉ từng dùng tấu khúc tri ân quẳng vào gương mặt đắc ý của vị thần Toại nguyện nửa dơi nửa chuột còn ngái ngủ, vì tôi thấy thà nóng bỏng vì cơn đau quặn quái quỷ trong ruột gan còn hơn phải chịu đựng thứ nhiệt độ được điều hòa rất dễ chịu này. Thế rồi trong lòng tôi bừng bừng nỗi khao khát man dại những cảm giác mạnh, những chuyện giật gân, bừng bừng nỗi căm ghét nếp sống không sinh khí, nhạt nhẽo, khuôn phép, cằn cỗi này, và tiếp đó là cơn điên cuồng ham muốn đập phá tan hoang gì đấy, chẳng hạn một siêu thị, một ngôi giáo đường hoặc chính tôi, muốn làm những chuyện ngu xuẩn ngông cuồng, chẳng hạn giật phăng mái tóc giả của vài thần tượng đang được suy tôn, cung cấp cho dăm ba chú nhóc học sinh nổi loạn những tấm vé đi Hamburg mà chúng khao khát, dụ dỗ một cô bé hoặc vặn cổ vài kẻ đại diện cho thứ trật tự của thế giới trưởng giả. Vì điều tôi thù ghét, kinh tởm và nguyền rủa một cách sâu sắc nhất trong tất cả mọi thứ là: tâm trạng mãn nguyện này, thế chất này, cuộc sống tiện nghi thoải mái, thói lạc quan được duy trì của giới thị dân, việc chăm chút vun bồi để những gì xoàng xĩnh, bình thường, ở mức trung bình được phát triển tràn lan.
Tôi kết thúc cái ngày tầm thường tàm tạm này trong tâm trạng như thế khi bóng đêm vừa xuống. Tôi không kết thúc nó theo cách bình thường và thoải mái cho một người hứng chịu đôi chút khổ đau bằng cách chui tọt vào chiếc giường có sẵn túi chườm nước nóng như một thứ mồi đang chờ đợi, mà bằng cách chán ngán và ghê tởm trước kết quả nhỏ nhoi của cả một ngày lao tâm khổ tứ, bực bội xỏ giày, khoác măng tô, đi vào phố bóng đên và sương mù, tới quán Mũ Sắt uống thứ mà dân nhậu gọi là “một ly vang nhỏ” theo tập quán xưa.
Thế là tôi từ căn phòng trên gác xép bước xuống cầu thang, những bậc thang khó leo của cái thế giới xa lạ, những bậc thang được lau chùi sạch sẽ, hoàn toàn theo kiểu cách trưởng giả của một ngôi nhà gồm ba hộ trông bề thế, mà trên tầng sát mái là nơi ẩn dật của tôi. Tôi không rõ sao lại như thế, nhưng tôi, con sói thảo nguyên sống tha hương và là một con người cô độc, một kẻ thù ghét cái thế giới tiểu tư sản, lại sống trong những ngôi nhà của tầng lớp trưởng giả chính cống, đó là một thoái đa cảm thâm căn cố đế của tôi. Tôi không sống trong các lâu đài hoặc những ngôi nhà của lớp người cùng khổ, mà chỉ toàn trong những cái ổ tiểu tư sản rất mực đàng hoàng, rất mực nhàm chán, chăm chút không chê vào đâu được, nơi thoảng mùi dầu nhựa thông với chút xà phòng, và sẽ giật mình nếu lỡ để cửa sập quá mạnh vào ổ khóa hoặc đi giầy bẩn vào nhà. Hiển nhiên tôi yêu bầu không khí này từ thời thơ ấu và nỗi khát khao thầm kín của tôi về thứ gì như thế quê hương toàn đưa đẩy tôi ngớ ngẩn tìm về những lối cũ đường xưa, không cưỡng lại được. Ấy, mà tôi cũng thích sự tương phản giữa cuộc sống của tôi – thiếu vắng tình cảm và căng thẳng nội tâm, một cuộc sống hoàn toàn vô trật tự - với cái môi trường trưởng giả và lấy gia đình làm trọng ấy. Tôi thích ngồi trên bậc thang hít thở cái mùi toát ra từ một thế giới yên ắng, ngăn nắp, sạch sẽ, tử tế và thuần tính; mặc dù tôi ghét sự trưởng giả, nhưng cái mùi này luôn phảng phất chút gì khiến tôi xúc động, và tôi thích sau đó bước qua ngưỡng cửa phòng mình, nơi không còn mọi thứ kia nữa, nơi những mẩu thuốc lá và những vỏ chai vang nằm lăn lóc giữa các chồng sách, nơi mọi thức đều bừa bộn, lạc lõng, không được ngó ngàng, và nơi mọi thứ - sách vở, bản thảo, những ý tưởng – đều ghi dấu và nói lên tâm trạng cùng quẫn của những kẻ cô đơn, về toàn bộ vấn đề đặt ra cho cuộc sống con người, niềm mong mỏi tìm được một ý nghĩa mới cho kiếp nhân sinh nay đã trở thành vô nghĩa.
Thế rồi tôi đi qua chỗ để cây bách tán. Nói cho chính xác thì nơi tầng một ngôi nhà này, cầu thang dẫn qua khoảnh hàng lang trước một căn hộ còn được lai chùi sạch sẽ hơn những căn hộ khác, chắc chắn thế, sạch sẽ hơn những căn hộ khác, chắc chắn thế, sạch sẽ không chê được, vì khoảnh hàng làn này toát lên một sự chăm chút phải nói là quá sức con người, nó là một ngôi đền nhỏ bé tỏa sách của sự ngăn nắp. Trên tấm sàn lát gỗ, mà người ta ngần ngại khi bước chân lên, có đặt hai cái bục xinh xinh, trên mỗi bục có một chậu cây to, một chậu đỗ quyên, chậu kia trồng cây bách tán khá lớn, non khỏe, cứng cáp, tuyệt vời hoàn hảo, ngay cả chiếc là hình kim cuối cùng trên cái cành cao nhất cũng ánh lên sự lau chùi thường xuyên. Đôi khi, biết không ai để ý, tôi vẫn dùng nơi này như mộ ngôi đền, tôi ngồi nghỉ chôc slats ở một bậc thang phía trên cây bách tán, chắp hai tay, trầm mặc nhìn xuống khoảnh vườn nhỏ của sự ngăn nắp được chăm chút đến mức làm nao lòng và khôi hài hiếm thấy khiến tâm hồn tôi chừng như xúc động. Tôi đoán rằng sua khoảnh hàng lang này, có thể gọi là trong bóng mát thiêng liêng của cây bách tán, có một căn hộ đầy bàn ghế bằng gỗ gụ sáng bóng và một nếp sống tử tế, mọi người biết chăm lo sức khỏe, dậy sớm, chu toàn bổn phận, những buổi họp mặt gia đình nhộn nhịp nhưng chừng mực, mỗi Chủ Nhật đều đi lễ nhà thờ và tối tối đi ngủ.
