Phần 1 - (tt)
(IX) QUÊ HƯƠNG, NGUỒN CỘI Quê Hương là Nguồn Cội. Nguồn Cội là Quê Hương. Hai ý niệm nầy không thể tách rời. Chúng dính liền nhau như một hệ luận. Đồng thời, chúng liên đới và ảnh hưởng nhau như một hệ lụy. Nơi ta ở là cái nôi, là cuốn rốn, là nguồn mạch tâm linh. Trong đời, dù ta, vì hoàn cảnh bất khả kháng, có trôi giạt nơi đâu, thì quê hương vẫn là cái mốc để ta nghĩ về, nhớ về, tìm về. Những bộ tộc sơ khai thời du cư, du canh, du mục… không bao giờ có được tâm tình cao thượng ấy… Một nhà văn Do Thái, trong diễn văn nhận giải Nobel văn chương, ông nói: “Hầu hết những tác giả, khi đi ra khỏi quê hương đều héo úa khô cằn tàn lụi và khả năng hay hứng khởi sáng tạo không còn… Nhưng tôi ra đi mang cả quê hương trong lòng. Cho nên, hoàn cảnh lưu đày của tôi không ảnh hưởng gì đến vấn đề sáng tác.” (33). Đường tàu bắt nhịp rời ga Làng quê từ ấy mờ xa, xa dần Ta cùng nhau nhé ân cần Đời hăm hở gọi theo chân bụi đường Câu nói này thể hiện tấm lòng nhớ nhung quê hương đất nước của những người xa xứ. Thân lữ khách ở đất người, nhưng lòng thì vẫn mãi hướng về quê cha đất tổ. Câu nói ấy thể hiện sự quan trọng của cội nguồn quê hương. Cây có cội, nước có nguồn – đây là chân lý, là đạo đức mà ai ai trên đời này cũng từng ghi nhớ. Với mỗi chúng ta, quê hương và gia đình luôn là điều quan trọng và là niềm tin của mỗi người. (109). Gìn ân giữ nghĩa em ơi An nhiên vui sống giữa đời bao la Thênh thang mở lối người ta Văn chương là đạo, quê là nhớ thương Với tâm tình ấy, thì ta có cảm giác trăng quê nhà sáng hơn trăng đất khách (mà trăng nơi đâu chẳng phải là trăng), mây quê nhà đẹp hơn mây bốn phương (mà mây nơi đâu chẳng là mây của trời), nước quê nhà trong mát và ngọt ngào hơn bất cứ nguồn nước nơi đâu trên quả đất… (34). Cuộc ngày đầy những gió sương Không sao em, chỉ là hương sắc tình Đầu ngày thắm nắng bình minh Suy tư cùng những linh đinh quê nhà Thi nhân ra đi là bỏ lại (hoặc tạm thời bỏ lại) sau lưng gia đình, dòng tộc, nơi chôn nhau cắt rốn, mồ mã cha ông, làng xóm, bạn bè… Ngã Du Tử ra đi là xa rời quê hương Quảng Ngãi với 12 cảnh đẹp thiên nhiên (Thập Nhị Mỹ Cảnh), cùng với 3 dòng sông bơi lội tuổi thơ: Trà Bồng, Trà Khúc (Trà Giang), Trà Câu. (51). Chiều qua thẫm một tiếng chuông Vọng về từ lúc khói sương quê nhà
(X) BẰNG HỮU TRI ÂM Bằng hữu, là tất cả những liên hệ nơi ta sinh, nơi ta ở, nơi ta sống, nơi ta đến… Với Ngã Du Tử, liên hệ ấy xoay quanh khách văn chương thi phú… Tình bạn không phai nhạt bởi không gian hay thời gian, bởi sự giam cầm của chiến tranh, bởi mệnh số, bởi khổ đau hay sự im lặng. Chính trong những ngăn trở đó mà tình bạn bắt rễ sâu nhất. Chính từ những hoàn cảnh bất lợi ấy mà tình bạn nở hoa. (69). Vui thay, trời đất dịu kỳ Khổ đau nào quản đền nghì Trúc Mai Bạn bè, thơ phú lai rai Sài Gòn ơi, cứ miệt mài bón chăm Tình yêu đúng nghĩa đã hiếm, tình bạn thật sự còn hiếm hơn. Và càng hiếm quý hơn nữa, đó là bạn văn, bạn thơ. Chắc chắn, những người bạn ấy là tri kỷ, hoặc tuyệt vời hơn, là thấp thoáng bóng dáng hồng nhan tri kỷ. Đó là những người bạn ơn nhau qua tri ngộ. Gặp nhau, biết nhau, hiểu nhau, rồi quý mến nhau… dù không cùng trường phái sáng tác, dù không cùng lập trường hay quan điểm về tôn giáo, chính trị. Tình bạn đúng nghĩa, vượt lên trên những thứ ấy. (76). Bạn bè so chén lai rai Giọt buồn đem cắn chia hai làm mồi Khổ vui còn lại bên đời Hoàng kim nào sẽ lên ngôi mai này Tình bạn, hội đủ hiểu biết, cảm thông, quan