← Quay lại trang sách

Sa mạc Hoàng Cầm

77 tuổi, trừ ba mươi năm sa mạc, còn 47. Ba mươi cấm cố. Bốn mươi bẩy án treo, đủ để tạo một thế giới Hoàng Cầm.

Hoàng Cầm thơ không cầu mới. Không chủ đề. Không chủ thuyết. Thơ tạo hoang mạc Hoàng Cầm với những Cầm ca, bi khuất, trong nghĩa địa từ ma sầu quỷ vận.

Sa mạc Hoàng Cầm lung linh giữa mơ và thực, là cõi lên đồng âm thanh, là phường bát âm chữ nghĩa, là cơn cuồng phong lịch sử loạn mầu trong từ trường đồng thiếp, những dân ca, phong tục, truyền thuyết... Hiện tại nhập hồn quá khứ gọi nhau trong những vũ điệu bất thường hoang dại:

Ðường nắng bay từng đám hỏa hoàng

san sát rừng gươm

Gia bình - Bạch hạc

tràn lên thốc ngược cờ đốc- đồng Kinh Bắc

Trước mặt cào cào rộn cánh

tốc xiêm y trăm sắc cung tần

Trên lưng nắng hạn xém yên cương

Dưới bụng dầm dề cỏ rướn mình

uống nước mưa thổ hoàng bách chiến

Giặc cuồng vắt chân tháo chạy

Ðầu lâu lăn lóc vó

vụn xương hàm cắm mốc biên thùy

tít tắp

từ Tiên Yên Hà Cối

đến Hà Giang dựng Cổng - Giời xanh

(Ngựa 2)

.

Thơ Hoàng Cầm trải dài trong sa mạc trần gian, lấy hồi khứ làm tựa điểm. Lấy về làm khởi bút của bi kịch. Về trong không gian. Về trong thời gian. Về lại đất xưa, quê cũ. Về viếng dĩ vãng, về hỏi tuổi thơ, về lại cuộc tình, về thăm lịch sử, về với những thời đã mất: Về Kinh Bắc.

Về Kinh Bắc ở thời điểm 59-60, sau Nhân Văn, mang màu sắc chối từ. Về đây là kính nhi viễn chi hiện tại, là chào những bạc lừa khủng bố, gút-bai Hà Nội nhiễu phương "đại hạn tháng ba, lúa rang châu chấu" (Ðêm Hỏa) về tìm lại thời xa, một thời trên hiện tại, thời siêu hiện tại, thời Kinh Bắc.

Về, đây là cáo ấn từ quan, về ẩn dật. Về, đây còn là về mách mẹ, về khấn tổ tiên, về báo cáo với thánh hiền những lăng loàn của thời hiện tại. Về Kinh Bắc: Hoàng Cầm vấn kế địa linh nhân kiệt:

Lông ngỗng trải bờ lau

Sông Cầu xuôi bến Hát

(Gió lông ngỗng)

*

Tập thơ mở đầu bằng lời khấn mẹ:

Cúi lậy mẹ con trở về Kinh Bắc

để báo cáo với mẹ sự đổi đời:

Ðê mười tám khúc Văn Giang

Chuông Bách môn đổ xô gò má

Mây thành thổi lửa

Nẻo Ðông Triều khép mở gió kỳ lân

Chớp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ

Thoắt chìm

Gấu đẩy đá Thiên Thai

Toàn những "điềm" chẳng lành khấn mẹ trong đêm đầu: Ðêm Thổ. Rồi những trang thơ kế tiếp, vẫn mù mịt đêm: Bốn lần đêm nữa: Ðêm Kim. Ðêm Mộc. Ðêm Thủy. Ðêm Hỏa. Tứ phía, bốn bề Ðêm.

Ở Ðêm Kim:

Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc

Con không cười

Con thoảng nhớ thoảng quên.

Ðêm Mộc:

Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng

Ðêm Thủy:

Về Kinh Bắc phải đâu con nhắm mắt

Ðêm Hỏa:

Về Kinh Bắc tìm chơi đàn kiến lửa

và đêm Hỏa kết thúc:

Trăng lên chém đầu ngọn gió

Cành si bưng chậu máu chát chao

...

