← Quay lại trang sách

Chương 4 Dành riêng cho những người điên

bút ký của harry haller

Chương 4

dành riêng cho những người điên

ôi cứ đinh ninh đã hiểu rất rõ Hermine rồi chứ, thế mà đêm nay nàng biểu lộ thật hoàn toàn mới mẻ làm sao! Nàng đã, nhẹ nhàng và không nhận ra được, quấn quanh tôi tấm lưới mà tôi hằng khao khát; Hermine - như nàng tiên cá - đã cho tôi uống chất độc ngọt ngào thật dễ dàng!

Chúng tôi ngồi trò chuyện và uống sâm banh. Chúng tôi, những kẻ thám hiểm phiêu lưu, vừa lang thang qua các sảnh vừa quan sát, chọn ra những cặp trai gái để lén nghe họ tình tự. Nàng chỉ cho tôi những người đàn bà, yêu cầu tôi khiêu vũ với họ; nàng cho tôi những cặp trai gái để lén nghe họ tình tự. Nàng chỉ cho tôi những người đàn bà, yêu cầu tôi khiêu vũ với họ; nàng cho tôi những lời khuyên về nghệt thuật quyến rũ để ứng dụng với người này, người kia. Chúng tôi đóng vai tình địch, cùng đeo đuổi một người đàn bà trong chốc lát, thay phiên khiêu vũ với nàng, tìm cách chinh phục nàng. Nhưng tất cả vẫn chỉ là trò chơi hóa trang, chỉ là đùa vui giữa hai chúng tôi, khiến chúng tôi gắn bó với nhau hơn, làm cho nhau rạo rực. Tất cả đều là chuyện thần tiên, tất cả đều thêm một kích thước mới, một ý nghĩa sâu hơn. Tất cả đều là trò đùa và biểu tượng. Chúng tôi thấy một thiếu phụ rất đẹp, trông hơi đau khổ và rầu rĩ.

Hermann nhảy với nàng, khiến nàng tươi tỉnh hẳn, đưa nàng đi uống sâm banh, rồi sau đó kể với tôi rằng đã chinh phục được nàng không trong tư cách đàn ông, mà đàn bà, với sự quyến rũ của Lesbos[1]. Về phần tôi thì dần dà toàn thể ngôi nhà ồn ào đầy những căn phòng nhảy nhót vang động này, đám người mang mặt nạ hào hứng này đã trở thảnh một thiên đường điên cuồng tuyệt vời, hết bông hoa này đến bông hoa khác mời mọc tôi với hương thơm của nó, tôi đùa nghịch tìm từ quả này sang trái khác với những ngón tay tập tành của tôi, những con rắn cám dỗ nhìn tôi từ bóng tối của đám lá xanh, những bông sen lượn lờ như ma trên bùn đen, nhũng con chim phù thủy dụ dỗ trên nhánh cây, tuy vậy tất cả đều chỉ hướng tôi tới một mục tiêu khao khát, tất cả lại chồng chất lên tôi niềm hoài vọng tới điều duy nhất ấy. Có lần tôi hào hứng nhảy với một thiếu nữ lạ; tôi tán tỉnh, lôi kéo nàng vào sự cuồng nhiệt và ngất ngây, trong lúc chúng tôi bay bổng trong hư ảo, nàng chợt phá lên cười: "Người ta không nhận ra anh đâu nhé. Mới hồi chiều anh còn quá sức ngớ ngẩn và tẻ ngắt." Và tôi nhận ra nàng, người vài giờ trước đó đã gọi tôi là "lão già bẳn tính". Giờ đây nàng tưởng đã chiếm được tôi, nhưng lần khiêu vũ sau tôi đã nhảy và rạo rực với một cô gái khác. Tôi khiêu vũ không ngừng suốt hai giờ hoặc hơn nữa, điệu nào cũng nhảy, cả những điệu tôi chưa từng học. Hermann, chàng trai trẻ tươi cười, không ngớt xuất hiện bên cạnh tôi, gật đầu với tôi rồi mất dạng trong đám đông.

Trong đêm vũ hội này tôi được nếm trải điều mình chưa từng được biết trong năm mươi năm qua, dù mỗi cô gái mới lớn và mỗi sinh viên đều biết: đó là sự trải nghiêm về lễ hội, niềm vui sướng ngất ngây của những người dự lễ, sự hòa mình bí nhiệm của cá nhân trong tập thể, một Unio mystica[2] của niềm vui. Tôi đã thường nghe nói về nó - cô người làm nào cũng đều biết điều đó - và tôi đã thường thấy ánh mắt người kể chuyện sáng long lanh, nhưng tôi chỉ luôn mỉm cười nửa tự cao, nửa ganh tị. Tôi đã thấy cả trăm lần trong đời vẻ rạng rỡ nọ trong đôi mắt ngất ngây của một kẻ sung sướng mê ly đã thoát khỏi Cái Tôi, thấy nụ cười nọ và trạng thái đắm chìm hơi điên rồ của kẻ hòa mình vào cơn say của tập thể, đã thấy qua bao thí dụ cao quý và đê tiện, nơi những cậu tân binh và những chàng thủy thủ say mèm cũng như nơi những nhà nghệ sĩ lớn, chẳng hạn trong niềm say mê ở những buổi trình diễn trọng thể, điều này cũng chẳng kém nơi những người lính trẻ ra mặt trận và vừa mới đây tôi đã ngưỡng mộ, yêu quý, giễu cợt cùng ganh tị vẻ rạng rỡ và nụ cười này của con người hạnh phúc mê ly nơi anh bạn Pablo của tôi, khi anh say sưa trình tấu trong ban nhạc, đu người trên chiếc kèn saxophone hay hân hoan và xuất thân nhìn viên nhạc chơi đi chơi lại bài Yearning này nhiều lần mà vẫn cứ được yêu cầu, nó thấm đẫm chúng tôi và làm mọi người ngây ngất, khe khẽ hát theo giai điệu. Tôi nhảy không ngừng, với bất kỳ người đàn bà nào tôi bắt gặp, với những cô gái trẻ măng, với những thiếu phụ mơn mởn, với những nàng như mùa hè đến độ, với những bà quá lứa âu sầu: tôi say mê tất cả, cười nói, hạnh phúc, rạng rỡ. Và khi Pablo thấy tôi rạng rỡ như thế, tôi, người mà anh vốn luôn coi như một kẻ khốn khổ hết sức đáng thương, mắt anh tràn đầy hạnh phúc nhìn tôi, anh hào hứng đứng lên, rời khỏi chiếc ghế trong ban nhạc, thổi dữ dội vào chiếc kèn, rồi leo lên ghế, phồng má thổi, điên cuồng và hạnh phúc lắc lư người cùng nhạc cụ theo điệu bài Yearning; tôi và người bạn nhảy nữ gửi anh những chiếc hôn gió và cùng cất cao tiếng hát. A, giữa chừng tôi thầm nghĩ, dù chuyện gì sẽ xảy ra với tôi, tôi cũng mặc kệ, vì cả tôi cũng đã được một lần hạnh phúc, rạng rỡ, thoát khỏi chính mình; tôi là một đứa trẻ, một người anh em của Pablo.

Tôi mất đi ý niệm về thời gian, tôi không biết cảm giác ngây ngất này đã kéo dài bao nhiêu giờ hay bao nhiêu khoảnh khắc. Tôi cũng không để ý rằng vũ hội càng trở nên cuồng nhiệt thì lại càng thu hẹp vào phạm vi nhỏ hơn. Phần đông khách khứa đã ra về, các hành lang đã trở nên im ắng, nhiều ngọn đèn đã tắt, khoang cầu thang vắng tanh vắng ngắt, ở những căn phòng lầu trên các ban nhạc đã lần lượt im tiếng và ra về; chỉ trong phòng chính và dưới địa ngục là vẫn còn huyên náo, sự ngất ngây hỗn tạp của buổi lễ mỗi lúc một tăng. Vì tôi không được phép khiêu vũ với Hermine, trong vai chàng thanh niên, nên chúng tôi luôn chỉ thoáng gặp và chào nhau trong những lúc nghỉ và cuối cùng nàng biến khỏi tôi, không chỉ trong tầm mắt, mà cả trong ý nghĩ. Không còn ý nghĩ nào nữa. Tôi hòa tan và bị cuốn theo trong đám đông ngất ngây khiêu vũ, xúc động bởi hương thơm, âm thanh, tiếng thở dài, lời nói, được những đôi mắt lạ chào hỏi, khích lệ, được những khuôn mặt, những đôi môi, những cặp má, những cánh tay, những bộ ngực, những đầu gối lạ bao quanh, được âm nhạc xô tới xô lui như một làn sóng theo nhịp điệu.

