← Quay lại trang sách

Chương 7 Nhóm Đặc Nhiệm Clifford: Từ A Đến Z.

Ông Clifrord không phải là người xa lạ đối với cơ quan chính quyền hoặc cả với những cuộc tranh luận về chính sách tại Việt Nam. Ông phục vụ tại Nhà Trắng dưới thời Tổng thống Truman từ tháng 5-1945 đến tháng 2-1950 với tư cách là một cố vấn đặc biệt hãy còn trẻ tuổi. Rời chính quyền. Ông hành nghề luật sư tư tại Washington. Khôn ngoan về chính trị, hùng biện và giao thiệp rộng với chính quyền, tất cả đã giúp ông thành công mỹ mãn trong nghề nghiệp và sau đó không lâu. Ông nổi danh là người kiếm được nhiều thù lao nhất trong giới chuyên nghiệp trong cả nước.

Năm 1950 Clifford được Tổng thống đắc cử Kennedy giao phó cho nhiệm vụ đặt kế hoạch và liên lạc trong thời kỳ chuyển tiếp với chính phủ từ lúc bầu cử đến ngày lễ nhậm chức Tổng thống. Sau đó, Kennedy bổ nhiệm ông làm thành viên và kế sau đó là Chủ tịch hội đồng tư vấn tình báo đối ngoại (1).

Mặc dù ông đã không muốn phục vụ công quyền nữa, nhưng nhờ những sự giao thiệp rộng rãi của ông với các nhà kinh doanh lớn của Hoa Kỳ cũng như sự nhạy bén về chính trị của ông. Ông đã được ông Kennedy đánh giá cao và tín nhiệm. Ông Lyndon Johnson tiếp tục tín nhiệm ông sau khi Tổng thống Kcnnedy bị ám sát.

Cả hai Tổng thống thườg nhờ ông Clifford thăm dò ý kiến của giới điều khiển kinh doanh về chính sách của chính phủ. Vì không phải là thành viên của chính phủ nên ông Clifford có thể nhận xét về những chính sách ấy một cách vô tư và đưa ra được những khuyến nghị chín chắn dựa theo nhưng hiểu biết của ông về những nhận xét mà phần lớn các nhà kinh doanh và tài phiệt có uy thế trong nước có thể đã có đối với các chính sách ấy (2).

Đặc biệt Johnson đã đánh giá cao khuyến nghị của ông Clifford về mọi vấn đề. Ông trở thành một “người bạn lâu năm và đáng tin cậy và lời khuyến nghị của ông lúc nào cũng có sức thuyết phục, rõ ràng và có kết quả" (3).

Năm 1966, ông tháp tùng Johnson đi dự hội nghị Manila. Tổng thống mời ông giữ chức Bộ trưởng, nhưng ông thích độc lập và hành nghề luật sư hơn, quan hệ của ông với Johnson là một quan hệ bình đẳng, đó có thể là điều duy nhất đã xảy ra trong thời kỳ chính phủ Johnson: “tổng thống và tôi có mối quan hệ thẳng thắn từ đầu đến cuối”, ông Clilford xác nhận như vậy. "Tôi chả cần gì của Tổng thống cả. Tôi lớn tuổi hơn ông ấy. Mối quan hệ của chúng tôi đặt trên một căn bản hoàn toàn khác biệt với một số các cố vấn khác" (4).

Sau khi rời chức vụ Johnson xác nhận là ông Clifford (cùng với Abe Portan) đã được hỏi ý kiến về mọi quyết định quan trọng trong nhiệm kỳ Tổng thống của ông. Thực vậy, Tổng thống rất hãnh diện là ông Clifford bằng lòng nhận chức Bộ trưởng Quốc phòng vào đầu năm 1968. Tổng thống coi ông như một chỗ dựa vững chắc để ủng hộ cho chính sách của Tổng thống sau khi có sự bất đồng với ông Mc Namara (5). Ông Clifford đã giải thích tại sao ông đã quyết định phục vụ cho chính quyền Johnson như sau:

“Trước kia tôi đã được Tổng thống Johnson mời giữ nhiều chức vụ trong chính phủ, một trong những chức vụ đó là chức Bộ trưởng. Lập trường của tôi là thực ra những chức vụ đó không thuộc vào những sở trường của tôi, vả lại tôi cũng không thành thạo lắm. Tôi nghĩ rằng chả dại gì mà dấn thân vào.

Một trong những chức vụ là Bộ trưởng Tư pháp. Tôi không muốn giữ chức vụ này, tôi có nói là có lẽ nên để tôi phục vụ trong những lĩnh vực mà tôi thích thú và thành thạo. Tôi đã dùng lý lẽ nào để từ chối những chức vụ khác trong chính phủ. Tôi nghĩ rằng tôi có thể góp phần trong những lĩnh vực chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia.

Tôi vẫn giữ vững lập trường đó. Nó quả là một lập trường cứng rắn của tôi. Tuy nhiên, trong thời gian này, Tổng thống vời tôi vào mời ngồi và bảo là ông muốn tôi giữ Bộ quốc phòng. Quả vậy ông đã đặt tôi vào thế "gậy ông đập lưng ông". Tôi đã có lần nói với ông đó là lĩnh vực mà tôi muốn hoạt động. Ông nói đó chính là lĩnh vực của tôi và đó cũng là cơ hội tốt để phục vụ đắc lực cho tổ quốc! Tôi lâm vào thế không thể nào cưỡng lại được.

Vả lại tôi cũng có một số kiến thức về quốc phòng. Một trong những công việc đầu tiên tôi được giao phó dưới thời kỳ Tổng thống Truman, vào năm 1945 trước kia là vấn đề thống nhất các binh chủng. Tôi phụ trách công việc này đến 4 hoặc 5 năm. Tôi góp phần soạn thảo Đạo luật Thống nhất năm 1947 và các luật lệ kế tiếp vào năm 1949. Đó thực sự là những thành tựu tốt.

Năm 1960, Tổng thống Kennedy bổ nhiệm một nhóm phụ trách đặt kế hoạch thống nhất các lực lượng vũ trang nhiều hơn nữa. Tôi là một thành viên của nhóm này. Cho nên vấn đề quốc phòng đối với tôi chính đã là một mối quan tâm liên tục trong suốt nhiều năm. Buổi đầu tiên Tổng thống Johnson đề cập với tôi vấn đề này, tôi đã đồng ý ngay. Chúng tôi đã thỏa thuận về nhiệm vụ của tôi ngay từ buổi chiều hôm ấy" (6).

Ông Clifford nhận chức Bộ trưởng Quốc phòng làm cho Tổng thống hài lòng, nhưng các giới chức dân sự cao cấp của Lầu Năm Góc đón nhận ông không nhiệt tình lắm. Họ là người của ông McNamara và không một ai có thể là, trừ ông Cyrus Vance ra, thực sự lại sẽ có thể được hoan nghênh để kế nhiệm cho ông McNamara.

Ông Clifford được các viên chức dân sự cao cấp này xem như là một bạn chí thân của Tổng thống, được tiến cử vì có quan hệ chính trị chứ không phải vì hiểu biết về các lĩnh vực quốc phòng, một người chưa khi nào nắm quyền điều khiển một tổ chức nào cả trừ một văn phòng luật nhỏ bé. Những tay chân của ông McNamara tại Lầu Năm Góc không muốn có chính khách tài tử, một ông Smooth nào đó, nổi tiếng là thích tiền bạc và phè phỡn ăn diện.

Đặc biệt họ không muốn có một người cứng rắn, một người từng nổi tiếng ủng hộ việc ném bom Bắc Việt coi đó như là một giải đáp cho cuộc chiến tranh. Hơn thế nữa, họ sợ là ông chỉ được bổ nhiệm xử lý thường vụ trong những tháng cuối cùng của nhiệm kỳ Tổng thống thứ nhất của ông Johnson, cốt để xoa dịu quốc hội và quần chúng cho đến khi bầu cử Tổng thống xong (7).