tâm và hy sinh. Gặp nhau, quen nhau giữa biển người mênh mông chính là duyên, lưu lạc giữa hồng trần lại không lãng quên nhau chính là duyên. Tâm tình tha thiết mến yêu của Ngã Du Tử đã là thâm trọng, nhưng xa hơn chính nhà thơ đã khuyên người phối ngẩu của mình cũng phải trân quý bạn bè của mình như thế. Người xưa, mà cụ thể là cha ông ta, cũng đã chủ trương: “Dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phù nhân.” Hãy dung hình thức văn chương để qui tụ bạn bè. Rồi cùng bạn bè giúp người, giúp đời, xây dựng xã hội… Đó là quan niệm tích cực của kẻ sĩ nhập cuộc, dấn thân, vào đời. (46). Mở lòng với các anh em Mùa vui rồi sẽ được êm ấm cùng Cõi người còn có riêng chung Mong em hãy gắng nắm cùng tay nhau
(XI) SONG THÂN – CHỮ HIẾU Bóng cha như vách núi. Dáng mẹ tựa dòng sông. Đạo Nho: “Nhập tắc hiếu, xuất tắc đễ, cẩn nhi tín, phiếm ái chúng nhi thân nhân, hành hữu dư lực, tắc dĩ học văn” Ở nhà phải hiếu thuận với cha mẹ, ra ngoài tôn kính bậc niên trưởng, cẩn thận giữ điều tín, gần gũi thân cận với người nhân đức, được như vậy mà còn dư sức thì học tập tri thức. (85). Sóng ngày còn những gian nan Cha đi để lại bên đàng tiếc thương Ngậm ngùi nhang khói làn hương Cha ơi, còn nỗi xót vương bên lòng Bình nhật, trong giao tế thường ngày, sự vô ơn là điều đáng khinh bỉ nhất. Nhưng kiểu vô ơn phổ biến và lâu đời nhất là sự vô ơn của con cái đối với cha mẹ. Vạn hạnh hiếu vi tiên. Một người con bất hiếu chắc chắn không bao giờ là người bạn tốt, một người tôi trung. Kinh Thánh:“Ai hiếu kính với song thân, sẽ được Thượng Đế chúc lành trong cuộc sống” (84). Tết về, trong những nhành xuân Mẹ cùng con quấn khăn tang trắng trời Người vừa cởi hạc xa khơi Lòng con còn những rối bời trần gian Một triết nhân nào đó thời xa xưa đã từng nói:“Đem lòng yêu vợ con ra yêu cha mẹ thời là hiếu; đem lòng giữ nhà ra giữ nước thời là trung; đem lòng trách người ra trách mình là tu, đời sống thời ít lỗi; đem lòng dong mình ra dong người thời trọn nghĩa.” Thật quý hóa thay. Lành thay, những người con hiếu. Chàng thi sĩ Ngã Du Tử ân hận và trách mình sao không sớm thành đạt, và tiếc rằng phụ thân ra đi quá vội… để chàng có thể trả chữ hiếu vẹn tròn. (92). Giận mình còn lắm âu lo Tiếc cha sao vội sang đò trần gian Để con nước mắt cạn dòng Thân trai còn những long đong xứ người Ngã Du Tử, có thể nói được một cách chắc chắn, mà không ngại nhâm lẫn, là nhà thơ đã tròn đạo hiếu thờ Cha, kính Mẹ trọn niềm. Mẹ và Cha cũng là sợi dây ràng buộc, nối kết thiêng liêng giữa người con Ngã Du Tử lưu lạc với quê hương Quảng Ngãi cội nguồn. (32). Giả từ quê quán thu sang Hởi non sông, nhịp bước vàng sánh đôi Thương em đôi chút bồi hồi Mẹ cùng cha vốn cái nôi quê nhà
(XII) SỨC SỐNG VĂN CHƯƠNG Có người nói: “Những phút ngã lòng, tôi vịn câu thơ mà đứng dậy…” thì Ngã Du Tử, chẳng những vịn thơ, dựa thơ… mà sống với thơ nói riêng, và với văn chương nói chung. Anh không chỉ vịn thơ khi cần, mà sống với thơ, ăn với thơ, ngủ với thơ, lớn lên với thơ… Anh là người đọc sách, biết rõ hơn ai hết sức mạnh của thơ văn, của ngòi bút. Anh đã lấy thơ văn an ủi chính mình và vợ con… để di dưỡng tâm tính… để rèn luyện đức hạnh bản thân… Công dụng và giá trị của văn chương là minh minh triết, là minh minh đức, là minh minh chí…Mục đích của người viết văn là giữ cho nền văn minh không tự hủy diệt (Albert Camus, một triết gia hiện sinh). Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn, tiếng ta còn, nước ta còn (Phạm Quỳnh một học giả, một vị đường quan). Văn dĩ tải đạo. Đạo ở đây là đạo lý và đạo làm người… (104). Thì ra, phù thế rong chơi Cũng ngần con chữ đầy vơi nỗi niềm Denis Diderot: “Thi ca là thứ nghệ thuật chung của tâm hồn, đã trở nên tự do và không bị bó buộc vào nhận thức vật chất bên ngoài; thay vì thế, nó diễn ra riêng tư trong không gian bên trong và thời gian bên trong của tư tưởng và cảm xúc.” Hegel: “Sáng tạo là đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn mạch chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có.” Văn hóa là tinh hoa, là tinh túy của một dân tộc. Văn hóa, mà văn chương là một biểu tượng chính, là linh hồn của dân tốc ấy… Văn chương trở thành ký ức sống động của một cộng đồng, một dân tộc, một quốc gia có biên giới. Chính văn chương (văn hóa nói chung) đã tạo ra bản sắc đặc thù của dân tộc ấy… và giữ gìn cho dân tộc ấy khỏi bị nô lệ và khó bị đồng hóa. (40). Văn chương là nghiệp đã đành Núi sông là nợ cùng xanh đôi bờ Một tác phẩm giá trị là một cuốn sách chẳng bao giờ kết thúc bi quan. Nó luôn gợi lên chân thiện mỹ, và hướng con người bước dần đến đích điểm cao thượng ấy… Nó chuyên chở một nội dung xây dựng, tô bồi lòng tin, ca tụng sự thành tín, xiển dương tình thương và lòng trung nghĩa. (103). Đi qua cát bụi thưa rằng: Cả đời còn nợ trang văn tự tình Nhớ người xưa, viết thi kinh Áo hoa sẽ thắm bình sinh sắc ngời Aleksandr Solzhenitsyn: “Thật bất hạnh cho một quốc gia mà nền văn học bị khống chế, cưỡng bức, chèn ép… vì sự cản trở của thế lực. Điều này không chỉ xâm phạm quyền tự do tư tưởng, ngôn luận mà còn đóng kín trái tim của một dân tộc, làm chết những khả năng sáng tạo đặc thù cố hữu của dân tốc ấy…” (2). Đêm về ngủ trọ lưng mây Ngày vui theo nhịp thuyền đầy văn thơ
ĐÔI DÒNG TẠM KẾT Tóm lại, chúng ta có thể thấy được những đề tài nổi bật mà nhà thơ muốn xoáy vào, muốn tô đậm qua 131 khổ thơ “Sóng Thị Thành và Em.” Như đã phân tích (những đề tài nổi bật đó là: (1) Dòng Đời Nghiệt Ngã (2) Quyết Định Ra Đi (3) Vốn Liếng Vào Đời (4) Gian Truân Chờ Đợi (5) Ước Mơ và Hy Vọng (6) Tận Nhân Lực, Tri Thiên Mệnh (7) Đồng Vợ Đồng Chồng (8) Vấn Đề Nhân Quả (9) Quê Hương Nguồn Cội (10) Bằng Hữu Chi Giao (11) Song Thân và Chữ Hiếu, (12) Tác Dụng và Sức Nâng Văn Chương. Qua 12 điểm nổi bật trong Sóng Thị Thành và Em ta thấy rõ tính chất kẻ sĩ của một con dân hay (một nghệ sĩ) xứ Quảng (Ngãi) đã biểu lộ khá đầy đủ trong phát biều của Nguyễn Vỹ, một nhà thơ/ nhà văn/ nhà báo tiền bối. Và một phần cũng phản ánh trung thực những nhận xét cùa Nguyễn Cư Trinh, một thời làm Tuần Vũ Quảng Ngãi, của Nguyễn Thông, kẻ sĩ đất Gia Định, tránh Tây ra làm quan cho triều đình Nhà Nguyễn, một thời trấn nhậm đất Quảng) Sau cùng, xin mời quý bạn yêu thơ, hãy đọc khổ thơ chót (#131) trong trường thi lục bát: Sóng Thị Thành và Em để thấy tấm lòng của tác giả - nhà thơ Ngã Du Tử. Thi nhân của chúng ta, vì hoàn cảnh phải ra đi, mang theo hành trang duy nhất là cô vợ bé bỏng, kinh qua bao năm nơi đất lạ quê người, làm việc trong gian truân, ngoi lên từ lòng tự tin và tự trọng để vượt qua gian khổ, mà lòng lúc nào cũng gắn bó với quê hương, nguồn cội, song thân… để cuối cùng, xứng đáng nói được rằng đã trả xong cái nợ làm trai vậy… (113). Trang văn chừng đủ yêu người Cung tay dừng bút cho đời phấn hương Nào ai hiểu hết vô thường Ta còn đi giữa khói sương đời này. Võ Thạnh Văn Viết tại Phù Hư Am, tháng 4/2021 Mùa trốn dịch Wu-Han 2019.