Đột nhiên trong một khoảnh khắc hơi bừng tỉnh tôi thấy trong số những người khách cuối cùng còn ở lại - giờ đây đầy ứ trong những gian phòng cuối cùng còn vang tiếng nhạc - đột nhiên tôi thấy một pierrette[3] vận đồ đen mang mặt nạ sơn trắng, một thiếu nữ xinh đẹp tươi mát, người duy nhất mang mặt nạ, một hình ảnh mê ly tôi chưa hề thấy trong suốt đêm nay. Trong khi mọi người khác đều in dấu vết của giờ giấc khuya khoắt này: mặt mũi đỏ gay vì kích động, áo quần nhăn nhúm; cổ áo và ống tay nhàu nhĩ thì cô pierrette mặc đồ đen này đứng tươi mát và gọn ghẽ với khuôn mặt trắng trẻo dưới tấm mặt nạ, y phục không một nếp nhăn, cổ áo tinh tươm, cổ tay áo viền ren sạch bong và mái tóc không chút bù rối. Tôi bị cuốn hút về phía nàng, ôm lấy nàng, kéo nàng vào màn khiêu vũ. Cổ áo thơm tho của nàng làm cằm tôi nhột nhạt, tóc nàng phớt nhẹ má tôi; thân thể trẻ trung rắn chắc của nàng đám lại - dịu dàng và thân thiết hơn mọi cô bạn nhảy tối nay - những động tác của tôi, né tránh, khêu gợi và luôn dễ dàng buộc chúng có những va chạm mới. Và đột nhiên lúc tôi cúi xuống giữa màn khiêu vũ tìm môi nàng thì đôi môi ấy mỉm cười kiêu hãnh và rất quen thuộc; tôi nhận ra chiếc cằm cương nghị, sung sướng nhận ra đôi bờ vai, đôi khuỷu tay, đôi bàn tay. Đấy là Hermine, không phải Hermann nữa, đã thay y phục, tươi mát, xức chút nước hoa và thoa chút phấn. Môi chúng tôi cuồng dại gắn vào nhau, cả thân thể nàng cho đến đầu gối áp chặt vào tôi trong một khoảnh khắc, thèm khát và dâng hiến, rồi môi nàng rời khỏi môi tôi, nàng nhảy một cách giữ kẽ và lẩn tránh. Lúc ngưng tiếng nhạc, chúng tôi ôm nhau đứng tại chỗ, những cặp chung quanh khích động vỗ tay, giậm chân, la hét, thúc giục ban nhạc đã kiệt sức chơi lại bản Yearning. Và lúc này tất cả chúng tôi đột nhiên cảm thấy trời dần sáng, bình minh lờ mờ sau những tấm màn cửa, thấy niềm vui sướng sắp tàn, linh cảm sự mệt mỏi đang đến và phá lên cười, tuyệt vọng điên cuồng lao mình lần nữa vào điệu vũ, vào tiếng nhạc, vào làn ánh sáng đang tràn ngập, sôi sục bước theo nhịp, cặp này sát cặp kia, hân hoan cảm nhận lần nữa con sóng lớn đang dội xuống chúng tôi. Lần nhảy này Hermine thôi không kênh kiệu, giễu cợt và lạnh lùng nữa - nàng biết chẳng cần phải làm gì thêm để khiến tôi phải mê đắm. Tôi đã thuộc về nàng. Và nàng dâng hiến trong khiêu vũ, trong ánh mắt, trong môi hôn, trong nụ cười. Mọi người đàn bà của cái đêm đầy khích động này, mọi người đàn bà cùng tôi nhảy, mọi người được tôi gây rạo rực, mọi người đã gây rạo rực cho tôi, mọi người tôi ve vãn, mọi người tôi đã thèm khát ôm sát, mọi người tôi đã mê đắm nhìn theo đều tan chảy thành một người đàn bà duy nhất đang bừng nở trong vòng tay tôi.

Vũ điệu tân hôn này kéo dài thật lâu. Hai lần, ba lần tiếng nhạc yếu đi, các nhạc công thổi kèn hạ nhạc cụ xuống, người chơi dương cầm đứng lên. người kéo vĩ cầm chính lắc đầu cự tuyệt, song lần nào họ cũng lại được cổ vũ mãnh liệt bởi sự cuồng nhiệt của những người khiêu vũ cuối cùng, họ lại chơi lần nữa, nhanh hơn, cuồng dại hơn. Rồi - chúng tôi còn đang đứng ôm nhau thở dốc sau lần nhảy khao khát cuối cùng - nắp đàn dương cầm đóng sầm xuống, cánh tay chúng tôi buông thõng mệt mỏi giống như tay của những người thổi kèn và kéo vĩ cầm, còn người thổi sáo hấp háy mắt cất nhạc khí của mình vào bao, những cánh cửa mở tung, khí lạnh ùa vào, đám người phục vụ xuất hiện với những chiếc áo khoác và tiếp viên nơi quầy rượu tắt phụt đèn. họ tản ra tứ phía, dễ sợ như những bóng ma, những người mới rồi còn nhảy hết sức cuồng nhiệt giờ đây run rẩy rúc vào măng tô, kép cạp cổ áo. Hermine nhợt nhạt nhưng mỉm cười. Nàng chậm rãi đưa tay vuốt tóc ra sau, nách nàng lấp lánh trong ánh sáng, một vạt tối thật mảnh và vô cùng mềm mại trải dài Itừ đấy tới ngực áo và đối với tôi thì vạc tối phập phồng ấy, tựa một nụ cười, hợp nhất mọi vẻ quyến rũ của nàng, mọi trò chơi và năng lực của tấm thân xinh đẹp.

Chúng tôi, những người cuối cùng trong gian phòng, những người cuối cùng trong ngồi nhà, đứng nhìn nhau. Tôi nghe đâu đấy dưới kia tiếng một cánh cửa sập, một tấm kính vỡ, một tiếng khúc khích tan biến dần, lẫn tiếng ồn áo cáu kỉnh và hối hả của động cơ ô tôi quay bằng maniven[4].Đâu đấy, ở một nơi xa xăm và trên cao không thể xác định, tôi nghe vang lên tiếng cười, một tiếng cười trong trẻo và sảng khoái khác thường, nhưng lạ lẫm và ghê rợn, một tiếng cười như từ pha lê và nước đá, trong và rạng rỡ, nhưng lạnh lùng và nghiệt ngã. Tôi đã nghe tiếng cười lạ lùng này ở đâu? Không nhớ nữa.

Hai chúng tôi đứng nhìn nhau. Trong một khoảnh khắc tôi bừng tỉnh táo, cảm thấy cơn mệt mỏi rã rời từ sau ập tới, cảm thấy quần áo sũng mồ hôi, ẩm và ấm, bám vào người thật kinh tởm, nhìn đôi bàn tay đỏ và căng phồng mạch máu ló khỏi cổ tay áo nhàu nát, đẫm mồ hôi. Nhưng cảm giác này biến mất ngay, chỉ một cái nhìn của Hermine đủ xua tan nó. Trước ánh mắt nàng - dường như tâm hồn của chính tôi đang quan sát tôi từ đôi mắt đó - mọi thực tại đều đổ ụp, kể cả thực tại tôi thèm khát nàng về xác thịt. Chúng tôi đắm đuối nhìn nhau, tâm hồn bé nhỏ khốn khổ của tôi ngắm nhìn tôi.

"Anh sẵng sàng chưa?" Hermine hỏi và nụ cười của nàng biến mất, giống như vạt tối trên ngực nàng đã biến mất. Tiếng cười kỳ dị nọ cũng lịm dần trong những không gian xa lạ nơi xa xăm và cao vời vợi.

Tôi gật. Có chứ, tôi đã sẵn sàng rồi.

Bấy giờ Pablo xuất hiện nơi ngưỡng cửa; anh chàng nhạc công long lanh nhìn chúng tôi bằng đôi mắt tươi vui; đôi mắt ấy đúng ra phải là mắt thú, nhưng mắt thú luôn nghiêm trọng, còn mắt anh luôn mỉm cười và chính nụ cười ấy biến chúng thành mắt người. Anh vẫy chúng tôi với tất cả niềm nở nồng nhiệt. Anh khoác một chiếc vét, loại mặc trong nhà, bằng lụa sặc sỡ, cổ sơ mi đẫm mồ hôi ỉu xìu, khuôn mặt bơ phờ nhợt nhạt và tiều tụy hiện rõ khác thường trên ve áo khoác màu đỏ, nhưng đôi mắt đen nháy rạng rỡ của anh đã xáo tan ấn tượng này. Chúng cũng xóa luôn thực tại, cả chúng cũng có ma thuật,

Chúng tôi đi theo cái vẫy của anh; tới dưới cửa anh nói khẽ với tôi: "Ông anh Harry này, tôi mời ông anh dự một buổi tiêu khiển nho nhỏ. Chỉ những người điên mới được vào, trả bằng lý trí. Ông anh sẵn sàng chứ?" Tôi lại gật đầu.