Làm ra vẻ tươi tỉnh, tôi bước đi trên mặt nhựa ẩm ướt của những con đường hẹp, những ngọn đền đường như ứa lệ và quấn khăn tang, phát ra những quần sáng nhòe nhoẹt xuyên qua làn không khí ẩm đục, lạnh lẽo, và hút vào thứ ánh sáng lờ đờ hắt lên từ mặt đường ướt át. Tôi chợt nhớ lại những năm tháng đã lãng quên thời trẻ - hồi ấy tôi từng yêu những buổi chiều ảm đạm và tối tăm vào cuối thui và suốt mùa đông như thế nào, tôi đã tham lam, mê mẩn thu hết vào tâm khảm toàn bộ ấn tượng về nỗi cô đơn và hội chứng u sầu, khi trùm chiếc măng tô, lang thang suốt nửa đêm, rảo bước qua vùng cây trụi lá trong mưa bão đầy đe dạo, ngày ấy tôi đã cô đơn rồi, nhưng lòng tột cùng thống khoái và trong đầy đầy những vần thơ, để rồi sau đó ngồi trên mép gường trong phòng mình, viết ra dưới ánh nến lung linh! Chà, chuyện ấy đã qua rồi, chén rượu kia đã uống cạn rồi và không có ai rót tiếp cho tôi nữa. Đáng tiếc chăng? Không đáng tiếc. Chẳng có lý do gì phải nuối tiếc những chuyện đã qua. Chỉ nên tiếc cho hiện tại và hôm nay, tiếc tất cả những giờ phút và tháng ngày tôi đã mất, nhiều vô kể; tôi mất vì phải trải qua những ngày giờ đó mà chẳng nhận thức điều gì mới hoặc không có sự cố nào làm tôi rung động tâm can. Nhưng đội ơn Chúa, cũng có những ngoại lệ; đôi khi, hiếm hoi thôi, có những giờ phút khác mang đến những rung động, mang đến những nhận thức mới, kéo sập những bức tường và đưa tôi, kẻ lạc đường, trở lại với trung tâm sinh động của thế gian. Buồn rầu nhưng trong tâm khảm tràn đầy khích lệ, tôi cố gắng nhớ lại biến cố cuối cùng thuộc loại này. Đó là tại một buổi hòa tấu, trình diễn loại âm nhạc cổ điển tuyệt vời, lúc ấy đang giữa hai nhịp của một nhạc khúc được các nhạc công sáo và kèn gỗ tấu lên nhẹ nhàng, thanh thoát, đột nhiên cánh cửa dẫn sang thế giới bên kia mở ra cho tôi, tôi bay lượn vòng khắp thiên đường và được mục kích Đức Chúa Trời đang làm công việc xây thế giới, tôi đau nỗi đau thần thánh và không chống cự lại gì nữa trên cõi nhân gian, không còn thấy sợ hãi điều gì nữa nơi trần thế, tôi đồng ý chấp nhận mọi chuyện, dâng hiến tim mình cho tất cả. Sự kiện này kéo dài không lâu, khoảng mười lăm phút thôi, nhưng đêm hôm ấy nó lại trở về trong giấc mơ, rồi từ đấy, vào những ngày lê thê, buồn tẻ, thỉnh thoảng tia sáng đó lại âm thầm lóe lên, đôi khi tôi thấy nó đi qua đời mình hàng phút rõ rệt như một dấu vết linh thiêng bằng vàng, hầu như luôn bị vùi sâu dưới bụi bặm và bùn nhơ, rồi lại lóe lên những tia óng ánh vàng, chừng như chẳng bao giờ tắt được, thế mà chỉ lát sau lại đã mất tăm. Có lần chuyện xảy ra giữa canh khuya, đang nằm thao thức chợt tôi thốt ra những vần thơ, nhưng vần thơ tuyệt hay và kỳ diệu, khiến tôi không dám nghĩ đến chuyện viết ra, sáng hôm sau tôi chẳng còn nhớ gì nữa, những thật ra chúng vẫn còn đâu đấy trong tôi như hạt hồ đào nặng trĩu nằm trong lớp vỏ khô giòn nứt nẻ. Lần khác tia sáng đến lúc tôi đang đọc một nhà thơ, đang suy ngẫm về một tư tưởng của Descartes, của Pascal (2), lần khác nữa nó lại tỏa sáng, rồi vạch một vệt bằng vàng lên trời cao, trong lúc tôi đang ở bênh cạnh người yêu dấu của mình. Chao ôi, thật khó tìm ra dấu tích thần thánh ấy ngay giữa thời đại mà con người sống quá mãn nguyện, qua ư trưởng giả, quá ư tẻ nhạt về mặt tinh thần này; ta cứ nhìn những kiểu kiến trúc, những cung cách làm ăn kinh doanh, những đường lối chính sách và những con người này thì thấy! Ngay giữa một thế giới mà không một mục tiêu nào của nó tôi chia sẻ được, không một niềm vui nào của nó phản ánh niềm vui của tôi, hỏi làm sao tôi không trở thành một con sói thảo nguyên, lỗ một kẻ ẩn cư thô lỗ được chứ. Tôi không thể nào ngồi lâu trong một nhà hát hay rạp chiếu phim, hầu như không đọc nổi một tờ báo nào, hiếm khi đọc một quyển sách thịnh hành, tôi không thể hiêu được người ra tìm hứng thú và niềm vui gì trong những toa xe lửa và khách sạn đầy nhóc, trong những quán cà phê đông nghẹt giữa tiếng nhạc ngột ngạt gây khó chiu, trong các quán rượu và ca vũ trường của những thành phố xa hoa, ở những cuộc triển lãm quốc tế, tại các đám rước, trong các buổi thuyết trình cho những kẻ ham học hỏi, trên các sân vận động lớn – tôi không thể hiểu và chia sẻ tất cả những thú vui mà cả nghìn người khác cố công đeo đuổi này, dù tôi có thể đạt được, nếu muốn. Ngược lại, những gì xảy đến với tôi trong những giờ phút hạnh phúc hiếm hoi, những gì làm tôi thây sung sướng, cho tôi kinh nghiệm sống thực, khiến tôi mê mẩn hay thấy mình thăng hoa, thì thế giới cùng lắm chỉ biết tới, tìm kiếm và yêu thích trong thi ca, còn trong đời sống họ xem đó là điên rồ. Quả thật, nếu thế giới này đúng, nếu thứ âm nhạc nọ trong các quán cà phê, những hội hè lễ lạc, những con người Mỹ hóa này – những kẻ không đòi hỏi gì ca xa – đúng, thì tôi sai, tôi điên, như thể tôi đúng là Sói Thảo Nguyên, như tôi thường tự xưng, một con vật lạc loài trong một thế giới xa lạ và khó hiểu, và nó không còn tìm thấy quê hương, khí trời và thứ ăn quen thuộc của nó.