Những phụ tá dân sự chính yếu trong phục vụ dưới thời kỳ ông McNamara tại Bộ quốc phòng đã cùng chia sẻ với ông và thực sự cũng đã giúp ông hình thành một quan niệm về sự dính líu của Hoa Kỳ vào Việt Nam khác hẳn với quan niệm của giới quân sự cũng như của Bộ Ngoại giao. Quan niệm này đã được trình bày trong bị vong lục của ông McNamara gửi Tổng thống ngày 1 tháng 11 năm 1967.

Khi ông Clifford được bổ nhiệm rồi thì nhiều người trong số các viên chức cao cấp này đã dự tính muốn nghỉ việc, họ không hoan nghênh sự bổ nhiệm cũng như hướng tâm họ không thể cho phép họ phục vụ một vị bộ trưởng mà quan điểm hoàn toàn khác biệt với quan điểm của họ, một vị bộ trưởng đặt tin tưởng vào cái mà họ nghĩ là chính sách như thế chấp nhận được, chính sách ném bom Bắc Việt, coi đó như là một giải pháp cho cuộc chiến.

Lối thoát cho những viên chức này, mà đa số đã phục vụ nhiều hơn và đã giúp tạo nên chính sách của chúng ta về Việt Nam, là hoặc có thể tiếp tục cộng tác với vị Bộ trưởng mới hoặc có thể làm chuyển biến quan điểm của Bộ trưởng cho phù hợp với quan điểm của họ.

Paul Warnke, Trợ lý Bộ trưởng quốc phòng về các vấn đề an ninh quốc tế, có lẽ là viên chức gần gũi nhất và có ảnh hưởng nhiều nhất đối với ông tân Bộ trưởng. Có lẽ ông đã thường gặp ông Clifrord nhiều hơn các người khác. Còn những người khác cũng có tiếng nói quan trọng và thường gặp được ông Clifford thì gồm có Paul Nitze. Phụ tá Bộ trưởng quốc phòng về những vấn đề công cộng.

Những cuộc họp hàng ngày của ông Clifford với các viên chức này có thể là quan trọng hơn là các cuộc họp với nhóm đặc nhiệm chính thức để làm sáng tỏ quan điểm của ông Bộ trưởng về chính sách của Hoa Kỳ tại Việt Nam trong những ngày đầu ông mới đảm nhiệm chức vụ.

Ông Nitze là viên chức vừa có kinh nghiệm vừa có tư tưởng độc lập. Ông kiên quyết cho rằng những cố gắng của chúng ta tại Việt Nam đã làm sai lệch chính sách của Hoa Kỳ tại các khu vực quan trọng khác trên thế giới. Ông đã nhận định tình hình như sau:

"Hồi ấy đối với tôi, dường như rõ ràng là chúng ta đang gặp phải nhiều khó khăn to lớn ở những khu vực ngoài Việt Nam, có liên quan đến chính sách của chúng ta cũng như toàn bộ chính sách đối với các đồng minh thuộc khối Bắc Đại Dương, để những lực lượng thuộc chương trình 1 và quan trọng hơn hết là liên quan đến sự ủng hộ ở trong nước Hoa Kỳ, đối với một chính sách ngoại giao hướng ra thế giới bên ngoài. Người ta không nên coi việc loại cuộc chiến tranh lật đổ tại Việt Nam bầng nỗ lực là một mục tiêu tuyệt đối. Rõ ràng đó là một mục tiêu quan trọng, nhưng cần phải được xem xét trong khuôn khổ tương quan với toàn bộ những mục tiêu và chính sách khác của chúng ta” (8).

Ông Nitze nghĩ rằng chúng ta chưa định rõ được một liên hệ giữa các mục tiêu của chúng ta ở Việt Nam và những mục tiêu khác của đất nước. Rõ ràng phải có giới hạn cho những lực lượng có thể gửi đi và thời gian hoạt động tại đó, nhưng những giới hạn này đã không được xác định dứt khoát.

Theo ông những mục tiêu của chúng ta về Việt Nam như đã được công bố, đã đưa đón sự dính líu không hạn định và lịch sử của cuộc dính líu vào Việt Nam chỉ là diễn lại vấn đề tăng cường sự yếu kém để khỏi phải “chịu nhục phải thương lượng để đạt những kết quả ít hơn là các mục tiêu của chúng ta đã đề ra". Nhưng ông nghĩ rằng, bây giờ đã đến lúc phải duyệt xét lại chính sách ở Việt Nam trong khuôn khổ toàn bộ chiến lược về chính trị và quân sự của chúng ta" (9).

Trong thời gian đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng Hải quân, ông Nitze đã đinh ninh rằng dội bom Bắc Việt Nam có thể sẽ không buộc được Hà Nội phải đến bàn hội nghị, cũng như sẽ không cắt đứt được nguồn tiếp tế ít ỏi và chuyển lực lượng cần thiết để nuôi dưỡng chiến tranh miền Nam. Ngoài ra, dội bom Bắc Việt sẽ gây hiểm họa leo thang xa hơn nữa. Ông có nhắc lại:

“Khi tôi giữ chức Bộ trưởng Hải quân và Harold Brown, Bộ trưởng Không quân, Ông Mc Namara yêu cầu chúng tôi xem xét đến hiệu quả của một cuộc tấn công bằng không quân tại Bắc Việt Nam để ngăn chặn nguồn tiếp tế vào miền Nam Việt Nam, và nếu cần thì sẽ có thể làm được gì để tăng thêm hiệu quả cho cuộc không kích ấy trong phạm vi đó. Tôi họp Bộ Tham mưu hải quân. Ông Harold Brown họp Bộ Tham mưu không quân. Kết quả các cuộc nghiên cứu cho thấy dù làm cách gì đi nữa thực sự không có thể nào tăng hiệu quả cuộc oanh kích tới mức độ mà Bắc Việt không còn có thể tiếp tế đủ cho những nỗ lực của họ ở miền Nam nữa trừ phi phải không kích gây áp lực cho toàn bộ miền Bắc. Mãi đến khi tôi giữ chức Phụ tá Bộ trưởng quốc phòng tôi cũng vẫn giữ quan điểm đó về vấn đề này” (10).

Vì thế cho nên ông Nitze nghĩ rằng chúng ta nên ngưng hoàn toàn ném bom tại Bắc Việt và nhờ đó sẽ giảm được hiểm họa leo thang. Làm như thế, ông nghĩ rằng chúng ta sẽ nhận được sự cam kết của Bắc Việt Nam sẽ không vi phạm vĩ tuyến 17 bằng pháo hoặc chuyển lực lượng vào nữa (11). Đây là một quan điểm mà sau này ông Clifford nhận thấy rất là hấp dẫn.

Cùng với việc hạn chế về tiềm lực kinh tế và quân sự được đưa vào Nam Việt Nam và việc ngưng ném bom miền Bắc, ông Nitze thấy còn phải ban hành một chỉ đạo chiến lược mới cho vị tư lệnh tại Nam Việt Nam. Nói chung, chỉ đạo này sẽ chỉ thị vị tư lệnh tập trung vào việc giúp đỡ chính phủ Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa khôi phục lại hiệu lực của họ như lúc trước Tết, trong khi vẫn phải bảo vệ an ninh tối đa cho các khu vực đông dân tại Nam Việt Nam. Điều này tất nhiên đòi hỏi phải bớt chú trọng đến việc cấp những phương tiện dành cho việc phòng thủ biên giới, cũng như giảm bớt các cuộc hành quân tìm diệt địch tại những vùng hẻo lánh (12).

Ông Nitze nghĩ rằng vấn đề then chốt ở Việt Nam trong thời gian trước mắt là xem "ai là người sẽ rút ra khỏi được vũng lầy này trước" và do đó những việc gì có thể làm được ngay sẽ là vấn đề tối ư quan trọng. Điều này khiến ông tin tưởng là cần phải gửi thêm 50.000 quân cho Đại tướng Westmoreland trước tháng 6 "để đáp ứng sự củng cố rất cần thiết cho những nỗ lực của chính quyền Nam Việt Nam".