Anh chàng này thật là thân ái! Anh dịu dàng và ân cần nắm cánh tay chúng tôi, Hermine bên phải, tôi bên trái, dẫn lên cầu thang vào một căn phòng nhỏ hình tròn có ánh sáng xanh xanh từ trên cao rọi xuống; căn phòng hầu như trống trơ, chẳng có gì khác ngoài một cái bàn tròn nhỏ và ba chiếc ghế bành mà chúng tôi ngồi.

Chúng tôi đang ở đâu? Tôi đang ngủ chăng? Tôi đang ở nhà chăng? Tôi đang ngồi lái xe chăng? Không, tôi đang ngồi trong căn phòng hình tròn có ánh sáng xanh xanh, trong một bầu không khí pha loãng, trong một lớp thực tại đã trở thành rất không kín. Sao Hermine lại xanh xao thế kia? Sao Pablo lại nói nhiều thế nhỉ? Không phải chính tôi đã khiến anh ta nói, chính tôi nói bằng miệng của anh ta ư? Không phải chỉ là tâm hồn tôi, con chim lạc lõng, cũng đang ngắm nhìn mình từ đôi mắt đen của anh ta, giống như đã nhìn từ đôi mắt xám của Hermine ư?

Anh bạn Pablo nhìn chúng tôi với tất cả sự thân ái hiền hậu lẫn hơi trịnh trọng và anh nói, nhiều và dài. Anh, người mà tôi chưa hề nghe nói năng mạc lạc, người không quan tâm đến tranh luận và các diễn đạt, người mà tôi không tin có nổi một suy nghĩ, giờ đây đang lên tiếng, trôi chảy và không sai sót với giọng nói ấm và hồn hậu.

"Các bạn, tôi mời các bạn tới dự một buổi tọa đàm mà từ lâu Harry hằng ao ước và mơ thấy. Cũng hơi muộn rồi và hẳn là tất cả chúng ta đều đã khá mệt. Thành thử trước hết chúng ta hãy ngồi đây nghỉ ngơi và giải lao một chút."

Anh lôi từ một hốc tường ba ly thủy tinh con và một chai nhỏ ngộ nghĩnh, một chiếc hộp con kỳ lạ bằng nhiều thứ gỗ màu, rót đầy ba ly rồi lấy từ hộp ba điếu thuốc dài, mảnh dẻ màu vàng, rút bật lửa từ túi áo vét lụa châm cho chúng tôi. Chúng tôi ngả người trên ghế bành, chậm rãi hút, khói đặc tựa khói nhang, và từ tốn nhấp từng ngụm nhỏ thứ chất lỏng ngọt hăng, mùi vị lạ lùng chưa từng biết; nó quả đã có tác dụng hồi sức và làm mê mẩn khôn xiết, cứ như ta được bơm đầy hơi và mất hết trọng lượng. Chúng tôi ngồi như thế, rít từng hơi ngắn, nghỉ ngơi, nhấp chất lỏng kia, cảm thấy nhẹ tênh và thư thái. Đồng thời Pablo hạ thấp giọng nói ấm áp của anh:

"Ông anh Harry thân mến, hôm nay tôi vui mừng được khoản đãi ông anh chút ít. Ông anh đã thường cảm thấy chán ngán đời sống của mình, ông anh đã ra sức từ bỏ chốn này, phải không ạ? Ông anh khao khát rời bỏ thời gian này, thế giới này, thực tại này và đi vào một thực tại khác thích hợp hơn với ông anh, đi vào một thế giới phi thời gian. Ông anh thân mến, hãy cứ làm đi, tôi yêu cầu ông anh đấy. Ông anh biết thừa cái thế giới khác ấy nằm ẩn ở nơi nào, cái thế giới mà ông anh đang tìm kiếm ấy là thế giới của chính tâm hồn ông anh. Cái thực tại khác mà ông anh đang khao khát ấy chỉ sống trong nội tâm của chính ông anh thôi. Tôi không thể tặng ông anh những gì chưa hiện hữu sẵn trong chính ông anh, tôi không thể mở cho ông anh phòng trưng bày tranh nào khác phòng trưng bày tranh của tâm hồn ông anh. Tôi không thể tặng ông anh gì hết thảy, ngoài cơ hội, sự kích thích, chìa khóa. Tôi giúp ông anh thấy được thế giới riêng của ông anh, chỉ có thế thôi."

Anh lại thọc tay vào túi áo vét lòe loẹt, rút ra một chiếc gương tròn.

"Ông anh xem: cho đến nay ông anh thấy mình như thế này đây!"

Anh đưa chiếc gương con lên trước mắt tôi (tôi chợ nhớ câu đồng dao: "Gương con, gương con trong tay ơi!"[5]) và tôi thấy, mờ ảo, một hình ảnh đáng kinh hãi tự chuyển dịch, hối hả và lồng lộn trong chính nó: đó chính là tôi, Harry Haller, và bên trong Harry nà là Sói Thảo Nguyên, một con sói nhút nhát, đẹp mã, nhưng lạc đường, ánh mắt khiếp sợ, lúc hung dữ, lúc âm ỉ buồn và hình hài sói này không ngừng chuyển động qua Harry, tựa một nhánh sông khác màu cuồn cuộn đổ mù mịt vào dòng sông chính, rồi chúng đau khổ, cắn xé nhau vì dòng sông nào cũng đầy ắp thứ tham vọng không thỏa mãn nổi, đó là giành quyền tạo nên diện mạo chung cuộc. Đôi mắt đẹp nhút nhát của con sói mới định hình được một nửa và đang chuyển dịch kia buồn bã, buồn bã nhìn tôi.

"Ông anh đã nhìn thấy chính mình như thế đấy," Pablo dịu dàng lặp lại và cất gưong vào túi. Lòng đầy biết ơn, tôi nhắm mắt, nhấp rượu tiên.

"Bây giờ chúng ta đã nghỉ ngơi xong," Pablo nói, "đã bồi dưỡng và trò chuyện chút ít. Nếu các bạn không còn mệt nữa, tôi sẽ đưa các bạn tới chỗ trình diễn và chỉ cho các bạn thấy hí viện nhỏ bé của tôi. Các bạn đồng ý chứ?"

Chúng tôi đứng dậy, Pablo mỉm cười đi tới trước, mở một cái cửa, kéo qua bên một tấm màn và chúng tôi thấy mình đứng trong hành lang hình móng ngựa, chính giữa một hí viện, hai bên có lối đi uốn cong dẫn qua trước vô số cửa nhỏ vào các ngăn lô, nhiều không tưởng tượng nổi.

"Đây là hí viện của chúng ta," Pablo giải thích "một hí viện vui nhộn, hy vọng các bạn sẽ thấy được đủ mọi trò cười." Vừa nói anh vừa cười phá lên chỉ vài tiếng thôi, nhưng nó xuyên thấu tôi mãnh liệt; đó lại vẫn là tiếng cười trong trẻo, lạ lùng mà tôi từng nghe thấy trước đây từ trên cao.

"Tiểu hí viện của tôi có bao nhiêu cửa vào các ngăn lô, mười hay một trăm hay một nghìn, tùy các bạn muốn, và điều các bạn đang tìm kiếm chờ đợi các bạn sau mỗi cửa ấy. Các bạn thân mến, đây là một phòng trưng bày thú vị, nhưng như tình trạng ông anh bây giờ thì đi khắp mọi nơi chẳng ích lợi gì. Ông anh sẽ bị mù quáng và kìm hãm bởi cái mà ông anh quen gọi là nhân cách của mình. Chắc chắn ông anh đã đoán được từ lâu rằng việc khuất phục thời gian, việc giải thoát khỏi thực tại và nỗi khao khát, mà ông anh muốn gắn cho nó tên gì cũng được, không là gì khác hơn sự mong muốn trút bỏ cái gọi là nhân cách của ông anh. Nhân cách đó chính là nhà tù giam hãm ông anh đấy. Nên nếu ông anh cứ như thế này bước vào hí viện thì ông anh sẽ nhìn mọi sự với đôi mắt của Harry, mọi sự qua cập kính cũ của Sói Thảo Nguyên. Thành ra yêu cầu ông anh hãy gỡ bỏ cặp kính này và vui lòng gửi nhân cách rất mực tôn quý ấy ở quầy giữ quần áo; ông anh muốn có lại nó bất cứ lúc nào cũng được. Buổi dạ vũ thú vị ông anh đã trải qua, bản Luận thuyết về Sói Thảo Nguyên, sau hết là chút chất kích thích mà chúng ta vừa chia sẻ, mong rằng đã chuẩn bị đủ cho ông anh rồi. Ông anh Harry, sau khi đã gỡ bỏ nhân cách tôn quý của mình thì mời ông anh sử dụng phần bên trái hí viện, còn Hermine phần bên phải. Vào trong rồi thì các bạn có thể tha hồ gặp nhau. Hermine, tạm thời cô vui lòng vào khuất sau tấm màn, tôi muốn hướng dẫn Harry trước đã."