Với những suy nghĩ quen thuộc này tôi tiếp tục rảo bước trên con đường ướt át, băng qua một trong những khu yên tĩnh và cổ kính nhất thành phố. Trong bóng tối phía đối diện, bên kia con đường hẹp, có một bức tường cổ bằng đá xám mà tôi luôn thích ngắm nghía. Nó luôn đứng đó, cổ kính và trơ trơ như thế đấy, xen giữa một ngôi giáo đường nhỏ và một bệnh viện đã có từ xưa. Ban ngày mắt tôi thường dừng thật lâu trên mặt tường nhám, không còn nhiều mặt bằng để trống, lặng lẽ, câm nín trong trung tâm phố, nơi cứ mỗi nửa mét vuông ta lại bị một cửa hàng, một luật sư, một nhà sáng chế, một thầy thuốc, một thợ hớt tóc hay một lang băm chuyên trị chai chân đập cái tên vào mắt. Cả lúc này tôi cũng lại thấy bức tường cổ thanh thản đứng đó, thế nhưng có điều gì đã thay đổi; tôi thấy một cái cổng nhỏ xinh xinh hình chóp nhọn ở giữa bức tường và tôi trở nên bối rối, vì quả thật tôi không còn rõ cái cổng ấy luôn có từ xưa hay mới được xây thêm. Chắc chắn no trông cũ kỹ rồi, cũ lắm, có lẽ từ nhiều thế kỷ trước cái cổng nhỏ với cánh cửa gỗ đóng im ỉm này dẫn vào sân trong im lìm ngủ quên của một tu việc nào đấy và bây giờ hẳn tôi đã thấy cái cổng này cả trăm lần rồi mà chẳng quan tâm đấy thôi, sở dĩ lần này tôi chú ý có lẽ vì nó vừa được sơn lại. Dẫu sao tôi đã dừng chân, chăm chú nhìn qua, chứ không bước sang bên đó, vì lòng đường lầy bùn và sũng nước. Tôi chỉ đứng tren vỉa hè, ngó qua thôi, lúc ấy đã tối lắm rồi và tôi thấy dường như quanh cổng có kết một vòng hoa hay thứ gì đó sặc sỡ. Và bây giờ, khi cố nhìn kỹ hơn, tôi thấy phía trên cổng một tấm biển màu sáng, dường như bên đó có hàng chữ viết. Tôi căng mắt và cuối cùng đã bước qua đường, mặc kệ bùn lầy nước đọng. Tôi thấy ở đó, trên nền xám xanh cổ kính của bức tường, phía trên cái cổng, một vệt sáng nhờ nhờ và bên trên vệt ấy chạy những chữ cái đủ màu, thoắt ẩn thoắt hiện. Hóa ra đúng là họ, tôi nghĩ thế, đã lạm dụng đến cả bức tường cổ hiền hòa này làm đèn hiệu quảng cáo! Trong lúc ấy tôi giải đoán vài ba trong số những từ thoáng hiện ra, chúng xuất hiện lúc nhanh lúc chậm, mờ tịt và chập chờn rồi tắt phụt rất mau nên thật khó đọc, cứ phải đoán mò. Người nào muốn kinh doanh kiểu này thật chẳng tài cán gì, hắn chỉ là một con sói thảo nguyên, một kẻ đáng thương hại, sao hắn lại chiếu những chữ nọ ở đây, lên bức tường này, trong cái ngõ tối tăm nhất khu phố cổ, vào giờ này, lúc trời mưa, tối tăm nhất khu phố cổ, vào giờ này, lúc trời mưa, nơi chẳng ai lai vãng và tại sao những chữ ấy lại lướt qua, biến nhanh, chập chờn và khó đọc đến thế? Nhưng khoan đã, bây giờ tôi đã nhận ra được nhiều chữ nối tiếp nhau rồi, chúng như thế này:
Hí viện ma thuật
Không phải ai muốn vào xem cũng được
- không phải cho mọi người
Tôi thử mở cổng, nhưng ấn hết sức mà cái tay nhấn cũ kỹ nặng nề vẫn không nhúc nhích. Dòng chữ thoắt ẩn thoắt hiện kia phụt tắt, nó chấm dứt đột ngột, buồn bã, như thể chợt nhận ra tiếp tục trò chơi này chỉ uổng công. Tôi lùi lại vài bước, lún sâu trong bùn, không thấy chữ nào nữa xuất hiện, trò chơi ấy đã kết thúc, tôi đứng trong sình lầy chờ thật lâu, song hoài công.
Nhưng kìa, khi tôi đã bỏ cuộc và quay lại vỉa hè thì vài ba chữ bằng ánh sáng màu mè chợt nhỏ giọt trên mặt đường nhựa bóng loáng trước mắt tôi.
Tôi đọc thấy:
Chỉ… dành cho… những… người điên!
Chân ướt, tôi lạnh cóng, tuy vậy tôi vẫn đứng chờ một lúc lâu nữa.Chẳng thấy gì thêm.Trong lúc tôi còn đứng ngẫm nghĩ rằng những chữ màu mỏng manh, lung linh sáng, lập lòe trên bức tường ướt át và trên mặt nhựa đen bóng thật đẹp biết bao, chợt một hình tượng trong mớ ý tưởng lúc nãy lại hiện ra: biểu tượng của vệt ngời sáng như vàng nọ, cái vệt sáng chợt đến chợt đi mất hút không thể tìm thấy nữa.
Tôi lạnh tái tê, tiếp tục bước đi, miên man nghĩ tới vệt sáng nọ, lòng đầy khắc khoải mong tìm ra cánh cổng dẫn vào cái hí viện ma thuật chỉ dành cho những người điên. Trong lúc ấy chân tôi đã bước vào bãi chợ, nơi không thiếu những trò tiêu khiển về đêm; cứ vài bước lại thấy một tấm bích chương hoặc biển quảng cáo: Ban nhạc nữ - Ca vũ trường – Rạp chiếu phim – Đêm khiêu vũ, nhưng những thứ này hoàn toàn không phải cho tôi, mà cho “tất cả mọi người”, cho những kẻ bình thường, những kẻ tôi thấy đang túm tụm chen qua các cửa vào ở khắp nơi. Tuy nhiên tôi cũng bớt buồn bã chút ít, vì một lời chào đến từ thế giới khác quả đã làm động lòng tôi, dăm ba chữ màu nhảy nhót và gây xôn xao trong tâm hồn tôi, chạm vào những sợi dây đàn ẩn kín lâu nay, và tôi được thấy dấu vết vàng kia lóe lên một lần nữa.
Tôi tìm đến quan rượt nhỏ, cũ kỹ, không chút đổi thay từ ngày đầu tiên tôi dừng chân tại thành phố này, ngót hai mươi lăm năm trước. Vẫn bà chủ cũ; trong số những thực khách ngày hôm nay có vài người đã từng ngồi đây từ thuở nọ, vẫn tại chỗ đó, trước cũng những cái ly ấy. Tôi bước vào cái quán tồi tàn, nơi ẩn dật của tôi. Tuy nó cũng chỉ là một nơi nương náu tương tự như trên bậc thang đặt cây bách tán, tuy ở đây tôi cũng không tìm thấy quê hương và cộng đồng, mà chỉ tìm được một chỗ yên tĩnh trong khán giả, trước một sân khấu cho những kẻ xa lạ diễn những màn lạ lẫm, nhưng chỉ riêng chỗ yên tĩnh này thôi cũng khá đáng giá rồi: không đông nghẹt người, không tiếng hò la, không tiếng nhạc, chỉ dăm ba thị dân bình thản ngồi tại mấy chiếc bàn gỗ đơn sơ (không cẩm thạch, không sắt tây tráng men, không vải nhung, không đồng thau!) trước mặt mỗi người là một ly rượu cho buổi tối – loại vang lâu năm có tên tuổi. Có lẽ dăm ba vị khách thân thiết của quán, mà tôi nhận ra được, thuộc hàng phàm phu tục tử thật sự và ở nhà họ, trong những căn hộ phàm phu, có những chiếc bàn thờ hiu quạnh đặt trước những tượng thàn Toại nguyện vớ vẩn nào đấy, có thể họ cũng là những kẻ cô đơn và đi chệch lối như tôi, những Lưu Linh trầm lặng đầy suy tư về những lý tưởng bị phá sản, họ có phải là sói thảo nguyên và là những kẻ đáng thương hay không, tôi chẳng rõ. Họ đến đây vì nhớ nhà, vì thất vọng, vì có nhu cầu tìm thứ gì khác, người có vợ tìm kiếm nơi đây bầu không khí thời độc thân, vị công chức già tìm âm hưởng những năm tháng thời sinh viên, hết thảy họ đều khá trầm lặng, hết thảy họ đều là dân nhậu giống như tôi, họ thích ngồi trước nửa lít vang Alsace hơn là trước ban nhạc nữ. Đây là nơi tôi thả neo, nơi tôi ngồi được một đến hai giờ đồng hồ. Vừa làm một ngụm Alsace, tôi đã nhận thấy ngày hôm nay tôi chưa ăn gì, ngoài bữa điểm tâm.