Ông cũng nhận thấy cần gọi nhập ngũ lực lượng dự bị chiến lược. "Tôi nghĩ rằng thực là thiển cận nếu tiếp tục rút bớt lực lượng dự bị chiến lược ở Hoa Kỳ khiến ta không còn khả năng linh hoạt để tăng cường nữa” (13).

Ông Paul Warnke, Trợ lý bộ trưởng quốc phòng về các vấn đề an ninh quốc tế, có nhiều quan điểm khác xa với ông Nitze nhưng vì nhiều vấn đề chủ yếu lại có cùng một ý kiến như nhau. Ông Warnke cho rằng Hoa Kỳ đã phạm lỗi lầm, là đã dính líu trước tiên vào Việt Nam. Ông có cảm tưởng rằng những lời tuyên bố về những tiến bộ do các tư lệnh chiến trường dựa chỉ là hão huyền và chúng ta chỉ đi tới chỗ bế tắc mà thôi.

Về tình hình quân sự đến cuối năm 1967, ông có nói: "Theo ý kiến riêng tôi, về căn bản tình hình đó không thích đáng bởi vì chúng ta chẳng thực hiện được bất cứ một tiến bộ nào về chính trị cả. Tôi tưởng như là chúng ta chỉ đang tập trung vào một việc làm sai trái. Tôi cũng tưởng như là chúng ta đang thắng, chúng ta có thể tiếp tục thắng, chúng ta có thể thắng hàng năm nhưng có lẽ tình thế cuối cùng sẽ chẳng có gì thay đổi, trừ phi là chúng ta thực hiện được những tiến bộ về chính trị. Tôi vẫn phán đoán là vào cuối một năm, chúng ta cũng sẽ vẫn dậm chân tại chỗ, ngoại trừ là lại mất thêm 10.000 người Mỹ thương vong nữa" (14).

Ông Warnke lúc đó đã giúp thuyết phục ông McNamara là cần có một chiến lược mới cho Việt Nam. Căn bản chiến lược mà tôi nghĩ là cần phải theo đuổi đã được trình bày trong bị vong lục mà Bộ trưởng McNamara đã gửi Tổng thống Johnson hồi tháng 11.

Trong giai đoạn đó, chúng tôi nghĩ là cần phải giảm bớt sự tham dự của Hoa Kỳ, phải xuống thang dội bom, phải cố gắng đi vào thương lượng và, nếu thất bại thì phải ở trong tư thế nên duy trì mức chiến đấu thấp cho một thời kỳ dài hơn (15).

Lúc đó vào đầu tháng 3, ông Warnke nghĩ rằng nhiệm vụ ông phải đương đầu là làm sao chuyển biến được ông Clifford, một diều hâu từ lâu nổi tiếng đã ủng hộ việc dội bom ồ ạt tại Bắc Việt để ông này thuận theo quan điểm của ông, ông cũng biết rõ là nếu ông Bộ trưởng mới chấp nhận những đề nghị của các tướng Wheeler, Westmoreland thì hầu hết những hạn chế và hạn định mà ông và ông McNamara đã dày công tranh đấu để ấn định cho các cuộc hành quân tại Đông Dương sẽ chẳng mấy chốc mà bị hủy bỏ.

Như ông Warnke khẳng định tình hình: "Mối quan tâm của tôi là vấn đề liệu tôi có thể làm việc hay không với ông Bộ trưởng quốc phòng đặc biệt này, liệu chính sách và đường lối của ông ấy phù hợp với tôi hay không. Trong trường hợp ông thì rõ ràng là rất ăn ý với nhau. Trường hợp ông Clark tôi hi vọng cũng sẽ như vậy Nếu không được như vậy chắc chắn tôi sẽ không đả kích, có lẽ tôi sẽ nghỉ việc" (16).

Ông Clifford không có một quan niệm chiến lược thâm sâu và bao quát về vai trò của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á. Nhận định của ông và lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ ở phần đất này của thế giới, đã được hình thành trong thời kỳ chuyển tiếp giữa nhiệm kỳ Eisenhower và Kennedy.

Trong buổi gặp mặt cuối cùng giữa Tổng thống ra đi và Tổng thống mới đến, ông Clifrord có mặt lúc ấy, Eisenhower đã nhấn mạnh với tân Tổng thống về tầm quan trọng của nước Lào trong việc phòng thủ Đông Nam Á. Ông Clifford đã đồng quan điểm như vậy, ông cũng đã ủng hộ ông Kennedy đang bắt đầu tin rằng Việt Nạm là rất quan trọng đối với việc phòng thủ Đông Nam Á (17).

Ông được Tổng thống Johnson hỏi ý kiến về việc tăng quân Mỹ tham chiến tại Nam Việt Nam hồi 1965. Ông tỏ ra không nhiệt tình về hành động này, nhưng một khi mà quân Mỹ đã tham chiến thì ông Clifford đã cương quyết chống đối việc tạm ngưng ném bom từ Noen 1965 đến Tết Dương lịch 1969 (18).

Đến cuối tháng 11 năm 1967, bình luận với Tổng thống về đề nghị ngưng ném bom của ông McNamara, ông Clifford đã nói rõ những lời phản đối của ông: "Việc ngưng ném bom không điều kiện mà không có cố gắng nào để đòi hỏi một sự đáp ứng tương xứng, liệu có làm cho Hà Nội tin rằng chúng ta đủ kiên quyết và không nhân nhượng trong niềm tin bắt buộc họ phải từ bỏ những ý đồ xâm lược không? Câu trả lời lớn tiếng và đanh thép sẽ là "không". Hà Nội có thể giải thích sự kiện ấy như là:

a) Bằng chứng cho thấy chúng ta đã chán nản và thất vọng.

b) Chúng ta đã thừa nhận sai lầm và vô nhân đạo khi ném bom miền Bắc.

c) Bước đầu cho việc sau này chúng ta sẽ phải rút hoàn toàn khỏi cuộc chiến tranh" (19).

Về sau này ông Clifford cũng đã đưa ra những lý lẽ đó để bảo vệ cho lập trường của ông:

"Tôi ủng hộ Tổng thống Johnson về vấn đề Việt Nam. Tôi tin tưởng ở chính sách của chúng ta. Tôi thừa nhận thuyết đôminô như thuyết này đã được đưa ra lúc ban đầu mô tả thuyết này cũng đơn giản thôi và tôi nghĩ rằng chúng ta phải chống lại. Tôi đã hiểu rõ thế nào là đường lối bành trướng xâm lược của Liên Xô trong thời gian tôi làm việc với chính quyền Truman. Tôi so sánh sự việc đó với tình hình hiện nay ở Đông Nam Á.

Chính sách của chúng ta dường như là đang đưa chúng ta ra khỏi nơi mà chúng ta muốn rút khỏi. Chừng nào tôi còn nghĩ rằng chúng ta đã thực hiện được tiến bộ và chúng ta rút khỏi được những nơi mà chúng ta muốn rút thì chừng đó tôi còn ủng hộ chính sách. Người ta có thể thấy rõ điều này trong một buổi họp giữa những vị được mệnh danh là những Nhà lão thành với Tổng thống vào tháng 11 năm 1967. Hội nghị đều nhất trí không có bất đồng quan điểm, có lẽ chỉ trừ ông George Ball là không đồng ý đối với chính sách của Tổng thống. Chúng tôi nói với Tổng thống là ông đang đi đúng đường và Tổng thống rất hài lòng. Chúng tôi cảm thấy như vậy là vì chúng ta đang thực hiện được những tiến bộ để đi đến những mục tiêu đã được đề ra. Chúng ta đang thắng cuộc và không nên thay đổi. Dường như chúng ta sẽ chiếm ưu thế, do đó nên duy trì áp lực” (20)

Những hoài nghi đã bắt đầu đến với ông Clifford. Vào cuối hè năm 1967, theo yêu cầu của Tổng thống, ông và Đại tướng Taylor đã tới châu Á để thuyết phục các chính phủ liên hệ về khả năng sẽ tham chiến hoặc tăng quân của họ ở Việt Nam. Điều người ta đã thấy rõ ràng, là các quốc gia này cũng quan tâm như Hoa Kỳ đến cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Như Clifford nhắc lại: “tôi trở về với nhiều sự nghi ngờ. Thật bực mình khi thảo luận về thuyết, tôi nhận thấy về phía các nhà lãnh đạo các nước mà chúng tôi đến thăm đều có cùng chung một quan điểm là họ không chấp nhận thuyết đó, điều này đã xảy ra nhiều sự ngờ vực nhưng những sự ngờ vực này vẫn chưa đủ để làm thay đổi ý nghĩ của tôi cũng như không làm thay đổi được quan điểm căn bản của tôi. Tôi vẫn ủng hộ chính sách của Tổng thống" (21).