Hermine đi qua một tấm gương khổng lồ che kín bức tường sau từ sàn tới vòm trần, biến vào phía bên phải.

"Harry, thế là xong, bây giờ mời ông anh tới đây và nhớ vui lên nhiều lên nhé. Mục đích lần tổ chức này là để làm cho ông anh vui, để dạy ông anh cười - hy vọng ông anh tạo thuận lợi cho tôi trong chuyện này. Ông anh thấy thoải mái chứ? Có à? Ông anh không sợ hãi chứ? Thế là tốt, rất tốt. Bây giờ ông anh sẽ không sợ hãi mà rất mực hân hoan bước vào thế giới tưởng tượng của chúng ta, bằng cách tự mở đầu với một màn tự sát giả tưởng nho nhỏ, như tập quán đòi hỏi."

Anh lại móc chiếc gương con, chìa ra trước mặt tôi: Harry lại đang nhìn tôi - một Harry bối rối, lờ mờ, bên trong có hình dạng con sói đang lồng lộn chui qua hắn - một hình ảnh rất quen thuộc và đúng là không thiện cảm, thành ra nếu nó bị hủy diệt thì cũng chẳng khiến tôi lo ngại gì.

"Ông bạn thân mến, bây giờ ông bạn phải xóa sạch cái hình ảnh phản chiếu đã trở thành không cần thiết này, chứ chẳng cần làm gì nhiều nhặn hơn. Ông bạn chỉ cần, nếu tâm trạng mình cho phép, quan sát hình ảnh này với một nụ cười chân thật. Ông bạn đang ở đây, trong một ngôi trường dạy hài hước, ông bạn nên học cười. Mọi khôi hài cao quý đôi chút đều bắt đầu bằng việc không coi bản thân mình là quan trọng nữa."

Tôi đăm đăm nhìn vào tấm gương con, tấm gươn con trong tay, trong đó con sói - Harry dăng co giật. Trong tôi, sâu thẳm trong tôi, cũng co giật một khoảnh khắc, nhẹ thôi, nhưng dằn vặt, tựa niềm hoài vọng, tựa nổi nhớ quê hương, tựa sự ân hận. Rồi sự ức chế nhẹ nhàng này nhường chỗ cho một cảm giác mới, tương tự cảm giác khi ta được nhổ chiếc răng sâu khỏi hàm răng đã được gây tê bằng cocain, cảm giác được thở phào nhẹ nhõm, đồng thời sửng sốt vì chẳng thấy đau đớn gì, Cùng với cảm giác này là một tâm trạng hưng phấn và muốn phì cười mới mẻ, khiến tôi rộ lên một tiếng cười giải thoát.

Hình ảnh buồn rầu trong gương lóe lên rồi tắt ngấm, mặt tấm gương tròn nhỏ đột nhiên trở nên xám xịt, sần sùi và mờ đục như bị thiêu đốt. Pablo cười quẳng tấm gương đi, nó lăn trên sàn hành lang hun hút rồi biến mất dạng.

"Bạn cười hay lắm, Harry ạ," Pablo nói, "bạn sẽ còn học cười như những người bất tử nữa, Thế là cuối cùng bạn đã giết được Sói Thảo Nguyên rồi. Không thể giết nó bằng dao cạo được đâu. Nhớ phải để cho nó chết nhé! Bạn sẽ có thể rời khỏi cái thực tại ngớ ngẩn này ngay thôi. Lần tới gặp nhau mình sẽ cạn chén kết nghĩa đệ huynh. Bạn thân mến ơi, chưa bao giờ bạn làm tôi hài lòng như hôm nay. Và nếu bạn thấy bõ công thì chúng ta có thể cùng nhau triết lý và mạn đàm về Mozart, Gluck, Plato và Goethe nhiều như bạn muốn. Bây giờ bạn sẽ hiểu tại sao trước đây việc này không thể thực hiện được. Hy vọng bạn gặp may và hôm nay dứt khỏi con Sói Thảo Nguyên. Vì dĩ nhiên cuộc tự sát của bạn không phải là triệt để; chúng ta đang ở trong một hí viện ma thuật mà, ở đây chỉ có hình ảnh thôi, không có thực tại. Bạn hãy chọn cho mình những hình ảnh xinh đẹp vui tươi và chứng tỏ bạn thật sự không còn say mê cái nhân cách đáng ngờ của mình nữa! Tuy nhiên, nếu bạn thèm khát có lại nó, bạn chỉ cần nhìn vào tấm gương mà tôi sắp chỉ cho bạn. Nhưng bạn biết câu ngạn ngữ cổ này mà: "Thà một tấm gương con trong tay còn hơn hai tấm trên tường!" Ha ha! (Anh lại cười thật trong trẻo và đáng sợ) - Đấy, bây giờ chỉ còn phải hoàn thành một lễ nghi rất nhỏ và vui nhộn thôi. Bạn đã vất bỏ cặp kính nhân cách của mình rồi, bây giờ mời bạn lại đây nhìn vào một tấm gương đích thực! Nó sẽ khiến bạn thích thú."

Anh vừa cười, vừa làm những mơn trớn kỳ cục vừa xoay tôi đứng đối diện tấm gương khổng lồ trên tường. Tôi nhìn thấy mình trong đó.

Tôi thấy, trong một thoáng ngắn ngủi, gã Harry quen thuộc, chỉ khác là với khuôn mặt tươi cười, rạng rỡ, vui vẻ khác thường. Nhưng tôi vừa mới nhận ra hắn thì hình ảnh hắn đã vỡ vụn, một hình thứ hai tách khỏi hắn, hình thứ ba, thứ mười, thứ hai mươi và rồi tấm gương không lồ đầy những Harry hay những mảnh Harry, vô số Harry, mà mỗi cái tôi đều chỉ nhìn qua và nhận ra trong chớp nhoáng. Vài cái trong vô vàn hình ảnh Harry này cũng cỡ tuổi tôi, một số gài hơn, một số già khú đế, số khác trẻ măng, những thanh niên, những thiếu niên, những học trò, những nhóc con, những đứa bé. Những Harry năm mươi tuổi và hai mươi tuổi chạy nhảy tung tăng, những Harry ba mươi tuổi và năm tuổi, đạo mạ và vui nhộn, nghiêm trang và buồn cười, áo quần lịch sự và rách rưới, có cả trần truồng, hói trọc và tóc quăn dài, và tất cả đều là tôi; mỗi hình ảnh ấy đều được tôi nhìn và nhận ra nhanh như chớp, rồi biến mất, chúng chạy tứ tung, sang trái, sáng phải, vào sâu trong tấm gương, từ trong gương chạy ra. Một gã, một chàng trai trẻ trung thanh lịch, vừa cười vừa nhảy bổ vào Pablo, ôm choàng anh rồi cùng anh bỏ chạy. Và một cậu mà tôi đặc biệt thích, một cậu xinh xắn, duyên dáng, khoảng mười sáu hay mười bảy tuổi, chạy ào như chớp vào hành lang, đọc ngấu nghiến những câu viết trên mọi cánh cửa; tôi chạy theo; cậu dừng lại trước một cánh cửa, trên đó tôi đọc thấy dòng chữ

Mọi đàn bàm con gái đều là của bạn

Bỏ một đồng mark vào khe

Cậu bé dễ thương này nhảy phóc lên một cái, chui tọt đầu vào khe bỏ tiền rồi mất dạng sau cánh cửa.