Thật quái lạ, sao con người ta lại có thể nuốt trôi đủ mọi thứ như thế nhỉ! Tôi đọc một tờ báo dễ đến mười phút, để cho tư tưởng của một kẻ vô trách nhiệm nào đấy thâm nhập vào tôi qua thị giác, hắn nhat nát lời người khác và nhồi nước bọt vào đó, rồi nhả ra chứ chưa kịp tiêu hóa. Đến phiên tôi ngấu nghiến hấp thụ lại, cả một cột báo dài. Rồi tôi chén một khoanh lớn gan xẻo từ bụng một con bê. Thật lạ lùng! Ngon nhất là rượu Alsace. Tôi vốn không chuộn rượt vang mạnh, những thứ đặc biệt lôi cuốn và hương vị độc đáo, nhất là vào bữa ăn hằng ngày. Thường tôi thích những loại vang thuần túy địa phương, nhẹ, không mang nhãn hiệu gì đặc biệt, có thể uống được nhiều, chúng thật ngon và mang hương vị của đồng quê, đất đai, bầu trời và cây cỏ quanh vùng. Một ly Alsace và một khúc bánh mì ngon, thế là tuyệt nhất trong mọi bữa ăn. Bấy giờ tôi đã xơi hết phần gan rồi, một sự thú vị đặc biệt vì tôi hiếm khi ăn thịt, trước mặt là một ly thứ hai. Đó cũng là một điều kỳ quái, vì đâu đấy trong những thung lũng xanh mơn mởn có những con người khỏe mạnh hiền lành trồng nho, ép thành rượu vang, để rồi đây đó trên thế giới, thật xa, đôi ba thị dân thất vọng và dăm con sói thảo nguyên nản chí có thể lặng lẽ uống, tìm chút can đảm và nhiệt tình từ những ly rượu của mình.
Quái lạ hay chăng, tôi chẳng quan tâm! Chủ yếu là nó ngon, có tác dụng, gây hứng thú. Nghĩ tới những lời nhai lại của bài báo tôi bật cười khuây khỏa và sực nhớ ra điệu nhạc nhẹ nhàng thanh thoát được những chiếc sáo và kèn gỗ trình tấu mà tôi đã quên khuấ; nó trào dâng trong tôi như một bong bóng xà phòng bé tẹo, sáng ngời, óng ánh, phản chiếu dưới dạng thu nhỏ toàn thế giới muôn màu, rồi nhẹ nhàng vỡ. Nếu điệu nhạc ngắn ngủi tuyệt vời nọ có thể âm thầm bám rễ trong tâm hồn tôi và một ngày kia những bông hoa diễm kiều của nó lại bừng nở với muôn sắc màu duyên dáng thì có thể nào tôi hoàn toàn vô vọng được chăng? Dù tôi chỉ là một con thú lạc đường không hiểu được thé giới chugn quanh thì cuộc sống khinh suất của tôi vẫn có ý nghĩa, có gì đó trong tôi đã lên tiếng trả lời, đã như chiếc máy thu nhận những lời kêu gọi từ những thế giới cao xa vòi vọi, đầu óc tôi chất chứa muôn nghìn hình ảnh.
Những đoàn thiên thần của Giotto (3) từ một vòm nhỏ màu thiên thanh của ngôi giáo đường ở thành phố Padua, đi cạnh họ là Ham ket và Ophelia(2) đầu đội vòng hoa, những biểu tượng tuyệt vời của mọi nỗi buồn và ngộ nhận trên thế gian, nhà lái khí cầu Gianozzo đang thổi tù và trong chiếc khí cầu cháy phừng phừng, Attila Schmelze(3) cầm chiếc mũ mới trong tay, còn Borobudur (4) tung hô lên trời những hình thù chạm khắc trùng trùng điệp điệp của nó. Cho dù mọi hình dáng xinh đẹp này sống trong cả nghìn trái tim khác thì vẫn còn cả vạn hình ảnh và giai điệu nữa không ai biết, ngoài tấm lòng tôi, chỉ mắt tôi thấy và tai tôi nghe được. Bức tường nhà thương cũ kỹ màu xanh xám, loang lổ, hư hao vì mưa nắng với những vệt nứt và vết phong hóa khiến ta có thể hình dung ra cả nghìn bức bích hoạ - ai đáp lại lời nó, ai mở rộng lòng chào đón nó, ai yêu quý nó, ai cảm nhận sức quyến rũ nơi những màu sắc đang âm thầm giãy chết của nó? Những quyển sách cổ với những tiểu họa màu sáng dịu của các tu sĩ và của các thi sĩ Đức trước đây hai trăm hoặc một trăm năm nay bị dân tộc học lãng quên, toàn những quyển đã cũ sờn và thâm sì, những bải in hoặc viết tay của các nhạc sĩ ngày trước, những tờ giấy bền chắc, ố vàng ghi nốt nhạc cùng những giấc mơ bằng thanh âm đã bị đông cứng của họ - ai nghe những tiếng nói thông minh, tinh quái và khát khao của họ, trái tim ai chở đầy những trí tuệ và sức lôi cuốn của họ xuyên qua một thời đại khác, xa lạ với họ? Ai còn nhờ đến cây bách nhỏ bé, dẻo dai tận đỉnh núi phía trên Gubbio (5), gãy toác vì đá lở mà vẫn bám chặt vào sự sống và trong cảnh quẫn bách đã nhú lên một ngọn mới lơ thơ? Ai công tâm với bà nội trợ ở tầng một và cây bách tán sạch bong của bà?
Đêm khuya, ai đọc những chữ như mây khói của làn sương mù la đà trên dòng song Rhin? Chính là Sói Thảo Nguyên. Và ai đã tìm trên đống hoang tàn của đời mình cái ý nghĩa xốn xang, chịu đựng điều tưởng chừng phi lý, sống kiếp dường như điên rồ và ai đã âm thầm hy vọng được mặc khải và gần với Chúa trong sự hỗn loạn ghê gớm cuối cùng?
Tôi úp tay lên cái ly để bà chủ quán khỏi rót thêm rồi đứng dậy. Tôi không cần rượu nữa. Cái vệt bằng vàng đã lóe lên rồi, tôi đã hồi tường tới vĩnh cữu, tơi sMozart, tới những vì sao. Tôi lại có thể thở hít được một giờ, có thể sống, được phép tồn tại, không phải chịu dằn vặt nữa, không phải sợ hãi hay hổ thẹn nữa.
Khi tôi bước ra khỏi quán, con đường đã trở nên vắng lặng, gió lạnh hắt những hạt mưa phùn lay phay quanh những ngọn đèn đường nghe xào xạc và ánh lên như thủy tinh. Bây giờ đi đâu? Nếu giờ đây có được một chiếc đũa thần, hẳn tôi sẽ làm hiện ra một sảnh đường nho nhỏ xinh xinh, kiểu của vua Louis XVI, để nghe dăm nhạc sĩ tài hoa trình diễn vài ba tác phẩm của Handel và Mozart. Tôi đang hứng thú và sẽ nhấm nháp thứ âm nhạc mát rượi và quý phái ấy như thần thánh thưởng thức rượu tiên. Chao ơi, giá lúc này tôi có được một người bạn, một người bạn đang trầm tư bên ánh nến trong một căn gác xép nào đấy, với chiếc vĩ cầm để bên cạnh! Tôi sẽ lẻn vào trong cõi đêm yên ắng của anh, sẽ leo êm như ru lên cầu thang uốn khúc, khiến anh ngạc nhiên, rồi chúng tôi sẽ trò chuyện và nghe nhạc, ăn mừng dăm ba giờ khuya khoắt siêu phàm! Trước kia, trong những năm qua, tôi thường được hưởng hạnh phúc này, nhưng theo thời gian nó cũng đã dần xa và rời hẳn khỏi tôi, giữa ngày ấy và bây giờ đã bap năm khô héo.