Cảm nghĩ của ông Clifford đã được biểu lộ trong buổi điều trần xác nhận của ông trước Thượng Viện. Ngày 29 tháng 9 năm 1967, trong diễn văn đọc tại San Antonio, Tổng thống Johnson đã đưa ra một cơ sở mới cho việc ngưng dội bom Bắc Việt, một cơ sở với ít điều kiện và kém nghiêm khắc hơn so với bất kỳ đề nghị nào trước đó đã được đưa ra cho Hà Nội:

“Như tôi đã nói với Hà Nội lần trước, lần qua và lần này nữa, trọng tâm của vấn đề là thế này: “Hoa Kỳ sẵn sàng ngưng mọi cuộc oanh tạc của không quân và của hải quân tại Bắc Việt, khi mà việc này sẽ đưa đến nhanh chóng những cuộc hột đàm có ích. Dĩ nhiên, chúng tôi cho rằng trong khi tiến hành hội đàm, Bắc Việt sẽ chẳng nên lợi dụng việc ngưng hoặc hạn chế ném bom" (22).

Đề nghị này đã được nhắc tới như là "công thức San Antonio” và cũng đã được giải thích theo nhiều cách trong nội bộ chính phủ Hoa Kỳ. Ông Dan Rusk nói rằng công thức được để lững lờ cố ý để cho mơ hồ như cốt để muốn moi một câu trả lời nào đó của Hà Nội (23).

Ông Cliìford, trong buổi thuyết trình tại Bộ ngoại giao trước buổi điều trần xác nhận của ông tại Quốc hội đã tỏ ra nản chí khi được biết rằng công thức San Antonio đã được Bộ ngoại giao giải thích như là: đáp lại việc tạm ngưng ném bom miền Bắc, Bắc Việt phải chấm dứt đưa người và dụng cụ chiến tranh vào Nam Việt Nam. Ông Clifford thấy là sự giải thích như vậy đã làm cho công thức San Antonio trở thành gần như vô nghĩa, không thể đưa đến con đường đàm phán, bởi vì thật là hoàn toàn không thực tế, nếu người ta mong đợi Bắc Việt sẽ bỏ rơi người của họ tại miền Nam và không cung cấp áo quần, thực phẩm, đạn dược và các nguồn tiếp tế khác cho những người này (24).

Vì thế, trong lời xác nhận trước ủy ban quốc phòng Thượng viện, ông Clifford đã trình bày lối giải thích rộng rãi của riêng ông về công thức San Antonio, một lối giải thích mà ông chỉ cho là thực tế hơn và có thể đưa ra điều kiện thích hợp để đàm phán. Phần chính yếu ở lời xác nhận ấy như sau:

Thượng nghị sĩ Thurmond:

- Khi ông nói đến đàm phán và trong trường hợp như vậy, có lẽ ông cũng muốn có sự chấm dứt ném bom, tôi nghĩ rằng có lẽ ông cũng dự tính là họ cũng sẽ ngừng một hoạt động quân sự để đáp lại việc ngừng ném bom chứ.

Ông Clifford:

- Không, tôi không nói như vậy. Tôi không mong rằng họ chấm dứt mọi hoạt động quân sự. Tôi hi vọng là chỉ nói theo lời của Tổng thống. Khi ông nói rằng nếu họ đồng ý bắt đầu đàm phán nhanh chóng và không lợi dụng thời gian tạm ngừng ném bom...

Thượng nghị sĩ Thurmond:

- Ý ông muốn nói gì về lợi dụng? Nếu họ vẫn tiếp tục những hoạt động quân sự.

Ông Clifford:

- Tôi cho rằng những hoạt động quân sự của họ vẫn sẽ tiếp diễn tại Nam Việt Nam cho đến khi thỏa thuận được ngừng bắn. Tôi thừa nhận là họ vẫn tiếp tục vận chuyền số lượng thực phẩm, đạn dược và người vào Nam Việt Nam như bình thường. Tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ tiếp tục duy trì lực lượng Hoa Kỳ và yểm trợ lực lượng của chúng ta trong thời gian đó. Vậy nên điều mà tôi đề nghị theo đúng như ngôn từ của Tổng thống là Tổng thống có lẽ đã nhấn mạnh là Bắc Việt không được lợi dụng sự ngừng oanh tạc (26).

Nhiều ngày sau đó, lời xác nhận của ông Clifford mặc dầu có nhiều mong đợi về tác dụng của nó, đã được Bộ ngoại giao xác nhận như là lập trường của chính phủ Hoa Kỳ. Trong khi sự kiện trên đã đem lại được một sự xoa dịu đáng kể, thì việc ngưng ném bom vô điều kiện là một điều kiện mà Bắc Việt đang đòi hỏi vẫn chưa được thực hiện.

Việc rắc rối này chính đã là đầu mối cho tâm trạng mà ông Clifford đã mang theo không đảm nhiệm chức vụ Bộ trưởng quốc phòng: “Sự việc đã xảy ra như vậy, Bộ ngoại giao đã nhượng bộ theo quan điểm của tôi thay vì đặt thêm vấn đề, họ đã chịu theo. Nhưng có cái gì thôi thúc trong tôi cho thấy là tôi đang tìm kiếm một giải pháp thương lượng" ông Clifrord đã nhận ra được rằng giữa quan điểm và nhận định của vị cố vấn ở bên ngoài và của người cầm quyền cai trị và người làm chính sách có trách nhiệm đã khác biệt nhau biết bao nhiêu.

Nếu chỉ là một nông dân thường. Ông chả cần phải nghiên cứu sâu sắc để biện hộ cho những chính sách của chúng ta tại Việt Nam. Với cương vị Bộ trưởng quốc phòng, ông đã phải hoàn toàn và bù đầu ngay với những quyết định chua xót khó khăn và phức tạp do báo cáo của Đại tướng Wheeler đòi hỏi phải ban hành.

Ngay trước khi nhậm chức, khi nói chuyện với McNamara ông Clifford đã được biết là ông McNamara không tin tưởng vào chiến dịch ném bom (27). Ông Nitze cũng đã muốn thuyết phục ông bộ trưởng nói theo những quan điểm cua ông ta và ông Roopes, Thứ trưởng Bộ không quân đã viết thư riêng gửi ông Clifford đề nghị tạm ngưng ném bom cũng như khi áp dụng chiến lược giảm tiến công trên bộ đã gây ít thương vong hơn.

Ông Clifford lắng nghe và đọc kỹ nhưng chưa tỏ dấu hiệu là ông đã nhất trí việc ông tìm hiểu thông tin và những hậu quả vô cùng phức tạp của cuộc chiến tranh Việt Nam xét về mặt chiến lược và chính trị chỉ mới bắt đầu từ lúc ấy.

Sự hiểu biết này đã tăng lên nhanh chóng. Buổi chiều ngày 28-2, ông Clifford đã chủ tọa một buổi họp đầu tiên với nhóm người đã được cử ra để giúp ông nghiên cứu những đề nghị của Đại tướng Wheeler. Tham dự buổi họp, ngoài ông Clifford ra còn có các bộ trưởng Rusk, McNamara và ông Fowler, Thứ trưởng Bộ quốc phòng Nitze, ông Richard Helms thuộc Cục tình báo trung ương, ông Walt Rostow và Đại tướng Maxwell Taylor. Đại tướng Wheeler không có mặt trong buổi họp. vì Tổng thống yêu cầu ông báo cáo với hội đồng chính phủ về kết quả chuyến đi Sài Gòn của ông (28).