Cả Pablo cũng biến mất, dường như cả tấm gương cũng biến mất luôn cùng với vô số hình ảnh Harry. Tôi cảm thấy giờ đây bị phó mặc cho chính mình cùng với hí viện, nên tò mò lân la hết cửa này sang cửa khác, đọc trên mỗi cánh cửa một câu viết, một cám dỗ, một lời hứa hẹn.

Hàng chữ:

Hãy tham dự cuộc săn thú vị!

Săn bằng ô tô

đã cám dỗ tôi. Tôi mở cánh cửa hẹp và bước vào. tức thì tôi bị cuốn vào một thế giới ồn ào và kích động. Những chiếc ô tô, có cái bọc thép, săn đuổi khách bộ hành trên đường phố, cán họ nát như tương hoặc ép bẹp gí vào những tường nhà. Tôi hiểu ngay: đó là cuộc chiến đấu giữa con người và máy móc, được chuẩn bị từ lâu, chờ đợi từ lâu, lo sợ từ lâu, nay cuối cùng đã bùng nổ. Ngổn ngang xác chết và những thây người nát bét, cả xác những chiếc xe bị đập phá, cong quep, cháy nham nhở; máy bay lượn vòng trên khung cảnh lộn xộn đáng sợ này, ngay cả chúng cũng bị súng săn và súng máy nã đạn từ những mái nhà và cửa sổ. Những tấm bích chương tuyệt đẹp đầy kích động tựa ngọn đuốc hừng hực, chữ thật to, treo cùng khắp mọi bức tường kêu gọi Nhà nước cuối cùng hãy bảo vệ con người chống lại máy móc, hãy đập chết bọn nhà giàu phì nộn, ăn mặc bảnh bao, thơm nức, bọn đã dùng máy móc vắt kiệt mỡ người khá, hãy phá tan những chiếc ô tô to ồn ào, gầm gừ, rền rĩ dữ dội của chúng, hãy đốt nhà máy của chúng, hãy don quang Trái Đất bị ô uế này và làm giảm số dân để cây cối lại mọc, để rừng rậm, bãi cỏ, đồng hoang, suối lạch và đầm lầy có thể tái sinh từ cái thế giới xi măng bụi bặm. Ngược lại, có những bích chương khác được vẽ thật đẹp, cách điệu hóa tuyệt vời, màu dịu, ít ngây ngô hơn, mang những hàng chữ thông minh ý nhị, cảnh báo một cách xúc động mọi kẻ sở hữu và mọi người có lý trí trước sự hỗn loạn có thể xảy ra của tình trạng vô chính phủ; chúng minh họa thật ấn tượng rằng có được trật tự, việc làm, sở hữu, văn hóa, pháp luật là cả một sự may mắn; chúng ca ngợi máy móc là phát minh mới nhất và cao siêu nhất của con người, nhờ máy móc mà con người sẽ trở thành thần thánh. Tôi trầm ngâm và thán phục đọc những tấm bích chương, những tấm màu đỏ và những tấm màu lục; giọng điệu hùng biện sôi nổi, logic áp chế của chúng cực kỳ tác động lên tôi: chúng có lý và tôi rất được thuyết phục lúc đứng trước tấm này hay tấm khác, nhưng cứ bị tiếng súng liên hồi khá giòn giã chung quanh quấy rầy không ít. Thế đấy, vấn đề chính đã sáng tỏ: đó là chiến tranh, một cuộc chiến tranh khốc liệt, cuồng nhiệt và hết sức khả ái, không phải vì Hoàng đế, nền Cộng hòa, biên cương, cờ quạt, màu sắc cùng những thứ bề ngoài và kệch cỡm, cơ bản vặt vãnh tương tự, mà một cuộc chiến trong đó ai thấy thiếu không khí để thở, thấy cuộc sống không còn thích hợp nữa, đều biểu lộ xác đáng sự bực bội của mình và nỗ lực dọn đường cho sự hủy diệt toàn thể cái văn minh bằng sắt thép này. Tôi thấy mọi đôi mắt đều rạng rỡ và chân thành toát ra vẻ thích thú được phá hủy, giết chóc; trong lòng tôi bừng nở những bông hoa dại đỏ, cao lớn, mập mạp và mơn mởn tười cười. Tôi vui vẻ tham gia chiến đấu.

Nhưng điều tuyệt vời hơn cả là Gustav, người bạn học tôi không gặp đã mấy chục năm nay, đột nhiên xuất hiện bên cạnh tôi; anh là người hiếu động nhất, khỏe nhất và liều lĩnh nhất trong số các bạn thời niên thiếu của tôi. Tim tôi rộn rã vui khi thấy anh lại nheo đôi mắt màu xanh nhạt với tôi. Anh vẫy và tôi hớn hở theo liền.

"Trời đất ơi, Gustav," tôi sung sướng kêu lên, "thế là lại được gặp cậu! Cậu đã trở thành ông gì rồi?"

Anh cười gằn, y như hồi nhỏ.

"Cái thằng! Cứ phải hỏi và tán dóc ngay à? Tớ trở thành giáo sư thần học rồi; đấy, nay cậu biết rồi nhé; nhưng may phước bây giờ không còn môn thần học nào nữa, mà chiến tranh. Nào!"

Anh bắn gục xuống đường người lái một chiếc xe con vừa mới phì phò chạy về phía chúng tôi; rồi vọt nhanh như vượn lên xe, phanh lại cho tôi đoạn chúng tôi phóng như điên qua những lằn và nhũng chiếc xe lật nhào, ra khỏi thành phố, về vùng ngoại ô.

"Cậu theo phe bọn chủ xí nghiệp à?" tôi hỏi bạn tôi.

"Chà chà, đó là vấn đề sở thích, ra tới ngoài kia mình sẽ tính. Ấy không, khoan đã, tớ lại muốn mình chọn phe kia hơn, dù về cơ bản đương nhiên như nhau thôi. Tớ là nhà thần học và ngày xưa tổ sư Luther[6] của tớ đã giúp đám vương hầu và bọn nhà giàu chống lại nông dân, bây giờ mình hãy sửa sai một chút. Xe này cà chớn quá, hy vọng nó chạy nổi vài cây số nữa!"

Như đứa con của trời cao, nhanh như gió, xe chúng tôi lọc cọc vọt đi nhiều dặm, lăn vào một vùng quê xanh mướt yên tĩnh, qua một bình nguyên rộng lớn rồi từ từ leo lên một rặng núi khổng lồ. Nơi đây chúng tôi dừng xe trên một con đường nhẵn nhụi, sáng loáng với những khúc quanh hiểm trở vòng vèo giữa sườn đá dốc đứng và một bức tường chắn thấp tè. Dưới kia là một hồ nước xanh lấp lánh.

"Vùng này đẹp thật," tôi nói.

"Rất đẹp. Mình có thể gọi nó là 'con đường của những trục xe' được, vì sẽ có nhiều loại trục xe bị gãy ở đây. Nhóc Harry, xem này!"

Một cây thông to sừng sững bên đường; chúng tôi thấy trên tán cây có thứ gì dựng bằng ván, như thể một chòi canh và chỗ quan sát. Gustav cười rạng rỡ nhìn tôi, ranh mãnh nháy đôi mắt xanh và hai chúng tôi vội vã ra khỏi xe, leo phóc lên cây, thở hổn hển náu minh trong cái chòi canh mà chúng tôi rất thích. Chúng tôi tìm thấy trong đó súng săn, súng lục và những thùng đạn. Chúng tôi vừa mới nghỉ ngơi được một tí và chuẩn bị cho cuộc s8n bắn thì đã nghe vang lên từ khúc quanh gần nhất tiếng còi khàn khàn và hống hách của một chiếc xe to sang trọng đang phóng ào ào trên con đường núi bóng loáng. Tay chúng tôi đã nâng sẵn súng săn. Căng thẳng tuyệt vời.

"Nhắm gã tài xế!" Gustav nhanh chóng ra lệnh, vừa lúc chiếc xe nặng nề chạy qua phí dưới chúng tôi. Tôi nhắm vào gã lái xe đội mũ lưỡi trai màu xanh và bóp cò. Người đàn ông ấy gục xuống, chiếc xe sẵn đã phóng tới, húc vào sườn đá, dội lại, giận dữ tông mạnh vào bờ tường thấp tựa một con tôm hùm to béo, lật ngược rồi lăn qua bức tường, rơi xuống vực với một tiếng nổ ngắn khe khẽ.

"Xong!" Gustav cười. "Tớ sẽ thầu tay tài xế chiếc xe tới."