Tôi ngần ngừ đi về nhà, kéo cao cổ áo, thọc gậy trên mặt đường lát đá ướt át. Dù chậm bước đến đâu thì tôi cũng vẫn sẽ lại phải ngồi quá sớm trong căn gác xép, trong quê hương bé nhỏ giả tạ mà tôi không hề yên thương song cũng không thể thiếu, vì cái thời tôi có thể lang thang ngoài trời suốt một đêm đông mưa gió đã qua rồi. Lạy Chúa, tôi không muốn lòng mình chiều nay đang phơi phới bị gió mưa, bệnh thống phogn hay cây bách tán làm mất vui và dẫu không có được dàn nhạc thính phòng và không tìm được một người bạn cô đơn với chiếc vĩ cầm, gia điệu thanh nhã nọ vẫn vang trong lòng tôi và tôi có thể ngân nga khe khẽ trong lúc thở hít đúng nhịp, tựa hồ nó được trình diễn cho chính tôi. Tôi vừa đi vừa ngẫm nghĩ. Đúng vậy, không có nhạc thính phòng lẫn bạn bè thì đã sao và đúng là ngớ ngẩn khi mỏi mòn, nhưng bất lực, ngón tìm sự ấm cúng. Cô đơn chính là độc lập! Tôi đã từng ao ước và đạt được điều này trong bao năm ròng. Nó lạnh lẽo, đúng thế, những cũng trầm lặng, trầm lặng tuyệt vời và mênh mong như bầu không gian yên ắng, giá lạnh, nơi các tinh tú chuyển dịch.
Tôi đi ngang qua một vũ trường; tiếng nhạc Jazz dữ dội hắt vào tôi, nóng bỏng và sống sượng như làn hơi bốc lên từ thịt sống. Tôi dừng lại một lúc; dù ghê tởm loại nhạc này đến đâu, nó vẫn âm thầm quyến rũ tôi. Tôi ghét cay ghét đắng nhạc Jazz, nhưng vẫn thích nó gấp chục lần mọi thứ âm nhạc hàn lâm ngày nay; tính cuồng nhiệt sống sượng của nó chạm tới tận bản năng sâu thẳm trong tôi, toát ra một dục tính hồn nhiên và chân thật.
Tôi đứng hỉnh mũi đánh hơi thứ âm nhạc chói tai này, cáu kỉnh và thèm thuồng đoán trước bầu không khí trong những căn phòng ấy. Một nửa điệu nhạc, cái phần du dương, thì lâm ly, ngọt xớt, ủy mị đến chảy nước, nửa kia hoang dại, bất thường và mạnh liệt, tuy vậy cả hai nửa lại hợp với nhau thật hồn nhiên, hòa thành một tổng thế. Đó là thứ âm nhạc suy đồi, thời các hoàng đế La Mã cuối cùng hẳn cũng có thứ âm nhạc tương tự. Tất nhiên so với Bach, với Mozart và âm nhạc đích thực, nó chỉ là thứ nhăng cuộc – nhưng tất cả nghệ thuật của chúng ta, tư tưởng của chúng ta, văn hóa giả tạo của chúng ta đều như thế cả, nếu so sánh với nền văn hóa chân chính. Và thứ âm nhạc này có ưu điểm là rất chân thành kiểu người da đen, đáng mến, vui tươi hồn nhiên chứ không giả trá. Đối với người Âu chúng ta, thứ âm nhạc này mang nét gì đấy của người da đen và người Mỹ, mạnh bạo nhưng hồn nhiên và tươi mát tựa trẻ thơ đang lớn. Châu Âu sẽ thành như vậy chăng? Nó đang dần như thế rồi chăng? Chúng ta, những kẻ am tường và hâm mộ Châu Âu thuở trước, nền âm nhạc đích thực thuở trước, thơ ca đích thực thuở trước, chẳng lẽ chúng ta chỉ là một nhúm thiểu số ngu xuẩn gàn dở mắc bệnh loạn thần kinh phức tạp, mai đây sẽ bị lãng quên và nhạo báng? Phải chăng đó là thứ mà chúng ta gọi là “văn hóa”, trí tuệ, tinh thần và coi là đẹp, là thiêng liêng; phải chăng đó chỉ là một bóng ma đã chết từ lâu mà chỉ dăm kẻ ngớ ngẩn chúng ta vẫn còn coi là đích thực? Phải chăng nó không hề đích thực và sống động? Phải chăng những gì lũ ngớ ngẩn chúng ta ra công suy nghĩ, tìm tòi vốn luôn chỉ là một bóng ma?
Khu phố cổ tiếp nhận tôi, ngôi giáo đường nhỏ bé đứng tàn lụi và hư ảo trong khung cảnh màu xám. Đột nhiên tôi nhớ lại câu chuyện hồi chiều với cái cửa chóp nhọn bí ẩn, với tấm biển bí ẩn phía trên, với những chữ chiếu sáng nhảy múc giễu cợt. Hàng chữ ấy viết gì nhỉ? “Không phải ai muốn vào xem cũng được” và “Chỉ dành cho những người điên”. Để thẩm tra, tôi nhìn qua bức tường cổ, thầm mong màn ảo thuật nọ tái diễn với hàng chữ mời mọc tôi, một gã điên, và cánh cổng để tôi vào. Có thể điều tôi ước mơ đang ở trong đó, có thể trong đó đang trình diễn thứ âm nhạc của tôi?
Bức tường đá bình thản nhìn tôi, nó đen sẫm bóng chiều, khép kín, chìm đắm trong mơ. Chẳng thấy đâu một cái cổng, chẳng thấy đâu vòng chóp nhọn, chỉ bức tường tối đen, im lìm, không một kẽ hở. Tôi mìm cười tiếp tục bước đi, thân mật gật đầu chào bức tường. “Ngủ ngon, tường nhé, ta không đánh thức mi đâu. Sé đến lúc người ta giật sập mi hoặc dán lên mi những bảng hiệu tham lam của họ, nhưng tạm thời mi vẫn còn đó, mi vẫn đẹp, vẫn im ắng và ta ưa thích mi”.
Chợt tôi giật bắn người vì từ một ngõ đen ngòm có một người, một kẻ trở về nhà muộn màng và lẻ loi với bước chân mệt mỏi, nhô ra quan sát nách tôi; y đội mũ lưỡi trai, khoác áo choàng xanh, vác một thanh gỗ gắn bích chương, trước bụng quàng dây đai mang một chiếc hòm con để mở, giống những người bán hàng rong ở các chợ phiên. Y mệt mỏi bước qua trước mặt tôi, chẳng ngoái nhìn, bằng không tôi đã chào và mời y một điếu thuốc. Tôi cố thử đọc cái cờ hiệu của y, tấm bích chương đó gắn trên thanh gỗ, dưới ánh sáng ngọn đèn đường cạnh đấy, nhưng tấm bích chương cứ chao qua đảo lại nên tôi chẳng đọc được gì. Tôi liền gọi và yêu cầu y cho tôi xem. Y dừng bước, giữ thanh gỗ cho thẳng hơn, lúc ấy tôi có thể đọc được những chữ chao đảo nhảy múa:
Giải trí hỗn loạn buôi tối!
Hí viện ma thuật!
Không phải ai muốn vào xe…
“Tôi đang tìm ông đây” tôi thích thú kêu lên. “Buổi giải trí ban tối của ông như thế nào? Ở đâu? Bao giờ?”
Y đã bước đi rồi.
“Không phải ai muốn vào xem cũng được” y thờ ơ nó, giọng ngái ngủ và đi tiếp. Y chán rồi, muốn về nhà.
“Khoan đã”, tôi chạy theo gọi “Ông bán những gì thế? Tôi muốn mua chút ít”.