Tại buổi họp đầu tiên này ông Clirford trình bày với nhóm trên đây. sau này được gọi là "nhóm đặc nhiệm Clifford” nhận thức của ông về trách nhiệm mà Tổng thống đã giao phó cho họ. Trong số những người tham dự buổi họp đã có một vài khác biệt liên quan đến mục đích của những chỉ thị đã được Tổng thống gửi cho ông Clifford.

Ngày 28-2, Tổng thống nói rõ là căn cứ trên những ý kiến của ông, ông Rostow sẽ soạn một bản hướng dẫn cho nhóm đặc nhiệm làm việc. Bản hướng dẫn này là bản dự thảo theo đề nghị của ông McNamara, có thể thay đổi khi việc nghiên cứu diễn tiến, và được gửi đến những thành viên của Nhóm đặc nhiệm để hướng dẫn công việc. Khi nhóm đặc nhiệm hoàn tất công việc, bản phúc trình được ký tên và gửi đến ông Clifford và ông Rusk để lưu hồ sơ. Chỉ thị của Tổng thống như ông còn nhớ, đã yêu cầu phân tích thật rộng rãi, đề cập đến nhiều sự lựa chọn. Chỉ thị nêu rõ:

“Như tôi đã nói rõ trong buổi điểm tâm sáng nay. Tôi mong muốn đến sáng thứ hai, ngày 1 tháng 3, quí vị sẽ trình bày cho tôi những khuyến nghị để đối phó với tình hình do Đại tướng Wheeler nêu ra cũng như đối với những đề nghị sơ khởi của ông. Tôi mong rằng những giải pháp để cho chúng ta lựa chọn sẽ được nghiên cứu và càng tốt nếu nhất trí đưa được những khuyến nghị khả dĩ dung hòa được những khó khăn về các mặt quân sự, ngoại giao, kinh tế, quốc hội, dư luận đó liên quan đến việc này. Đặc biệt trong số các vấn đề này, tôi mong muốn quí vị xem xét đến những vấn đề đặc biệt sau đây:

- Vì mục tiêu quân sự gì hay vì những mục tiêu nào khác ở Việt Nam mà cần phải tăng thêm lực lượng Hoa Kỳ?

- Việc tăng quân, dự trù muốn tránh được những nguy cơ đặc biệt nào?

- Việc tăng quân, nếu có đề nghị, sẽ cốt để thực hiện những mục tiêu đặc biệt nào trong vòng 6 tháng tới hay trong năm tới?

- Quý vị dự kiến là Cộng sản sẽ có thể có những phản ứng như thế nào liên quan đến mỗi giải pháp quí vị đang xem xét?

- Nói chung, chúng ta phải đưa ra những lập trường đàm phán như thế nào?

- Quý vị có thể đề nghị những thay đổi gì, nếu có liên quan đến công thức San Antonio?

- Có thể dự kiến được những khó khăn chính yếu nào về phía quốc hội và nên giải quyết ra sao?

- Có thể dự kiến được những khó khăn gì về phía dư luận ở Hoa Kỳ và nên đối phó ra sao?

Quí vị có thể thoải mái tham khảo ý kiến với các viên chức có những hiểu biết nhất trong chính phủ, để nghiên cứu các khía cạnh đặc biệt của vấn đề để lập báo cáo, tuy nhiên quí vị cần phải đảm bảo giữ bí mật đến mức cao độ nhất cho đến khi nào quyết định của Tổng thống về các vấn đề trên đã được công bố'' (29).

Tuy nhiên, ông Clifford có ghi lại là ông không hiểu biết gì và cũng không hề nhận được chỉ thị đó. Theo sự hiểu biết của ông thì mục tiêu của ông là "Xác định xem nhu cầu mới này có thể thỏa mãn bằng cách nào. Chúng tôi không nhận được chỉ thị phải ước định nhu cầu tăng thêm một số quan trọng về người và phương tiện vật chất là bao nhiêu, chúng tôi chỉ nghĩ cách tìm ra những phương tiện để cung cấp được số lượng đó mà thôi” (30).

“Khi nhóm đặc nhiệm bắt tay vào việc, tôi bảo đảm là không có chỉ thị gì cả. Tôi hoàn toàn không thấy có chỉ thị nào". Ông Clifford nhắc lại như vậy. "Chúng tôi nhớ thật rõ là chúng tôi không nhận được chỉ thị viết nào cả. Cho đến khi hoàn thành nghiên cứu và nộp báo cáo, chúng tôi cũng không nhận được gì cả. Thường thường khi đệ trình một báo cáo thì phải tham chiếu chỉ thị theo đó công việc đã được tiến hành. Đó là cơ sở để tham khảo của báo cáo. Vậy mà trong báo cáo gửi Tổng thống tôi không có tham chiếu chỉ thị nào cả" (31).

Bầu không khí chính trị tại Nhà trắng trong những ngày tiếp theo vụ tấn công Tết càng khiến Clifford nhận định là nhiệm vụ của ông chỉ là làm thế nào để cung cấp quân cho Đại tướng Westmoreland theo như ông này yêu cầu. Như ông Clifford đã nhắc lại việc ấy:

"Từ khi địch bắt đầu tấn công vào dịp Tết, đã có hàng loạt những buổi họp với giới quân sự. Tổng thống luôn luôn hỏi họ có chắc là họ đã có tất cả những gì cần thiết để ngăn chặn khỏi thua trận chưa. Trong thời gian đó, Tổng thống thường nhắc đến Lincoln và Mc Cellan. Nói đến việc ông Mc Cellan đã thưa là ông không được cung cấp đủ phương tiện để hoàn thành các nhiệm vụ quân sự.

Không còn nghi ngờ gì nữa. Tổng thống đã cho chúng tôi biết có thể là ông sẽ cấp cho Đại tướng Westmoreland những gì cần đến. Tâm trí tôi không cần ngần ngại gì nữa, rõ ràng ý muốn của Tổng thống là chúng tôi cần phải xem Đại tướng Westmoreland đã có mọi thứ ông cần chưa và chúng tôi phải làm sao để có thể gửi tới ông những gì đã được yêu cầu và phải xem việc đó sẽ có thể gây ra những hậu quả gì đối với chính phủ và đất nước. Nhưng toàn bộ việc phải làm là: “chúng ta phải làm gì để gửi cho Đại tướng Westmoreland những gì ông cần" (31).

Thực vậy, sau này Tổng thống đã có phản ánh thái độ ấy như sau:

"Đầu năm 1965, tôi lo lắng chúng ta có thể đóng góp gì nhiều hơn nữa cho Việt Nam. Thêm người, thêm thiết bị, thêm tiền. Nếu Tướng Westmoreland cố nài rằng chỉ có lực lượng tăng viện đông đảo mới ngăn chặn được mối nguy hiểm đối với binh sĩ của ông thì có thể tôi đã cố xoay sở để tìm cho được rồi" (32).

Rõ ràng là thực sự chỉ thị của Tổng thống có được gửi đến Bộ ngoại giao và Bộ quốc phòng. Tuy nhiên, dường như chỉ thị này không ra lệnh phải ước định lại toàn bộ những chiến lược có thể được lựa chọn đối với vấn đề Việt Nam, cũng như không hề ảnh hưởng đến phương hướng hoạt động của nhóm đặc nhiệm Clifford.

Ông William Bundy sẽ căn cứ vào một chỉ thị của Tổng thống trong bản bị vong lục do ông viết để vạch ra nét chính cho các tài liệu đặc biệt để Nhóm đặc nhiệm Clifrord sẽ soạn thảo. Bị vong lục này nêu rõ:

"Bộ trưởng quốc phòng và Bộ trưởng ngoại giao trong khi chờ đợi sẽ nghiên cứu trước bản thảo chỉ thị của Nhà trắng. Chỉ thị sẽ phải được soạn thảo lại trước buổi họp ngày thứ bảy, để thích ứng với đường hướng mà Nhóm đặc nhiệm đang làm việc" (33).