Chưa gì đã thêm một chiếc xe khác chạy tới với ba hoặc bốn hành khác ngồi trong nhỏ thó trên ghế nệm; một chéo khăn màu xanh nhạt trên đầu người thiếu phụ bay thẳng tắp ra saul quả thật tôi thấy thương hại nó, biết đâu nó chẳng đang được ôm ấp khuôn mặt tươi cười kiều diễm nhất thế gian. Chúa ơi, một khi đã chơi trò thảo khấu, chúng tôi nên noi theo những tấm gương vĩ đại, không háo sát đối với đàn bà, con gái đẹp thì có lẽ đúng đắn và đáng khen hơn. Nhưng Gustav đã lấy cò. Người tài xế giãy lên rồi gục xuống, chiếc xe chồm lên vách đá thẳng đứng, dội lại, lật nhào xuống đường, chổng bốn bánh lên trời. Chúng tôi chờ, chẳng thấy gì nhúc nhích, mọi hành khách nằm im lìm dưới chiếc xe như trong một cáí bẫy. Nó vẫn còn kêu rì rì, lạch cạch, bốn bánh quay kỳ dị trong không khí; đột nhiên nó phát nổ dữ dội và bốc lửa sáng lóa.

"Một chiếc Ford," Gustav nói. "Mình phải chạy xuống đấy, dọn cho trống đường."

Chúng tôi leo xuống ngắm nghía cái đống đang cháy phừng phừng. Chẳng mấy chốc nó cháy rựi. Trong lúc đó chúng tôi dùng cây con làm đòn, bẩy nó sang một bên rồi qua vệ đường xuống vực, lát sau vẫn còn nghe tiếng các bụi cây gãy răng rắc. Lúc xe lăn, hai trong số những người chết văng xuống đường, y phục cháy sém. Áo vét của một người còn khá nguyên vẹn; tôi lục tìm trong các túi áo vét để may ra biết được ông ta là ai, thấy một cái cặp da đựng giấy với những danh thiếp. Tôi lấy một tấm, đọc hàng chữ trên đó: "Tat twam asi."[7]

"Dí dỏm gớm" Gustav nói. "Nhưng thật ra bọn người bị mình giết tên gì cũng thế thôi. Họ đều là những con quỷ đáng thương như chúng ta, thì tên gọi nào đáng kể gì. Thế giới này phải bị phá hủy, cùng với cả chúng ta nữa. Dìm cái thế giới này xuống nước được mười phút hẳn sẽ là giải pháp nhẹ nhàng, êm ái nhất. Nào, bắt tay vào việc thôi!

Chúng tôi đẩy các xác chết xuống theo xe. Chưa gì đã lại thấy một chiếc xe nữa nhấn còi chạy tới. Chúng tôi đứng trên đường bắn ngay. Nó loạng choạng như người say rượu một đoạn nữa rồi lật nhào, nằm thở hồng hộc. Một người ngồi bất động trong xe, một thiếu nữ xinh xắn chui ra, hoàn toàn lành lặn, dù cô run lẩy bẩy và mặt mũi nhợt nhạt. Chúng tôi thân mật chào cô và ngỏ ý sẵn sàng giúp đỡ. Cô ấy quá khiếp hãi, không thốt nên lời, chỉ chòng chọc nhìn chúng tôi một lúc như bị loạn trí.

"Nào, trước hết mình xem ông già ra sao cái đã," Gustav nói rồi quay qua ông khách vẫn còn ngồi rịt trên chiếc ghế sau lưng người tài xế đã chết. Đó là một người đàn ông tóc ngắn, hoa râm, đôi mắt xám nhạt thông minh vẫn mở, song dường như đã bị thương nặng, ít nhất miệng đã ứa máu, cổ lệch đi và cứng đờ thật kỳ dị.

"Thưa ông, xin được giới thiệu tôi tên là Gustav. Chúng tôi đã tự phép bắn chết người tài xế của ông. Xin mạn phép hỏi chúng tôi hân hạnh được hầu chuyện cùng ai ạ?"

Đôi mắt nhỏ và xám của ông già lạnh lùng và buồn bã nhìn chúng tôi.

"Tôi là Loering, công tố viên tòa án phúc thẩm," ông chậm chạp nói. "Các ông không chỉ giết người tài xế đáng thương của tôi, mà cả tôi nữa; tôi cảm thấy sắp chết rồi. Vì sao các ông lại bắn chúng tôi?"

"Vì xe chạy quá nhanh."

"Chúng tôi chạy vận tốc bình thường."

"Điều ngay hôm qua là bình thường thì hôm nay không bình thường nữa, thưa ông công tố viên. Hôm nay chúng tôi quan niệm rằng mọí vận tốc mà một chiếc xe có thể chạy đều là quá nhanh. Bây giờ chúng tôi phá hủy xe ô tô, hết thảy, và cả những máy móc khác nữa."

"Cả súng săn của các ông?"

"Rồi sẽ đến lượt chúng, nếu chúng tôi còn đủ thời gian. Có thể ngày mai hay ngày kia tất cả chúng ta đều bị tiêu diệt. Ông biết rằng Trái Đất của chúng ta tràn ngập người đến mức kinh tởm mà. Đấy bây giờ nó sẽ lại có không khí để thở."

"Nghĩa là các ông bắn bừa bãi bất kỳ ai?"

"Tất nhiên. Đối với một số người thì chắc chắn điều ấy có thể là đáng phàn nàn. Chẳng hạn tôi sẽ lấy làm tiếc, nếu chuyện đó xảy ra với cô gái trẻ xinh đẹp này. Hẳn cô đây là ái nữ của ông?"

"Không, cô ấy là nữ tốc ký của tôi."

"Càng hay. Bây giờ mời ông xuống hoặc để chúng tôi kéo ra khỏi xe, vì nó sẽ bị phá hủy."

"Tôi thích bị phá hủy cùng với nó hơn."

"Tùy ý ông thôi. Xin phép được hỏi câu nữa! Ông là công tố viên. Tôi luôn không hiểu nổi làm sao người ta lại có thể trở thành công tố viên được. Ông sống nhờ vào việc ông buộc tội người khác, phần lớn là những kẻ khốn khổ, và kết án họ. Đúng thế không?"

"Đúng thế. Tôi làm nhiệm vụ của mình. Đó là chức trách của tôi. Giống như chức trách của đao phủ là hành quyết những kẻ bị tôi kết án. Chính các ông cũng nhận cùng chức trách ấy. Các ông cũng giết người vậy."

"Đúng. Chỉ khác là chúng tôi không giết vì nhiệm vụ, mà vì vui thú, hay đúng hơn: vì bất mãn, vì tuyệt vọng thế giới này. Vì thế việc giết người khiến chúng tôi thích thú đôi chút, Chẳng lẽ nó chưa từn làm ông vui thú?"

"Ông làm tôi chán ngáy. Ông vui lòng kết thúc công việc cùng mình đi thôi, Nếu ông không biết khái niệm nhiệm vụ...:

Ông ta im lặng và dẩu môi như thể muốn nhổ. Nhưng chỉ khạc ra được tí máu, dính ở cằm.

"Khoan đã!" Gustav lịch sự nói. "Đương nhiên tôi không biết khái niệm nhiệm vụ, không biết nữa. Trước đây, do chức trách nên tôi liên quan nhiều với nó, tôi vốn là giáo sư thần học mà. Ngoài ra từng là lính và đã tham gia chiến tranh. Cái đối với tôi dường như là bổn phận và cái tôi bị những kẻ quyền uy và cấp trên ra lệnh đều chẳng tốt lành gì, tôi luôn ao ước được làm ngược lại. Song cho dù tôi không còn biết khái niệm bổn phận đi nữa, tôi vẫn biết khái niệm tội lỗi - có thể hai khái niệm này là một thôi. Bởi tôi được một bà mẹ sinh ra nên tôi có tội, bị kết án phải sống, bắt buộc phải làm dân một đất nước, làm lính, giết người, đóng thuế để vũ trang quân đội. Giờ đây, trong giây phút này, lầm lỗi của đời sống lại khiến tôi một lần nữa phải giết người, như trong cuộc chiến tranh trước kia. Và lần này tôi không giết người với lòng ghê tởm nữa, tôi cam chịu tội lỗi; tôi hoàn toàn không phản đối gì việc thế giới ngu xuẩn, đầy nhóc này vỡ tan thành mảnh vụn, tôi còn muốn giúp sức vào nữa, và thích thú được tan rã theo."

Công tố viên gắng sức mỉm cười với đôi môi bết máu. Không thành công lắm, nhưng rõ ràng ông ta đã nỗ lục.

"Tốt lắm," ông ta nói. "Vậy thì chúng ta là đồng nghiệp. Thưa đồng nghiệp, ông vui lòng làm nhiệm vụ của mình đi thôi."