Không dừng lại, người đàn ông ấy máy móc thò tay vào hòm, rút ra một tập sách mỏng, chìa cho tôi. Tôi chụp ngay lấy, cất đi. Trong lúc tôi cởi cúc áo măng tô tìm tiền, y đã ngoặt vào một cái cổng bên đường, rồi đóng lại và biến mất. Mới đầu tôi nghe tiếng chân y nặng nề trên mặt đường đá, rồi trên một cầu thang gỗ, rồi không nghe gì nữa. Đột nhiên tôi thấy cũng quá mệt và cảm tưởng đã khuya lắm rồi, về là vừa. Tôi bước rảo hơn, chẳng mấy chốc đã vượt qua những con hẻm vùng ngoại ô đang say ngủ, về tới nhà. Nhà tôi nằm giữa khi thành lũy, nơi các công chức và những người hưu trí cáp thấp ngụ trong những ngôi nhà thuê cho nhỏ sạch sẽ, phía trước có bãi cỏ và khóm thường xuân. Qua khỏi đám thường xuân, bãi cỏ và bụi thông nhỏ tôi về tới của nhà, mò lỗ khóa, tìm nút bật đèn, lách qua tấm cửa kính, đi qua những cái tủ bóng lộn và những chậu cây, mở cửa phòng mình, chốn giả làm quê hương bé nhỏ của tôi, nơi chiếc ghế bành và lò sưởi có nghiên mực và hộp vẽ, có Novalis và Dostoyevsky chờ đợi tôi, hệt như bà mẹ hay người vợ, lũ con, các cô người làm, chó, mèo chờ đợi những con người khác, những con người đích thực, khi họ về nhà.
Khi cởi chiếc áo măng tô ướt át, tôi chợt thấy lại tập sách nhỏ kia, liền rút ra. Đó là loại sách mỏng, in lem nhem trên giấy xấu bán ở các chợ phiên, giống như tập “Tử vi cho người sinh ra trong tháng Giêng” hay “Làm cách nào trẻ lại hay mươi tuôi trong tám ngày?”
Nhưng khi đã ngồi yên trong ghế bành và đeo kính, tôi sửng sốt đọc và đột nhiên cảm thấy về một số phận đang xảy đến qua nhan đề trên bìa tập sách chợ phiên ấy: Luận thuyết về Sói Thảo Nguyên. Dành riêng cho những người điên.
Và đây là nội dung của nó mà tôi đã đọc liền một mạch, mỗi lúc một hồi hộp thêm:
LUẬN THUYẾT VỀ SÓI THẢO NGUYÊN
Dành riêng cho những người điên
Thuở ấy có một tay tên là Harry, biệt danh Sói Thảo Nguyên.Hắn đi ha chân, hắn mặc áo quần, hắn là người, nhưng thật ra hắn đích thị là một con sói thảo nguyên. Hắn học được nhiều thứ mà những người có đầu óc đều có thể học được và hắn là một kẻ khá thông minh. Nhưng cái hắn không học được là: hài lòng về mình và cuộc đời mình. Điều ấy hắn không học được, hắn là một kẻ bất đắc chí. Sở dĩ như thế có lẽ vì lúc nào trong thâm tâm hắn cũng biết (hoặc tưởng là biết) rằng thật ra hắn không phải là ngườ, mà là một con sói từ thảo nguyên. Các nhà thông thái cứ việc tranh cãi xem hắn có thật là sói hay không, biết đâu đã có lần, trước cả khi hắn chào đời cũng nên, hắn được phù phép biến từ sói thành người, hoặc giả hắn sinh ra là người, nhưng lại được phú cho hồn một con sói thảo nguyên và bị nó chế ngự hoặc giả điều hắn tin rằng hắn thật ra là sói chỉ do trí tưởng tượng hoặc một thứ bênh của hắn mà thôi. Chẳng hạn có thể thời thơ dại con người này rất hiếu động, bất kham và vô kỷ luật; những người dạy dỗ hắn đã tìm cách diệt trừ tính dã thú trong con người hắn và chính vì thế đã tạo cho hắn ấn tượng và niềm tin rằng thật ra hắn là một dã thú, chỉ khoác một lớp vỏ mỏng tanh của giáo dục và nhân tính thôi. Nếu muốn, người ta có thể nói tràng giang đại hải và tiêu khiển về điều này, thâm chí viết thành sách; nhưng chẳng ích gì cho Sói Thảo Nguyên, vì hắn chẳng mảy may quan tâm đến chuyện con sói nhập vào hắn là do bùa chú hoặc roi vọt, hay đó chỉ là tưởng tượng của tâm hồn hắn. Người khác, thậm chí ngay cả hắn nữa, muốn nghĩ gì về điều ấy, hăn cũng mặc kệ, vì sự nghĩ ngợi đó không trục nổi con sói ra khỏi hắn được.
Vậy là Sói Thảo Nguyên có hai bản chất, một người và một sói; đó là số kiếp của hắn, và có thể số phận này chẳng phải đặc biệt và hiếm hoi gì lắm. Người ra đã từng thây sbao kẻ mang trong mình nhiều tính chất của chó hoặc chồn, của cá hoặc rắn nhưng không vì thế mà họ gặp khó khăn gì ghê gớm. Ở những kẻ đó người và chồn, người và cá đúng là sống cạnh nhau, không bên nào làm khổ bên nào, thậm chí còn tương trợ lẫn nhau; lắm kẻ tiến xa và đáng ganh tị nhờ được sức chồn hoặc khỉ đem lại cho họ phúc lộc nhiều hơn sức người trong họ. Điều này ai cũng biết. Nhưng ở Harry lại khác, người và sói trong hắn không tiến song đôi hoặc giúp đỡ nhau, mà thường trực là kẻ tử thù của nhau, phần này sống chỉ để làm khổ phần kia, và khi hai phần trong cùng một dòng máu và một tâm hồn coi nhau như kẻ từ thù thì đó là một cuộc sống khốn khổ. Thế đấy, ai cũng có số phận riêng và chẳng số phận nào nhẹ nhàng cả.
Về phần Sói Thảo Nguyên của chúng ta thì lúc hắn cảm thấy mình sống giống sói, lúc lại giống người, như ở mọi sinh vật lai tạp; nhưng khi hắn là sói thì phần người trong hắn thường xuyên nằm rình rập, nhóm ngó, bình phẩm và phán xét – con những lúc hắn là người thì phần sói cũng làm y như thế. Chẳng hạn khi Harry là người, có một ý tưởng hay ho, một cảm xúc tinh tế cao quý hoặc có một hành vi gọi là thiện, con sói trong hắn liền nhe nhanh, ra sức chế nhạo, chỉ cho hắn thấy rằng tất cả cái vở kịch cao quý kia, nực cười sao, lại rất thích hợp với một con thú thảo nguyên, một con sói, nó biết rất rõ trong thâm tâm điều gì khiến nó hài lòng, đó là đơn độc rong ruổi qua thảo nguyên, thỉnh thoảng uống máu tươi hoặc chạy theo một con sói cái – và, dưới nhãn quan của con sói, mọi hàng động của con người đều kỳ cục, vụng về, ngu xuẩn và kiêu căng phát sợ. Cũng y như vậy khi Harry cảm thấy mình là sói, khi hắn đe dọa người khác, khi hắn thù ghét và coi mọi người cùng cung cách xử thế cũng như tập quan suy đồi, giả trá của họ là kẻ tử thù; lúc ấy phần người trong hắn sẽ rình rập, theo dõi con sói, gọi nó là đồ súc vật, đồ dã thú, khiến nó chán chường, hết cả hứng thú trong bản tính sói chất phác, lành mạnh và hoang dã của nó.