Nhưng bây giờ ông Bundy không còn nhớ gì về chỉ thị ấy, ông có nhắc lại: "Tôi không nghĩ rằng có người nào trong buổi họp nêu lên chỉ thị của chúng ta là gì? Chỉ thị của chúng ta là phải xem xét thấu đáo đề nghị ấy. Chiều hướng rõ ràng của buổi họp là xem xét đầu tiên và trước nhất đến số 206.000 quân và những lực lượng đề nghị tăng thêm và cân nhắc kỹ lưỡng, tôi không nói là xem xét đề nghị ấy với ý tốt. Nhưng ít ra, ngay lúc đầu cũng nên coi đó như là một kiến nghị trước tòa án, ngày đầu người ta có cảm tưởng là có thể sự việc sẽ được tiến triển theo chiều hướng đó” (34).

Theo ông Morton Halperin, Trợ lý Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng và là một trong người phụ tá chính của ông Warnke, thì sự việc là như sau:

“Tôi nghĩ, hầu như đúng là có một chỉ thị nhưng chỉ thị này không chi phối Nhóm đặc nhiệm. Chỉ thị không hề khai chiếu đến buổi họp nào của Nhóm đặc nhiệm. Chỉ thị không gắn liền với tài liệu, đó là thủ tục thông thường nếu ta làm việc trên chỉ thị của Tổng thống. Tôi nghĩ rằng, cơ bản mà nói điều mà ông Clifford nghĩ rằng ông đang làm chỉ là để phân tích yêu cầu của ông Westmoreland xem có thể thực hiện toàn bộ hay một phần nhu cầu ấy.

Nếu ta nhìn vào chỉ thị thì tôi nghĩ ràng chỉ thị này phù hợp với vấn đề là phải lựa chọn các giải pháp, tức là lựa chọn xem sẽ gửi cho ông Westmoreland bao nhiêu quân. Trong hồi ký, Tổng thống không đề cập đến vấn đề hoặc trong chỉ thị ông cũng không có hàm ý muốn tìm kiếm một sự tái ước định căn bản về chính sách của chúng ta.

Như vậy tôi nghĩ rằng trong một chiều hướng nào đó, ông Clifford có lý khi ông nói rằng nhiệm vụ của chúng ta là xem xét cách nào đó để thi hành, tức là hoặc đáp ứng toàn bộ nhu cầu hoặc một phần của nhu cầu. Tổng thống nói đúng khi ông nói rằng ông không bảo ông Clifford thi hành mà Tổng thống chỉ thị cho ông ta xem xét các giải pháp để lựa chọn mà thôi” (35).

Vì thế đối với những viên chức dân chính trong Bộ Quốc phòng, rất thành thạo về những cuộc tranh luận và mức số quân phải đưa vào Nam Việt Nam, việc Tổng thống yêu cầu tìm ra những giải pháp để lựa chọn cũng chỉ là yêu cầu nghiên cứu như những lần xin tăng quân trước đây mà thôi, nghĩa là sẽ có thể định mức cho nhu cầu xin tăng quân dựa vào những gì có thể có sẵn mà không cần gọi nhập ngũ các lực lượng dự bị.

Con số này sẽ do Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân chuyển đến cho vị tư lệnh chiến trường. Sau đó nhu cầu của vị tư lệnh chiến trường sẽ được gửi đi để cho phù hợp với số lượng có thể thỏa mãn được và như vậy sẽ cho phép Tổng thống thật sự xác nhận theo đúng sự thật là ông đã thỏa mãn được mọi đề nghị của vị tư lệnh chiến trường. Đó là thủ tục áp dụng trong quá khứ, với chương trình lực lượng số 4 năm 1966 và cả với nhu cầu của chương trình lực lượng số 5 năm 1967. Đó là thủ tục mà giới quân sự mong muốn sẽ được áp dụng trong trường hợp này.

Ông Warnke còn xem đề nghị của ông Wheeler như là một nhu cầu về số quân theo như thường lệ và có thể được giải quyết theo cùng một thể thức như trong quá khứ. Ông có nhắc lại việc này:

“Sự hướng dẫn mà chúng tôi nhận của ông Clifford là phải xem xét đề nghị của ông Westmoreland, và xác định phương thức nên thỏa mãn như thế nào. Tôi nghĩ rằng ấy việc cũng giống như công việc mà ông Mc Namara vẫn cùng giải quyết với ông Westmoreland. Ông Westmoreland gửi đề nghị, đề nghị đó được xem xét sắp xếp chu đáo và rồi được McNamara và ông Westmoreland sẽ có thể nhất trí số lượng nào đó, bao giờ cũng ít hơn là số lượng do ông westmoreland đã xin, nhưng luôn luôn là nhu cầu được thỏa mãn.

Những cái gì mà ông ấy nêu xin trong nhu cầu hiện nay thì đó chính là số lượng đã bị cắt giảm của đề nghị cũ. Như vậy là đã thỏa mãn được hoàn toàn nhu cầu như đã được xin trước. Tôi không coi đó là một tình trạng khẩn cấp và tôi nghĩ rằng cũng chẳng thể có ai trong giới lãnh đạo dân chính ở Lầu Năm góc lại coi đó như là một tình trạng khẩn cấp. Hầu hết chúng tôi đều đã làm việc tại Lầu Năm góc trước thời gian này và đều coi đó không có gì khác hơn là đã thỏa mãn một nhu cầu đã được xin trước, chẳng khác gì việc mà ông Westmoreland và Wheeler đã xin từ lâu nay" (36).

Tuy nhiên. có một số khác biệt giữa nhu cầu xin thêm quân lần này với các lần khác trước đó đã được Lầu Năm góc xem xét đến. Tất cả những nhu cầu về số quân trước đó luôn luôn chỉ xoay quanh vấn đề quan trọng là phải lấy lực lượng nào để tăng cường yểm trợ mà không cần phải động viên đến các lực lượng dự bị.

Nhưng chính là để chống lại sự hạn chế nội bộ này mà ông Chủ tịch lẫn Hội đồng tham mưu trưởng liên quân muốn tranh đấu. Ông đã lợi dụng sự chấn động do cuộc tấn công dịp Tết gây ra, để cố gắng một lần nữa xóa bỏ những cản trở của vấn đề động viên, nhờ đó các chỉ huy trưởng quân sự sẽ có thể thành lập được lực lượng dự bị chiến lược và cuối cùng sẽ có thể tiến hành chiến tranh theo đường lối mà họ nghĩ là tốt nhất.

Sự khác biệt thứ nhì là lần này lại có một ông Bộ trưởng quốc phòng mới. Vì không quen với phương pháp làm việc do Bộ trưởng Mc Namara và giới quân sự đề lập ra và cũng không quen với sự kiện là chính mức độ động viên, chưa kể đến một luận cứ nào khác về các quan niệm chiến lược đi nữa, đã vạch ra chính sách chiến tranh của Hoa Kỳ nên ông Clifford tưởng rằng nhiệm vụ của ông không phải là nghiên cứu nhu cầu tăng quân mà chỉ là tìm kiếm phương tiện để thỏa mãn nhu cầu ấy mà thôi.

Trong buổi họp đầu tiên, buổi họp duy nhất của nhóm đặc nhiệm có ông Dan Rusk tham dự, cả ông Walt Rostow và Bộ trưởng ngân khố Henry đều chủ trương chấp thuận một vài phần đề nghị của ông Wheeler. Ông Rostow nhấn mạnh cần phân biệt rõ giữa số quân có thể có sẵn ngay cho ông Westmoreland và số quân chỉ có thể được cung cấp trong tương lai. Ông Rostow lập luận là nên cung cấp lực lượng có sẵn, trong khi lực lượng dự trù sẽ thành lập phải được nghiên cứu thật kỹ lưỡng, để tìm hiểu những hậu quả do việc ấy gây ra.

Như ông Rostow đã nhắc lại: "Một việc mà tôi đã đóng góp rất có chất lượng là đã nêu rõ tầm quan trọng là phải phân biệt khi ước tính các lực lượng, và phải chia thành hai phần, xem lực lượng nào có thể được gửi cho ông Westmoreland, khoảng tháng 6, để đáp ứng cho chiến trường hiện nay và lực lượng nào sẽ chỉ được gửi tới vào cuối năm và sẽ được sử dụng về lâu về dài" (37).