Trong lúc đó cô gái xinh xắn đã ngồi xuống vệ đường và ngất xỉu.

Đúng lúc ấy lại một chiếc xe ấn còi và phóng hết tốc độ tới. Chúng tôi kéo cô gái qua bên một chút rồi đứng nép người vào vách đá, mặc cho chiếc xe đang chạy tới húc vào xác chiếc xe cũ. Nó phanh gắt, lồng lên rồi dừng lại không suy suyển. Chúng tôi lẹ làng cầm súng săn chĩa vào những người mới.

"Xuống xe!" Gustav ra lệnh. "Giơ tay lên!"

Ba người đàn ông xuống xe, ngoan ngoãn giơ cao tay.

"Có ai trong các ông là thầy thuốc không?" Gustav hỏi.

Họ lắc đầu.

"Vậy các ông vui lòng thận trọng đưa ông đây ra khỏi xe, ông ấy bị thương nặng. Rồi lấy xe của các ông chở ông ấy tới thành phố gần nhất. Nào, làm đi!"

Chẳng mấy chốc ông già được đặt nàng trong chiếc xe kia; Gustav ra lệnh và họ phóng đi ngay.

Trong lúc đó cô tốc ký của chúng tôi đã hồi tỉnh và quan sát các diễn biến. Tôi thích thú vìa đã bắt được con mồi xinh đẹp này.

"Này cô," Gustav nói, "cô đã mất chủ rồi. Hy vọng ngoài việc đó ra ông ta không phải là gì thân thiết của cô. Bây giờ cô giúp việc cho tôi; hãy là một chiến hữu tốt của chúng tôi! Thế nhé, bây giờ khẩn trương lên một chút. Nơi đây sẽ mau chóng trở nên bất tiện. Cô biết leo không? Được à? Vậy cô leo đi, chúng tôi theo hai bên, hỗ trợ cô."

Ba chúng tôi leo, nhanh nhất có thể, lên chiếc chòi. Tới bên trên, cô thấy nôn nao, nhưng sau khi được uống Cognac, cô nhanh chóng hồi phục, đến độ nức nở khen cảnh trí trên hồ, trên núi và cho chúng tôi biết tên cô là Dora.

Ngay sau đó lại một chiếc xe trờ tới phía dưới kia; nó thận trọng lách qua chiếc xe bị lật, chứ không ngừng, rồi tăng tốc độ ngay.

"Đồ nhát gan!" Gustav cười, bắn người cầm lái.

Chiếc xe loạng choạng một chút, vọt đâm vào tường, xuyên qua nó rồi nghiêng lơ lửng trên vực thẳm,

"Dora," tôi nói, "cô biết sử dụng súng săn chứ?"

Cô không biết, nhưng chúng tôi chỉ cô cách nạp đạn. Mới đầu cô vụng về, làm xước chảy máu một ngón tay, gào lên khóc lên, đòi băng dán. Nhưng Gustav bảo rằng đang thời chiến và cô hãy chứng tỏ là một cô gái can trường, dũng cảm. Cô nín ngay.

"Nhưng rồi chúng ta sẽ ra sao?" cô hỏi.

"Tôi không biết," Gustav đáp. "Anh bạn Harry của tôi thích đàn bà đẹp lắm, anh ấy sẽ là bạn của cô."

"Nhưng người ta sẽ đưa cảnh sát và lính tráng tới đây, giết chết chúng ta."

"Không còn cảnh sát và những bọn đại loại như thế nữa. Chúng ta có thể chọn lựa, Dora ạ. Hoặc chúng ta bình thản ở trên này và bắn mọi chiếc xe chạy qua. Hoặc chúng ta tóm lấy một chiếc chạy đi và để bọn khác bắn chúng ta. Chọn cách nào thì cũng như nhau cả thôi. Tôi chọn ở lại đây."

Dưới kia lại một chiếc xe ấn còi lanh lảnh chạy lên. Nó bị diệt chóng vánh, nằm chổng bốn bánh lên trời.

"Lạ thật," tôi nói, "không ngờ bắn người lại có thể thú vị thế! Vậy mà trước kia tớ là kẻ chống chiến tranh!"

Gustav mỉm cười. "Đúng vậy, chẳng qua chỉ vì thế giới quá đông người. Hồi xưa người ta không nhận thấy thế đâu. Nhưng giờ đây, khi ai cũng không chỉ hít thở không khí mà còn muốn có cả ô tô nữa, người ta mời nhận ra. Dĩ nhiên điều chúng ta làm là không khôn ngoan; nó là trò nghịch ngợm, giống như chiến tranh là một trò nghịch ngợm ở mức độ gớm ghê. Rồi đây nhân loại sẽ có lúc phải học hạn chế sinh sản bằng phương cách hợp lý. Tạm thời mình phản ứng lại những tình trạng không thể chịu đựng nổi này bằng cách hơi thiếu khôn ngoan nhưng về cơ bản mình làm đúng: mình giảm bớt người."

"Phải," tôi nói, "việc chúng mình làm hhẳn là điên rồ thật, xong có lẽ đúng đắn và cần thiết. Thật chẳng hay ho chút nào, khi nhân loại quá lao tâm khổ tứ tìm cách dùng lý trí chỉnh đốn những việc mà nó hoàn toàn chưa vươn tới được. Rồi từ đó nảy ra những tư tưởng như của người Mỹ hay người Bôn-sê-vích cả hai tư tưởng này đều cực kỳ chín chắn, nhưng vì chúng quá đơn giản hóa đời sống, nên đâm ra chúng lại áp bức và bóc lột đời sống ghê gớm. Hình ảnh con người, xưa kia là một lý tưởng cao cả, nay đang trở thành một thứ sao chép vụng về. Chúng ta, những kẻ điên rồ, có thể sẽ làm nó trở thành cao quý lại."

Gustav cười đáp: "Nhóc ơi, cậu ăn nói khôn ngoan tuyệt vời; thật là thú vị và bổ ích được lắng nghe những lời thông tuệ này. Thậm chí có thể cậu khá có lý. Nhưng thôi, làm ơn nạp đạn vào khẩu súng săn của cậu đi, tớ thấy cậu hơi quá mơ mộng đấy. Bất cứ lúc nào cũng lại có thể có vài con hươu đực chạy lên đây, mình không thể bắn chết chúng bằng triết lý được, trong nòng súng phải sẵn đạn."

Một chiếc xe trờ tới, bị lật ngay, thế là đường tắc nghẽn. Một kẻ sống sót, một người đàn ông phì nộn tóc đỏ giận dữ vung tay vung chân bên những xác xe, hết trố mắt ngó xuống dưới, lại nhìn lên cao; khi phát hiện chỗ chúng tôi ẩn nấp, y vừa gầm gừ vừa chạy tới, chĩa súng lúc lên nã nhiều lần.

"Cút ngay không tôi bắn," Gustav hét xuống. Người đàn ông nhắm anh nã phát nữa. Chúng tôi liền bắn gục y bằng hai phát.

Thêm hai xe nữa bị chúng tôi bị bắn hạ. Con đường trở nên vắng lặng; dường như sự nguy hiểm của nó đã đồn xa. Chúng tôi được rảnh rang ngắm nhìn cảnh đẹp. Trong thung lũng phía bên kia hồ có một thị trấn nhỏ, khói đang bốc lên từ đó và chỉ lát sau chúng tôi thấy lửa lan từ mái nhà này sang mái nhà khác. Nghe cả tiếng súng nữa. Dora thổn tức, tôi vuốt nhẹ đôi má đẫm lệ của cô.

"Tất cả chúng ta phải chết sao?" cô hỏi. Không ai trả lời. Trong lúc đó một người bộ hành đi tới phía dưới kia, nhìn các xác xe, đi quanh hỉnh mũi ngửi, rồi cúi vào trong một chiếc, lôi ra một cái ô sặc sỡ, một xắc tay phụ nữ bằng da, một chai vang; rồi y bình thản ngồi trên bức tường, ăn gì đấy bọc giấy nhôm lấy từ xắc tay, nốc sạch rượu rồi kẹp ô dưới nách vui vẻ đi tiếp. Y thanh thản bước. Tôi bảo Gustav: "Cậu có thể bắn thủng đầu gã khả ái kia không? Lạy Chúa, tớ chịu!"