Chợt mê thét giữa sân

Nét mác chữ thiên toạc lưng trâu mộng

Máu đổ

Mây đùn

Gió lộng

Sớm mai đi

(Ðêm Hỏa)

Ở đêm hỏa này, tất cả bắt đầu: Hỏa như lửa bỏng? Hỏa như hỏa ngục? Nét mác, chữ thiên, hình ảnh khinh hoàng của Mác-Trời, dẫn đến máu đổ, mây đùn, gió lộng,... và như thế những cơn ác mộng của Hoàng Cầm bắt đầu từ Về Kinh Bắc những năm 59-60. Hỏi: tại sao tiếng thơ trong đêm sa mạc vẫn mạnh mẽ, vẫn hào hùng, vẫn muôn vàn sảng khoái? - Bởi Hoàng Cầm người có thể ngã ngựa, nhưng Hoàng Cầm thơ chưa bao giờ khuất phục.

*

Từ Hận Nam Quan, Kiều Loan, Bên Kia Sông Ðuống... Hoàng Cầm đã đa mang giấc mộng tráng sĩ một đi không trở lại.

Về Kinh Bắc lần này, chẳng qua chỉ là khúc tráng ca xuyên sa mạc của một hồn cọp dữ, gào thét những vấn nạn buổi đổi đời, "rực lửa Phong Châu", "Diêm Vương mở hội". Cọp về hỏi lại Luy Lâu đất tổ, hỏi Ba Vì, hỏi gái Cầu Lim, hỏi trai Yên Thế. Nhưng trả lời người thơ chỉ có: Thuận Thành cố đô mưa rơi không ngớt, và Cổ Loa cú rúc chòi canh, còn tất cả đã ra đi, đã âm thầm bỏ cuộc: An Dương Vương bọt bể bồ hòn, The Hà Ðông đón kiệu, bỏ quê xim, Gái Cầu Lim Nội Duệ đã đi, Trai Cầu Vồng Yên Thế đã đi.... Trừ Hoàng Cầm.

Cuộc gọi hồn không ai đáp lại. Nhà thơ tiếp tục hành trình vào đêm, sâu hơn nữa, xa hơn nữa, càng đi, lòng càng bốc hỏa:

Xé trang Luận Ngữ

lau gươm

lên đường

...

hỏi tội nghịch thần

mắt Chúa đảo thiên

Kéo áo che ngai

Né mũi kiếm vô hình xốc tới

Phanh hầm nhét vội một vầng dương

Cắn nhọn móng tay

Thơ cùm lim khắc máu

...

Vùng chặt xích bẻ gông

phá cửa

cướp ngựa hình tham tri

phóng lên ải bắc

(Ðèn Nhang 1)

Biết mình đã ngấm "thuốc độc tam ban", tráng sĩ ngược lịch sử, triệt thoái về tiền kiếp, tìm điểm tựa để truy kích quân thù, tiềm vọng ở "chiến thắng tương lai":

Chuột thành than đen xạm dọc sông Hồng

Kẻ cướp run dưới Rạng - Ðông - Thần - Thoại.

(Nắng phù sa)

Tất cả "chiến trường" xẩy ra trong vô thức, gào thét những hùng ca hồng hoang của người tráng sĩ "bóp tay vỡ toác đốt tre già" (Hội vật), "nâng một dãy Cai Kinh chạy tắp đến Cao Bằng" (Ði xa).

Hoàng Cầm gọi Trai đời Trần, gái hậu Lê về làm giấc mộng hỏa hoàng, tiền sử, để khỏa lấp bi kịch hiện tại của đời mình:

Nâng lụa ngang mày câm tiếng khóc

(Ðèn Nhang 2)

Nghiến oán thù tím ngắt nắng Phong Châu

(Ngựa 2)

*

Dù Hoàng Cầm, người, có bảo: "Hồi đó tôi không mang trong lòng -dẫu chỉ một ly- nỗi oán hận, nỗi buồn phiền, hoặc trách móc hờn giận gì ai" (Vĩ thanh).

Nhưng Hoàng Cầm, thơ, chắc có nghĩ đến việc hỏi tội "triều đình":

Ai là giặc, và ai không là giặc?

(Kiều Loan)

Hoàng Cầm, thơ, sao khỏi nhớ thời "vàng" Kiều Loan "tráng sĩ", tung hoành trong trận gió Ðống Ða:

Giặc tan hoang xô chạy gãy cầu kiều

Khắp sông Hồng vang dạy tiếng người kêu

Nước đỏ thẫm nghẹn giòng không chảy nữa

Thành Thăng Long năm ngày chưa tắt lửa

Xác giặc đầy từ kẻ chợ đến biên cương

Cờ nêu cao chiến thắng nhuốm chiêu dương

Mà rút lại cũng chỉ là giấc mộng.

(Kiều Loan)

Kiều Loan mộng cũ qua rồi.