Bộ trưởng Fowler đã trình bày rất rõ những tổn phí nghiêm trọng về mặt kinh tế có liên hệ với việc đáp ứng những nhu cầu tăng quân của ông Wheeler và sự đánh giá thẳng thắn về các phí tổn này đã trấn tĩnh được các đồng nghiệp của ông. Nhu cầu tăng những chi phí quân sự trong những năm tài chính 1968 và 1969 kết hợp với việc đáp ứng nhu cầu tăng quân của ông Wheeler, ông Bộ trưởng nêu rõ, chỉ có thể giải quyết được bằng cách lấy tiền thuế để cung ứng vào đó hoặc bằng cách thi hành ngân sách để tránh hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế trong nước và giữ vững được giá trị đồng đô la.

Để cho đạo luật dự thảo về thuế của Tổng thống được thông qua, ông Fowler cho biết, Quốc hội có thể sẽ nhấn mạnh là ít nhất từ 25% đến 30% chi phí phụ trội quân sự phải do tiền cắt giảm từ các chương trình trong nước, hoặc từ các chi phí khác về quốc phòng, và có thể cả từ các khoản viện trợ cho nước ngoài nữa. Ông Bộ trưởng cần nghi ngờ rằng ngay cả trong những điều kiện này đi nữa, chưa chắc đã có thể tăng đủ thuế để đài thọ các chi phí phụ trội đó.

Như vậy trong bất kỳ trường hợp nào cũng sẽ có những ảnh hưởng tai hại đáng kể đối với nền kinh tế và đồng đô la. Hơn thế nữa, ông Fowler cũng không tin rằng Quốc hội lại chịu ngừng việc cắt giảm ở mức 25% đến 30% mà chính quyền có thể vui vẻ chấp nhận được. Ông cũng còn dự kiến được cả những hành động sau đây của Quốc hội hứa:

Các chương trình trứng nước chủ yếu quan trọng đối với chương trình xã hội vĩ đại, những vấn đề về nghèo đói và các thành thị sẽ bị cắt bớt, mặc dầu có thể ít hơn, ngân sách viện trợ cho bên ngoài thực sự sẽ bị sút giảm 50% hoặc hơn nữa. Ông Fowler khẳng định rằng chỉ có một "hành động thiện chí của cả nước" trong năm bầu cử là mới có thể tránh được những hậu quả này mà thôi. Ông kết luận là sự việc dù được trình bày khéo léo cách nào đi nữa cũng không chắc gì sẽ được đáp ứng bằng một hành động như vậy (38)

Buổi họp đầu tiên này của nhóm đặc nhiệm, do đó, đã nêu nhiều vấn đề cơ bản ngay từ lúc đầu. Có thể có đủ quân để gửi đến Việt Nam trong kỳ hạn hợp lý để làm nghiêng thế cân bằng lực lượng không? Nền kinh tế có thể đứng vững do hậu quả của sự động viên quan trọng không? Lấy nhân lực ở đâu ra? Những mục tiêu chính trị thiết yếu của chúng ta ở Việt Nam là gì? Lực lượng tăng thêm có thể giúp thực hiện các mục tiêu đó như thế nào? Lực lượng này có thể thực hiện được những mục tiêu gì trong sáu tháng tới, trong năm tới? Quần chúng sẽ có phản ứng gì đối với việc tăng quân quan trọng tại Việt Nam đi đôi với việc động viên và những biện pháp kiểm soát kinh tế? Có một giới hạn rõ rệt nào cho sự dính líu của Hoa Kỳ vào Việt Nam không?

Sự tìm hiểu của ông Clifford còn tiếp tục. Như ông đã nhắc lại sau đó: "Cho mãi đến khi có các buổi họp kéo dài suốt ngày hồi tháng 3, tôi vẫn chưa hề có cơ hội để phân tích sâu sắc và tìm hiểu rõ các sự kiện thực tế. Bây giờ những người am hiểu nhiều nhất về vấn đề đã thúc đẩy tôi phải nhận định thẳng thắn và dứt khoát về tình hình, làm công việc này, chúng tôi phải dừng lại nghiên cứu đó, tìm ra những phương tiện nhằm thỏa mãn những nhu cầu của giới quân sự và những câu hỏi chủ yếu đã bắt đầu nêu lên nhiều lần" (39).

Phản ứng của ông Clifford là cả một đột biến. Do các viên chức trong Bộ quốc phòng thúc đẩy, hỏi về công tác nghiên cứu của ông, ông đã bắt đầu đặt ra nhiều câu hỏi cơ bản, mà nhiều năm trước đó chưa hề được đặt ra, những câu hỏi không dễ gì có câu trả lời. Như ông có nhắc lại, toàn bộ đối tượng của công tác nghiên cứu tìm hiểu đã bắt đầu thay đổi.

Khi chúng tôi bắt đầu nói đến ảnh hưởng của việc gửi 206.000 quân, đến việc gọi nhập ngũ lực lượng dự bị cần thiết, đến tính cách bấp bênh của đồng đô la, chúng tôi thấy là đang đứng trước sự kiện là hậu quả của việc ấy đối với đất nước sẽ thực là vô cùng to lớn. Chỉ riêng các vấn đề tài chính đã là khủng khiếp rồi. Khi chúng tôi đi vào các cuộc thảo luận và thấy nhiều khó khăn phức tạp xuất hiện thì câu hỏi nêu lên đã được nhanh chóng đổi từ "Chúng ta có thể gửi quân cho ông Westmorland như thế nào?" thành "Điều gì là thông minh nhất phải làm để phục vụ cho tổ quốc?” (40).

Thế nên, đến khi nhóm đặc nhiệm họp lại ngày 29 tháng 2, trọng tâm hoạt động đã được thay đổi. Tới lúc đó, vấn đề thực sự cần phải giải quyết không phải là làm cách nào để gửi được 206.000 quân nữa hay không? Trả lời cho những câu hỏi này và đưa ra một công thức cho phương pháp hành động cho Hoa Kỳ lựa chọn, giờ này đã trở thành điểm trọng tâm sơ khởi cho việc xem xét lại.

Ông Clifford cho biết là một số giải pháp quân sự cũng cần được xem xét đến. Những giải pháp này bao gồm từ việc tăng thêm 206.000 quân và bãi bỏ hạn chế những việc hành quân trên bộ và trên không đến việc không thay đổi mức tổng số lực lượng đã chấp thuận (41).

Ông Clifford còn yêu cầu Đại tướng Wheeler yêu cầu Đại tướng Westmoreland trả lời hàng loạt những câu hỏi mà trong cuộc thảo luận ngày hôm trước, đã chưa được trả lời thích đáng. Những câu hỏi này được điện đến cho Đại tướng Westmoreland vào hôm đó, gồm có:

1. Các lực lượng xin tăng thêm nhằm mục đích tiến hành mục tiêu quân sự gì và các mục tiêu gì khác?

2. Gửi lực lượng tăng cường đến Nam Việt Nam sẽ tránh được những hiểm họa đặc biệt nào và nếu được nhóm đặc nhiệm đề nghị, thì lực lượng tăng cường ấy nhằm thực hiện những mục tiêu đặc biệt nào trong vòng 6 tháng tới, trong năm tới?

3. Cần có sự thay đổi gì trong các mục tiêu chính trị của chúng ta ở Nam Việt Nam?

4. Ông Habib tuyên bố là ông Thiệu tin rằng quân lực Việt Nam có thể mở rộng trong năm tăng thêm 30.000 quân nhiều hơn số 65.000 hiện được ghi trong chương trình của Đại tướng, điều đó có thực hiện được không?

5. Đại tướng có thành công trong việc yêu cầu chính phủ Nam Việt Nam tung quân lực Việt Nam Cộng hòa từ các khu vực thành thị ra vùng nông thôn để tấn công địch không?

6. Freduy Weyane và tướng Khánh đã có khả năng bắt đầu kế hoạch hoạt động phối hợp chống các đơn vị địch triển khai đến xung quanh Sài Gòn chưa?