Bản chất Sói Thảo Nguyên như vậy đấy, và ta có thể hình dung cuộc đời Harry chẳng thoải mái và hạnh phúc chút nào. Nhưng như thế không hàm nghĩa hắn đặc biệt bất hạnh (mặc dù tự hắn cảm thấy thế, giống như ai cũng cho rằng nỗi đau khổ mình phải hứng chịu là ghê gớm nhất). Ta không nên nói như thế về ai. Ngay cả người không mang phần sói trong mình cũng không nhất thiết hạnh phúc. Ngay cả cuộc sống bất hạnh nhất cũng có những giờ phút rạng rỡ ánh hồng và những đóa hoa hạnh phúc nở bừng giữa cát sỏi. Với Sói Thảo Nguyên cũng thế. Phần lớn cuộc đời hắn rất bất hạnh, không thể phủ nhận điều ấy, và hắn có thể làm người khác bất hạnh theo, đó là khi hắn yêu thương họ và họ yêu thương hắn. Vì hết thảy những kẻ yêu thương hắn chỉ thấy một khía cạnh của hắn thôi. Có những người yêu thương hắn là một kẻ tế nhị, thông minh và đọc đáo, nên khi họ đột nhiên phát hiện phần soi trong hắn, họ liền đâm ra kinh hoàng và thất vọng. Họ phải phát hiện ra thôi, vì Harry, như mọi sinh vật khác, muốn được thương yêu trọn vẹn, nên không thể che giấu và lấp liếm phàn sói của hắn, nhất là trước tình thương yêu của những kẻ hắn rất trân trọng. Nhưng cũng có những kẻ thương yêu chính cái phần sói trong hắn, cái chất tự do, hoang dã, không thể thuần hóa, ngủy hiểm, mạnh bạo, nên chính họ lại cực kỳ thất vọng lẫn đau đớn khi thấy con sói hoang dại, hung ác đột nhiên cũng là một con người, cũng khao khát điều tốt và sự dịu dàng, nghe cả nhạc Mozart, cũng đọc thơ và muốn có người này đâm ra đặc biệt thất vọng và phẫn nộ, thế là Sói Thảo Nguyên đã truyền bản tính kép và đối nghịch của chính hắn vào mọi số kiếp xa lạ mà hắn tiếp xúc.
Giờ đây ai tưởng rằng mình biết rõ Sói Thảo Nguyên và có thể hình dung được cuộc đời tội nghiệp và đau lòng của hắn, người ấy rất nhầm, người ấy còn lâu mới biết hết. Người ấy không biết rằng (chẳng quy tắc nào không có ngoại lệ và trong hoàn cảnh nhất định Chúc ưng kẻ duy nhất phạm tội hơn chín mươi chín kẻ công chính) ở Harry cũng có ngoại lệ và những may mắn tình cờ, rằng đôi khi hắn có thể thở, suy nghĩ và cảm thấy lúc như sói, lúc như người, rõ ràng chức không lẫn lộn, đúng thế, và đôi khi, vào những giờ khắc rất hiếm hoi, phần sói và phần người sống hòa hoãn, thân ái với nhau, chứ không chỉ bân này ngủ, bên kia thức, mà tăng cường lẫn nhau, bên nọ giúp cho bên kia trở thành gấp đôi. Cũng trong cuộc đời người đàn ông này, như khắp nơi trên thế gian, dường như đôi lúc mọi thói quen, mọi việc thường nhật, mọi điều được nhìn nhận, mọi sự điều độ chỉ nhằm mục đích ngưng nghỉ ở đâu đó một đôi giây ngắn ngủi, rồi bị phá bỏ, nhường chỗ cho cái phi thường, phép lạ và ân sủng. Những giờ phút hạnh phúc ngắn ngủi, hiếm hoi này có đền bù và xoa dịu được số phận hẩm hiu của Sói Thảo Nguyên, khiến cuối cùng hạnh phúc cân bằng được khổ đau không, hay thậm chí niềm hạnh phúc ngắn ngủi nhưng mãnh liệt trong vài giờ ít ỏi ấy vượt xa sự hóa giải khổ đau, điều này hãy để cho những kẻ nhàn cư tha hồ ngẫm nghĩ. Chính Sói Thảo Nguyên cũng thường suy ngẫm về chuyện ấy, và đó là những ngày nhàn rỗi lẫn vô bổ của hắn.
Ở đây cần phải nói thêm một điều. Có khá nhiều người cùng loại như Harry, đặc biệt là các nghệ sĩ. Những người này đều mang song song trong lòng họ hai linh hồn, hai bản chất vừa thù nghịc vừa phức tạp, cả thần thánh lẫn quỷ sứ, cả dòng máu me lẫn dòng máu cha, cả khả năng tiếp thu hạnh phúc lẫn khả năng tiếp nhận khổ đau, giống như Harry mang trong con người hắn phần sói và phần người vậy. Những con người có cuộc sống rất không thanh thản ấy đôi khi cảm thấy một vẻ đẹp và sự mãnh liệt khôn tả trong những khoảnh khắc hạnh phúc đôi khi phụt cao chói loại trên đại dương đau khổ, làm xúc động và lôi cuống người khác. Mọi công trình nghệ thuật đều đã ra đời như thế, như làn bọt hạnh phúc quý giá thoắt ran trên bể khổ, chính nhờ những công trình ấy mà một cá nhân đau khổ đã vương lên khỏi số phận cảu mình được trong một giờ, đến mức hạnh phúc của người ấy rạng rõ như một vì sao, khiến ai trông thấy cũng đều ngỡ là thứ gì vĩnh cửu và là giấc mơ hạnh phúc riêng tư của mình. Nói chung tấ cả những con người này, dù việc họ làm và tác phẩm của họ mang tên gì đi nữa, đều không có đời sống thật sự, nghĩa là đời sống của họ không phải là sự hiện hữu, nó không có gì rõ rệt, họ không phải là những anh hùng hay nghệ sĩ hoặc nhà tư tưởng như kiểu những người khác là thẩm phán, thẩy thuốc, thợ giày hay thầy giáo, mà cuộc đời họ là một dòng biến dịch triền miên, đau khổ và sóng gió, bất hạnh, bị giằng xé đầy đau đớn, khủng khiếp và vô nghĩa, ngay từ người ta không chịu nhìn thấy ý nghĩa của nó trong chính những sự kiện, những hành động, những tư tưởng và những tác phẩm hiếm hoi rực sáng trên sự hỗ loạn của một cuộc đời như thế. Giữa những người thuộc loại này đã nảy sinh ý tưởng nguy hiểm và đáng sợ rằng biết đâu toàn thể đời người chỉ là một lầm lẫn phũ phàng, một sự sẩy thai khốc liệt và bất hạnh của bà mẹ nguyên thủy, một thử nghiệm man dại và thất bại khủng khiếp của tự nhiên. Những giữa những người ấy cũng đã nảy sinh một ý tưởng khác, rằng con người có thể không chỉ là thú vật tương đối có lý trí, mà là con của thần thánh, mang số phận bất tử.