Hoàng Cầm về Kinh Bắc lần này cúi đầu bước cùng Kinh Kha đến bờ Dịch Thủy, âm thầm gọi hồn Hạng Võ trên bến Ô Giang "hỡi hồn Tây Sở Bá Vương, cùng ta nhắp chén tà dương ngậm ngùi", hát khúc bi ca của người anh hùng ngã ngựa:

Ði

bứt lá xanh giữ cỗi cành gầy

níu cuộng lá vàng qua trận bão

Phân kim hạ kiệu

khói ly đoài thoai thoải khúc hành vân.

(Ðèn nhang 2)

Trầm hùng. Tráng kiệt. Từng trang, từng trang, Về Kinh Bắc, khi lưu thủy, lúc hành vân, thơ khóc hộ người những khúc hùng ca thời tao loạn, khúc thương ca của "cuộc dọn nhà tuần du trong sử rách", thơ hát hộ người những hùng khí u uất không đất vẫy vùng:

Vật núi núi lăn

ngáng sông sông gãy

...

Trống vẫn thúc

sạt sườn Tam Ðảo đổ nghiêng

Loa vẫn giải

núi đồi trùng trùng đi bốn hướng.

(Hội vật)

Về Kinh Bắc là bản giao hưởng dân ca bi tráng, những thăng trầm của cuộc tuần di trong lịch sử bằng tám nhịp vận hành. Mở đầu là về kinh và kết thúc là về ta: Trong tám nhịp có hai nhịp đi, hai nhịp về. Ði, về, vận chuyển tuần hoàn ba mươi năm sa mạc tạo nên anh hùng ca Kinh Bắc, luân hồi những hội ngộ đớn đau, loạn lạc, trong lịch sử dân ca, trong tình đất và tình người. Và cũng là bản Âu ca, vinh thăng người phụ nữ: người mẹ, người vợ, người chị. Họ là chỗ trọ cho linh hồn kẻ sĩ lưu vong. Yếm, váy Ðình Bảng băng bó vết thương của những anh hùng thất cơ, kiệt vận:

Con đấy ư

con đã về Kinh Bắc

Những cỏ Bồng Thi

với dế đầu si

Những lá Diêu Bông

với đôi xe hồng

luân lưu thụ thai qua chín đời

đằng đẵng

...

Mẹ đau trở dạ

Sinh ra con

Tiếng tù và xé canh ba

báo hiệu một cơn giông nín lặng

(Luân hồi)

Mẹ Kinh Bắc khởi sinh thế giới Hoàng Cầm, Mẹ là cái nôi của những bào thai biết "khóc âm y trước lúc chào đời", biết trước những sa mạc đời và đã tìm thấy cứu cánh sáng tạo trong tình yêu đồng thiếp của những người đã khuất. Nhà thơ đốt những thảo cầm: cây tam cúc, lá diêu bông, cỏ bồng thi, thành hương ngôn gửi về những chị Vinh, chị Nghĩa, chị Bắc, Phương Tuyết, Tuyết Khanh, Minh Xuân, Hồng Yến... những ngọn lửa âm đã gợi hồn sáng tạo cho nhà thơ trong đêm dài sa mạc.

*

Tình Cầm, âm thịnh dương suy.

Cỏ bồng thi, cỏ gì? Phải chăng là cỏ Ðịnh Mệnh?

Chị đưa Em đến bến này

Cheo leo mỏm đá

Trước vực

Sau khe

Thòng lọng tơ gì quấn gót

Tua khăn bông còn buộc búp hoa lan

Ù ù gió thổi

Em vọng ai đâu mà hóa đá

Không trói mà không đi

không canh gà

không thu không

Mắt không mở

đừng khép

Kìa dây muống dại kín Em rồi

(Cỏ bồng thi)

Một định mệnh ngược đời. Ðổi xếch. Tưởng một mà hai.

Trong Em có Tô Thị - Phong Kiều "em vọng ai đâu mà hóa đá" mà lại có nhiều Hoàng Cầm Nhân Văn "trước vực, sau khe", thòng lọng quấn gót, không trói mà không đi, kìa dây muống dại kín em rồi, ai rình em, ai ngó em (Tắm đêm), tha cho em, tha em (Nước sông Thương). Em đây có phải là hầm trú trong sa mạc Hoàng Cầm? Mà hoang mạc ấy đớn đau, trôi dạt, tang tóc đã từ xưa:

Mây buông vải trắng trên đầu hoa râm.

(Kiều Loan)

và không biết còn kéo dài tới bao giờ:

Giạt bèo vào đáy xanh đêm

Vào mê biển gió...

vào em một đời.