7. Đại tướng có thể chấp nhận và thực hiện sự lựa chọn về các chiến lược quân sự này với chương trình các lực lượng số 5, cộng với 6 tiểu đoàn vừa mới triển khai thêm, để sức phòng thủ khu vực trọng yếu và đông dân cư tại Nam Việt Nam.

8. Nếu rút Khe Sanh và thành lập tuyến phòng thủ xa về hướng đông thì sẽ làm tốt hơn lên hoặc làm xấu hơn tình hình quân sự phía Bắc vùng 1 chiến thuật, không kể đến các yếu tố chính trị khác?

9. Có thể giao cho quân đội Nam Việt Nam càn quét về phòng thủ trọn vẹn đồng bằng sông Cửu Long không? (42)

Nhiều tài liệu do nhóm đặc nhiệm hoàn thành và thảo luận ngày thứ bảy, mồng 2 tháng 3 đã được phân công trong buổi họp này. Sự phân công tổng quát và nét đại cương về các đề tài đem ra nghiên cứu đã được ông William Bundy ghi trên biên bản như sau:

a) Hoa Kỳ có thể lựa chọn đường lối hành động nào? Phân công cho: Bộ quốc phòng - Đại tướng Taylor, Bộ ngoại giao (Bộ trưởng).

b) Địch có thể theo đuổi quá trình diễn biến nào? Phân công cho: Bộ quốc phòng và Cục tình báo trung ương.

c) Phân tích những hậu quả do việc đề nghị của ông Westmoreland xin thêm quân sẽ gây ra.

Hàng loạt các tài liệu như sau:

- Hậu quả quân sự - Hội đồng tham mưu trưởng liên quân.

- Hậu quả chính trị - Bộ ngoại giao.

(Những hậu quả về chính trị ảnh hưởng rộng rãi trong nước và ở nước ngoài kể cả những khó khăn nội bộ của Nam Việt Nam).

- Những kết quà về ngân sách: Bộ quốc phòng.

- Những hậu quả về kinh tế: Bộ Ngân khố.

- Những hậu quả đối với Quốc hội: Bộ quốc phòng.

- Những hậu quả đối với dư luận - trong nước và trên trường quốc tế: Bộ Ngoại giao (43).

Công việc chính yếu soạn thảo tài liệu để ông Bộ trưởng Clifford trình Tổng thống là do Bộ quốc phòng phải tiến hành. Về các tài liệu khác soạn thảo ngoài phạm vi Lầu Năm góc chỉ có những tài liệu và đàm phán về các chính sách nội bộ của miền Nam Việt Nam do ông Bundy và ông Habib thuộc Bộ ngoại giao soạn thảo cùng vấn đề lựa chọn chiến lược do Đại tướng Taylor soạn thảo là được gửi thẳng đến Nhà Trắng mà thôi.

Những tài liệu khác do Cục tình báo trung ương, Bộ Ngoại giao, Bộ ngân khố và Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đóng góp, bổ túc cho quá trình thảo luận của Lầu Năm Góc, chứ không kể như là tài liệu riêng biệt của bản đúc kết cuối cùng. Thế nên, tiếng nói có ảnh hưởng lớn, trong việc xem xét những giải pháp để lựa chọn trong khi xúc tiến việc tái nhận định tình hình là thuộc về các giới chức dân chính trong Bộ quốc phòng.

Ông Clifford đã được các vị phụ tá của ông đưa ra một nhận định bi quan và chán chường về tình hình cùng những triển vọng về Việt Nam rất khác biệt với nhận thức của ông trước khi ông giữ chức Bộ trưởng quốc phòng.

Mặc dù những tài liệu này không lọt ra khỏi Lầu Năm Góc và có nhiều tài liệu không được trình cho các thành viên cao cấp của nhóm đặc nhiệm biết, trừ ông Clifford, nhưng những tài liệu ấy càng tạo nên hình ảnh thất bại đen tối của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã tác động sâu sắc đến suy nghĩ sau này của ông, đến những mục tiêu và chính sách của Hoa Kỳ.

Chiều hướng chính của những tài liệu tại Bộ Quốc phòng là nhằm cho thấy rằng nếu cứ càng tiếp tục nhiều hơn nữa như vậy tại Việt Nam thì có thể cũng sẽ chẳng đạt được kết quả quyết định nào cả và đúng ra chỉ sẽ tốn kém quá nhiều cho Hoa Kỳ mà thôi nên một chính sách như vậy không thể nào tồn tại được.

Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng về phân tích các hệ thống, trong khi xem xét các mục tiêu của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, ông Alaln Enthoven đã phác họa cho các ông bộ trưởng thấy một hình ảnh thất bại đen tối.

Lúc đầu vào năm 1965, từ khi lực lượng Hoa Kỳ đưa quân vào ồ ạt những mục tiêu đã được công bố của chúng ta

1. Gây khó khăn và tốn kém càng nhiều càng tốt cho Bắc Việt nếu họ muốn tiếp tục yểm trợ có hiệu quả cho Việt cộng và buộc Bắc Việt phải chấm dứt việc chỉ đạo cuộc nổi dậy của Việt cộng.

Trong khi chúng ta buộc Bắc Việt Nam phải trả giá đắt hơn về hành vi xâm lược và việc họ yểm trợ cho Việt cộng, thì người ta vẫn thấy là họ không thiếu khả năng chỉ để đối chọi với mỗi lần leo thang mới của Hoa Kỳ. Chiến lược "tiêu hao" của chúng ta đã không hiệu nghiệm. Gửi thêm 206.000 quân Mỹ vào lực lượng 525.000, 17 tiểu đoàn và 70 máy bay chiến đấu rõ ràng phí thêm cho Hoa Kỳ là 10 tỷ đô la mỗi năm, sự kiện đó sẽ nêu lên câu hỏi là ai sẽ gây tốn kém cho ai.

2. Mở rộng uy quyền sự điều khiển và kiểm soát toàn cõi Nam Việt Nam của chính phủ Việt Nam.

Mục tiêu này chỉ có thể do chính phủ Việt Nam thực hiện qua các tiến triển về chính trị và kinh tế với sự yểm trợ cần thiết của một quân lực Việt Nam Cộng hòa có khả năng. Cuộc tấn công vào dịp Tết không những đã chứng minh là Hoa Kỳ không bảo vệ được một cách hữu hiệu mà còn chứng nhận rằng chính phủ và quân lực Việt Nam Cộng hòa không thực hiện được những tiến bộ thực sự trong công tác bình định bước đầu thiết yếu trên con đường mở rộng uy quyền, sự điều khiển và kiểm soát của chính phủ Việt Nam.

3. Đánh bại Việt cộng và các lực lượng Bắc Việt ở Nam Việt Nam và bắt buộc họ phải rút lui.

Cuộc tấn công vào dịp Tết chứng tỏ rằng chúng ta còn ở xa đích hơn là chúng ta tưởng. Còn xa bao nhiêu thì đó là điều cần phải xem xét đến.

4. Ngăn chặn Trung Quốc can thiệp trực tiếp vào Đông Nam Á.

Điều này đến nay chúng ta đã thành công, tuy nhiên trong trường hợp lực lượng Hoa Kỳ quá nhiều, có thể đưa đến kết quả trái ngược.

Mặc dù ồ ạt đưa vào 500.000 quân Hoa Kỳ, 1,2 triệu tấn bom mỗi năm, 400.000 phi xuất hàng năm, 200.000 quân địch thương vong trong 3 năm và Hoa Kỳ tử thương 20.000 v v, nhưng chúng ta biết là sự kiểm soát của chúng ta ở nông thôn và việc phòng thủ ở các khu vực thành thị trong lúc này lại chủ yếu ở mức trước tháng 8 năm 1965. Càng dính líu sâu chúng ta chỉ đã đi đến chỗ bế tắc mà thôi. Vậy phải tìm kiếm một chiến lược mới (44).

Trong khi xem xét nhiều chiến lược, đã xác định chiến lược nào, nếu có, có thể đem lại nhiều thắng lợi nhất trong tương lai, ông Enthoven và bộ tham mưu của ông chỉ tìm ra được có một, khả dĩ mang lại nhiều h