Mỗi loại người đều có những dấu hiệu đặc trưng, những biểu tượng, những phẩm hạnh cùng tật xấu và tội trọng riêng của họ. Dấu hiệu đặc trưng của Sói Thảo Nguyên là sống về đêm. Hăn sợ buổi sáng, vì đó là khoảng thời gian tệ hại trong ngày, chẳng khi nào đem lại cho hắn điều tốt lành. Hắn chưa từng thật thoải mái vào bất cứ một buổi sáng nào trong đời, hắn chưa hề làm được điều gì tốt đẹp gì khả dĩ khiến hắn và người khác vui. Chỉ trong lúc xế trưa hắn mới ấm dần và sinh động và chỉ khi gần tối, vào những ngày hắn thoải mái, hắn mới nghĩa ra được nhiều chuyện, trở nên linh hoạt, đôi khi hào hứng và vui vẻ. Điều này liên quan đến nhu cầu được cô đơn và độc lập của hắn. Chưa ai từng khát vọng độc lập sâu xa và mãnh liệt như hắn. Thuở thiếu thời, lúc hà vi phải vất vả kiếm sống, hắn thà chịu ăn đói, mặc rách chỉ để khỏi mất đi chút độc lập nhỏ nhoi. Hắn chưa hề bán mình cho đàn bà hoặc những kẻ lắm quyền nhiều thế hay vì tiền bạc hoặc cuộc sống phong lưu, hắn đã trăm lần vất bỏ và cự tuyệt những thứ được coi là lợi lộc và hạnh phúc trong mắt thế gian, chỉ cốt giữ lấy tự do. Hắn không thù ghét và ghê tởm gì hơn là nhận một chức vụ này đấy, giữ đúng thời gian biểu của ngày, của năm và phải tuân lệnh kẻ khác. Hắn thù ghét bàn giấy, văn phòng, công sở như thù ghét cái chết và điều khủng khiếp nhất, mà hắn trải qua trong mơ, là bị giam hãm trong trại lính. Hắn biết cách thoát khỏi những điều này, nhưng thường phải chịu nhiều hy sinh. Đây là mặt mạnh và đức tính của hắn, ở điểm này hắn bất khuất và không thể bị mua chuộc, ở điểm này hắn kiên định và cứng rắn. Có điều nỗi đau khổ và số phận của hắn lại gắn bó mật thiết với đức tính ấy. Đối với hắn thì cũng như đối với mọi người thôi: những gì hắn tìm kiếm và kiên trì tột bậc vươn tới vì một sự thôi thúc thâm sâu nhất từ bản chất, hắn đều đạt được, nhưng những điều ấy lại quá mức cho sự tốt lành của con người ta. Thoạt tiên điều ấy là ước mơ và hạnh phúc của hắn, nhưng rồi trở thành số phận đắng cay, Kẻ tham quyền lực sẽ tàn đời vì quyền lực, kẻ tham tiền vì tiền, kẻ quỵ lụy vì khúm núm, kẻ ham lạc thú vì dục lạc. Thành ra Sói Thảo Nguyên đã tàn đời vì sự độc lập của hắn. Đạt mục đích rồi, hắn càng độc lập thêm; không ai ra lệnh cho hắn được nữa, hắn chẳng phụ thuộc vào ai và hắn tự do quyết định việc làm hay không làm. Mọi kẻ xuất sắc đều chắc chắn đạt được điều mà lòng khát khao đích thực của họ thúc đẩy. Nhưng giữa lúc đạt được tự do, Harry chợt nhận thấy tự do của hắn yên thân một cách đáng sợ, hắn chẳng còn chút liên quan gì nữa với con người, thậm chí với chính hắn,hắn chết ngộp từ từ trong bầu không khí cứ mãi loãng dần của sự xa cách và cô độc. Vì bây giờ cô đơn và độc lập không còn là ước mơ và mục đích của hắn nữa mà là số phận, là bản án của hắn. Điều nguyện ước thần diệu đã được đáp ứng rồi, không rút lại được nữa; dù hắn thành tâm khao khát dang rộng đôi tay đón chào sự liên hệ gắn bó và đoàn kết cũng chẳng ích gì; không ai đoái hoài đến hắn. Mà nào có phải người ra ghét bỏ hay ghê tởm hắn đâu. Ngược lại, hắn có rất đông bạn bè. Nhiều người quý mến hắn. Song hắn luôn chỉ tìm được sự thiện cảm và niềm nở; người ta mời mọc, tặng quà, thân ái viết thư cho hắn, nhưng không ai gần gũi hắn, không ai nảy sinh chút gắn bó nào, không ai muốn và có khả năng cùng hắn chia sẻ cuộc đời. Giờ đây bao quanh hắn là khoảng trống của sự cô đơn, của bầu không khí thầm lặng; thế giới chung quanh hắn cứ dần trượt xa và bát lực trong việc tạo dựng quan hệ mà chẳng ý chí hay khao khát nào có thể chống chọi nổi. Đấy là một trong những đặc điểm quan trọng nhất của đời hắn.
Một đặc điểm khác là hắn ở trong số những kẻ tự tử. Ở đây cần phải nói rằng sẽ là sai lầm nếu chỉ dùng khái niệm ấy để gọi những kẻ tự hủy mình thật sự. Vì trong số này nhiều kẻ có thể gọi là tự tử do ngẫu nhiên, chứ tự sát không nhất thiết thuộc vào bản chất của họ. Có những kẻ chết vì tự sát trong số những hạng xoàng xĩnh, bắt chước vô ý thức, trong số người không cá tính, không tác phong đặc biệt, không định mệnh vững chãi nhưng không phải vì thế mà họ thuộc vào mẫu nười tự tử, nếu xét toàn các tính, trong khi có rất nhiều kẻ, phần lớn cũng nên, theo bản chất được xếp vào loại người tự tử, nhưng lại chẳng bao giờ dám thật sự tự hủy mình. “Kẻ tự sát” – Harry là một – không nhất thiết phải sống trong quan hệ đặc biệt gần gũi với cái chết; người ta có thể sống như vậy, mà vẫn không phải là kẻ tự sát. Nhưng kẻ tự tử có điểm khác thường ở chỗ y thấy Cái Tôi của mình, bất kể điều này đúng hay sai, là một hạt mầm đặc biệt nguy hiểm, đáng ngờ và bị đe dọa của tự nhiên, y luôn thấy mình mạo hiểm và bị đe dọa khác thường, như thể y đứng trên một mỏm đá bé tẹo, chỉ cần một cái xô nhẹ từ bên ngoài hay chút khiếp nhược từ bên trong đủ khiến y rơi vào cõi hư không. Đặc trưng trên lằn chỉ tay sinh mệnh của loài người này cho thấy tự tử là kiểu chết dễ có khả năng xảy ra nhất, ít ra trong trí tưởng tượng của chính họ. Điều kiện tiên quyết gây nên tâm trạng này – hầu như luôn thấy rõ ngay từ thời niên thiếu và bám theo họ suốt đời – không phải là sinh khí đặc biệt nhu nhược, ngược lại người ta thấy trong số những “kẻ tự sát” lắm người bản tính rất gan lì, đầy khao khát và cả liều lĩnh nữa. Những giống như những kẻ hơi ốm một tí đã bị sốt, những người mà chúng ta gọi là “kẻ tự sát” vốn luôn rất dễ xúc động và nhạy cảm, hễ bị sốc một tí liền có khuynh hướng ráo riết nghĩ đến việc tự hủy mình. Nếu chúng ta có được một ngành khoa học đủ dũng cảm, đủ tinh thần trách nhiện cao, nghiên cứu về con người thay vì chỉ quan tâm đến cơ chếc những hiện tượng của sự sống, nếu chúng ta có được một ngành tương tự như nhân chủng học, tâm lý học, thì ai cũng sẽ quen thuộc với những sự kiên này.
Điều chúng ta nói ở đây về những kẻ tự sát tất nhiên chỉ hời hợt thôi. Nó là tâm lý học, nghĩa là một phần của ngành vật lý. Xét về mặt siêu hình thì vấn đề khác hẳn và sáng tỏ hơn nhiều, vì quan sát trên khía cạnh này chúng ta thấy những “kẻ tự sát” như là những người mang cảm giác phạm tội vì sự cá biệt hóa của mình, như những linh hồn không còn thấy cứu cánh của cuộc đời là hoàn thiện và uốn nắn chính mình, mà là thủ tiêu nó, trở về với Mẹ nguyên thủy, trở về với Chúa, trở về với vũ trụ. Rất nhiêu kẻ trong số đó hoàn toàn bất lực trước việc tiến hành tự sát thật sự vào một lúc nào đấy, vì họ thấy rõ tội lỗi của hành động ấy. Tuy nhiên, với chúng ta họ vẫn là những kẻ tự sát, vì họ thấy đấng