"Đâu ai đòi cậu bắn," bạn tôi lầu bầu. Nhưng chính anh cũng thấy không thoải mái trong lòng. Chỉ vừa mới nhìn thấy một con người cung cách vô hại, hiền hòa và như trẻ con, một người còn có thể sống hồn nhiên, thì mọi hành động đáng ca ngợi và cần thiết nhường ấy của chúng tôi đột nhiên dường như thành ngu xuẩn và ghê tởm. Mẹ kiếp, bao nhiêu máu đã đổ! Chúng tôi hổ thẹn. Nhưng trong chiến tranh thậm chí các viên tướng cũng đôi khi cảm thấy như thế đây.

"Chúng ta không nên ở đây lâu hơn nữa," Dora than thở, "mà nên xuống dưới kia; chắc chắn chúng ta sẽ tìm thấy gì đấy để ăn trong những chiếc xe. Mấy người không đói sao, hở các Bôn-sê-vích?"

Phía dưới, nơi thị trấn đang cháy kia tiếng chuông nhà thờ bắt đầu rền rĩ, náo động và đầy sợ hãi. Chúng tôi chuẩn bị leo xuống. Lúc giúp Dora leo qua lan can, tôi hôn đầu gối cô. Cô cười ré lên. Nhưng rồi những thanh gỗ bung ra và hai chúng tôi rơi vào khoảng không...

Tôi lại thấy mình đang ở trong hành lang hình móng ngựa, vẫn còn bị kích thích bởi trò phiêu lưu săn bắn vừa rồi. Và những hàng chữ lôi cuốn khắp nơi, trên hết thảy vô số cánh cửa:

Mutabor[8]

Hóa thân thành thú vật và cây cỏ bất kỳ.

Hóa thân thành thú vật và cây cỏ bất kỳ.

Kamasutram[9]

Lớp cho người mới học: 42 cách ân ái khác nhau.

Tự sát đầy hoan lạc

Cười tới chết.

Bạn muốn tâm linh hóa

Minh triết phương Đông.

Ước chi tôi có nghìn cái lưỡi!

Dành riêng cho đàn ông.

Sự suy tàn của phương Tây

Giảm giá. Vẫn mãi dẫn đầu.

Bản chất của nghệ thuật

Sự chuyển hóa từ thời gian sang không gian nhờ âm nhạc.

Cười chảy nước mắt

Phòng hài hước.

Trò chơi của người ẩn dật

Thay thế hoàn toàn cho mọi sự quảng giao.

Những hàng chữ như thế này nhiều vô số kể. Một hàng viết:

Hướng dẫn tạo dựng nhân cách

Bảo đảm thành công.

Tự sát đầy hoan lạc

Cười tới chết.

Bạn muốn tâm linh hóa

Minh triết phương Đông.

Ước chi tôi có nghìn cái lưỡi!

Dành riêng cho đàn ông.

Sự suy tàn của phương Tây

Giảm giá. Vẫn mãi dẫn đầu.

Bản chất của nghệ thuật

Sự chuyển hóa từ thời gian sang không gian nhờ âm nhạc.

Cười chảy nước mắt

Phòng hài hước.

Trò chơi của người ẩn dật

Thay thế hoàn toàn cho mọi sự quảng giao.

Những hàng chữ như thế này nhiều vô số kể. Một hàng viết:

Hướng dẫn tạo dựng nhân cách

Bảo đảm thành công.

Tôi thấy thật đáng chú ý, liền bước vào.

Một căn phòng tĩnh lặng, sáng lờ mờ chào đón tôi. Một người đàn ông ngồi bệt dưới đất phương Đông, trước mặt là một bàn cờ vua thật to. Thoạt nhìn, tôi tưởng đó là anh bạn Pablo, vì ông cũng khoác một chiếc áo vét lụa sặc sỡ tương tự và đôi mắt cũng đen và long lanh y hệt.

"Phải Pablo không?" tôi hỏi.

"Tôi chẳng là ai cả," ông thân mật giải thích. "Ở đây chúng ta không mang tên, ở đây chúng ta chẳng là ai hết thảy. tôi là người chơi cờ vua. Ông muốn học về sự tạo dựng nhân cách à?"

"Vâng, thưa ông."

"Vậy ông hãy vui lòng cho tôi sử dụng vài chục hình ảnh của ông đi."

"Hình ảnh của tôi ư...?"

"Những hình ảnh mà ông đã thấy, cái gọi là nhân cách của mình tan thành ấy. Không có hình ảnh thì tôi không thể nào chơi được."

Ông chìa ra trước mặt tôi một cái gương, tôi lại thấy trong đó cái cá nhân thống nhất của tôi vỡ tan thành nhiều Cái Tôi, dường như còn tăng hơn so với mới đây. Những hình ảnh này giờ đây nhỏ lắm, chỉ bé tựa quân cờ vua thông thường thôi. Với những ngón tay vững vàng và lặng lẽ người chơi cờ kia nhặt vài chục cái, đặt xuống sàn bên cạnh bàn cờ. Cùng lúc, ông ta nói đều đều như một người quen lặp lại một bài thuyết trình hay bài giảng:

"Ông không lạ gì cái quan niệm sai lầm, đưa đến bất hạnh rằng con người là một khối thống nhất trường tồn. Ông cũng biết rằng con người được cấu tạo từ một số linh hồn, từ rất nhiều bản ngã. Quan niệm về sự thống nhất bề ngoài của cá nhân phân tán ra thành nhiều hình dạng này bị coi là điên rồ; khoa học đặt cho nó cái tên 'chứng tâm thần phân liệt'. Tất nhiên khoa học có lý, bao lâu nó cho rằng không thể kiềm chế một đám đông không được lãnh đạo, không có một trật tự và phân nhóm nhất định. Ngược lại nó sai lầm khi quan niệm chỉ có thể có một trật tự duy nhất, liên kết vĩnh viễn cho nhiều Cái Tôi bị phân tán nhỏ. Nhầm lẫn này của khoa học đã gây ra một số hậu quả đáng tiếc; nó chỉ được mỗi một việc là giúp cho các thầy cô và các nhà giáo dục của Nhà nước thấy công việc của họ đon giản đi và khỏi cần suy nghĩ cùng thử nghiệm. Do sai lầm này mà nhiều người điên khùng bất trị được xem là 'bình thường', thậm chí là thành phần cao quý trong xã hội, và ngược lại những thiên tài bị coi là điên rồ. Vì thế chúng tôi bổ khuyết môn tâm hồn học thiếu sót của khoa học bằng khái niệm mà chúng tôi gọi là nghệ thuật tạo dựng. Chúng tôi sẽ chỉ vẽ cho người đã trải nghiệm sự phân tán Cái Tôi của họ rằng bất kỳ lúc nào họ cũng có thể sắp xếp lại những mảnh của Cái Tôi này theo bất kỳ trật tự nào và bằng cách như thế đạt được tính muôn hình vạn trạng của trò đời. Giống như nhà thơ sáng tạo nên vở kịch từ một nhúm nhân vật, chúng tôi không ngừng dựng nên từ các hình thù bị tách ra của Cái Tôi những nhóm mới, với những trò chơi và những căng thẳng mới, với những hoàn cảnh luôn luôn mới. Ông xem này!"

Bằng những ngón tay khôn ngoan và lặng lẽ, ông nhặt những hình ảnh của tôi, tất cả những hình ảnh già lão, thanh niên, trẻ con, đàn bà, tất cả những hình ảnh vui tươi và rầu rĩ, khỏe mạnh và mảnh mai, linh lợi và vụng về, nhanh chóng xếp chúng trên bàn cờ thành ván cờ, trong dó chúng lập tức hình thành những phe nhóm, những gia đình, thành những trò chơi và những ẩu đả, thành những thân hữu và những kình địch, thành một thế giới nhỏ. Trước đôi mắt hân hoan của tôi, ông cho cái thế giới tí hon sinh động và rất thứ tự ấy hoạt động, chơi đùa và ẩu đả, thành lập liên minh và giao chiến, ve vãn, cưới hỏi, sinh con đẻ cái; đó quả thật là một vở kịch với đông đảo nhân vật, cảm động và hồi hộp.

Rồi ông, một nghệ sĩ cầu toàn, với dáng điệu vui vẻ, nhẹ nhàng gạt đổ các quân cờ, gom thành đống rồi trầm ngâm xếp cũng từ những quân cờ ấy một ván mới hoàn toàn, với những phe nhóm mới, những tương quan và liên hệ chằng chịt mới. Ván thứ hai này tương tự ván đầu: cũng thế giới ấy, tạo từ cùng chất liệu ấy, nhưng không khí toát ra khác, nhịp độ thay đổi, chủ đề được nhấn mạnh khác, hoàn cảnh dựng lên khác.

Và bằng cách ấy người công trì