(Gửi vào gió biển)

một định mệnh dai dẳng đằng đẵng và khốc liệt:

Cái đau băm nát lời thơ máu trào

(Tinh anh thể phách)

Tình Cầm là mối tình ngược dốc. Không phải tình Anh với Em mà là tình Em với Chị. Ở đỉnh dốc ngược, một hình ảnh lạ đời hiện ra: Lá Diêu Bông.

Em đi trăm núi nghìn sông

Nào tìm thấy lá Diêu Bông bao giờ?

Lá Diêu Bông phải chăng là hạnh phúc? Là tình người? Là tự do? Là lòng trung trinh, nghĩa liệt? Là gì chăng nữa thì Diêu Bông chắc chắn chỉ là Ảo Ảnh. Lá ảo ảnh, lá hư vô, lá tuyệt mù trong cõi sống.

*

Hoàng Cầm dan díu với hư vô, trên con đường vô cùng, vô cực:

Anh đi về phía không em

(Hai ngả)

Anh đi sắp đến vô cùng

(Hai ngả)

Người thơ kết tình với cõi âm, nhịu tình với "tinh anh thể phách", "thể phách tinh anh":

Em đi lâu thế? Về đâu?

Sao đi xa thế? Bao lâu em về?

(Thể phách tinh anh)

Tình Cầm là tình với không, tình với mình, tình không có mình, tình cô đơn tuyệt đối:

Chị đây có phải em chăng

Em đâu có thật em rằng chị không

Xiết tay kết một vô cùng

Lơi tay lại vẫn đôi dòng lửng lơ.

(Gọi đôi)

Tình Diêu Bông phải chăng là Tình đá? "Tình ta đại ngàn đá biếc" như Men đá vàng? Diêu Bông một phận với cô gái đá Phong Kiều, với Phù Du, với Hải Ðông Trường Thạch, với Kiều Loan... những nhân vật của Hoàng Cầm dường chung một họ: họ Ảo Ảnh. Ảo Ảnh là nhân thể Diêu Bông:

Trăm năm nhào quyện hư vô

Biết đâu em vẫn lửng lơ hát buồn

(Hai ngả)

Diêu Bông phải chăng là oan hồn? Của những vong hình liêu trai, ảo sử, giao thoa những đam mê tuyệt vọng cùng những khát vọng hào hùng của kẻ sĩ bất phùng thời:

Hồn ma đế bá cũng lang thang

*

Hoàng Cầm khao khát mẫu hệ. Tình Cầm hắt lên mặt trái của anh hùng, khiến "cỏ cây sa lệ núi rừng ngẩn ngơ" (Kiều Loan). Tình Cầm giãi bầy những mong manh, liệt nhược trong tâm hồn kẻ sĩ, cầu mong "giải yếm lòng trai mải phất cờ". Tình Cầm mơ một Kiều Loan tráng sĩ, giải phóng người nam khỏi mặc cảm độc quyền hào hùng, cường điệu:

Chí lớn từ xưa chôn chật đất

Riêng đàn đom đóm lại thênh thang.

(Kiều Loan)

Yếm, váy Ðình Bảng buông chùng cửa võng, vực dậy, che chở cho chí nam nhi qụy lùi, ngã ngựa.

Thế giới Hoàng Cầm thăng đồng những giá trị và những con người bị sa lầy trong đời thực, tạo cho chúng một cõi Hoàng Cầm biệt cách, ly khai:

Tráng sĩ ngã ngựa bỗng nhiên lai tỉnh, đi phó hội yếm bay. Chàng phất cờ giải yếm, trai lơ Tình Cầm; chàng xuất kỵ ra quân, ngựa xe, pháo mã, tốt điều, tịnh đỏ, linh xa... chàng diễn tuồng Cầm.

Rồi thoát bỗng im bặt xa mã, ngựa, người: tuồng câm.

Thinh không có tiếng gọi:

Diêu Bông hời!

Ới Diêu Bông!

Không ai trả lời

Tất cả đã thăng

Còn lại mênh mông sa mạc Hoàng Cầm:

ù ù gió thổi

không canh gà

không thu không.

Paris, tháng 6-1998

Chú thích:

Thơ trích trong:

Men Ðá Vàng, Hoàng Cầm, NXB Trẻ, 1988

Kiều Loan, Hoàng Cầm, NXB Văn Học, Hà Nội, 1992

Lá Diêu Bông, Hoàng Cầm, NXB Hội Nhà Văn, 1993

Bên Kia Sông Ðuống, Hoàng Cầm, NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1994

Về Kinh Bắc, Hoàng Cầm, NXB Văn Học, Hà Nội, 1994

Hoàng Cầm, 99 Tình Khúc, NXB Văn Học, 1996