Chương 9 Tình Hình Dư Luận.
Những cuộc nghiên cứu về dư luận quần chúng và những cuộc thăm dò dư luận đã cho thấy sự ủng hộ không bao nhiêu của quần chúng đối với cuộc chiến tranh đã thay đổi như thế nào giữa mùa thu 1967 và mùa xuân 1968 mặc dù đã có những sự biến quan trọng xảy ra trong thời gian ấy. Trên toàn bộ dư luận ủng hộ cuộc chiến tranh cho thấy những sự tăng giảm không bao nhiêu gắn liền với vấn đề nghĩ như thế nào về cuộc chiến tranh đang diễn ra, nhưng đa số quần chúng bám lấy lập trường ủng hộ chiến tranh (I).
Thật vậy, cuộc khủng hoảng Tết lúc đầu đã gây nên một sự gia tăng ủng hộ của quần chúng đối với chiến tranh. Nhưng các trận đánh vào dịp Tết cũng đã củng cố thêm cảm tưởng của nhân dân Mỹ cho rằng chiến tranh đã bị sa lầy và một giải pháp quân sự sẽ không thể tìm thấy được trong tương lai gán.
Và quan điểm về một sự bế tắc quân sự này tiếp tục được phản ánh qua hệ thống thông tin đại chúng. Những người hướng dẫn dư luận Mỹ, các nhà bình luận, các nhà viết bài xã luận, các người chuyên viết ở một mục báo, các nhà sư phạm và các người cầm đâu công việc kinh doanh, nhiều người trong số này trước đây đã cảm thấy bực bội và ngờ vực bây giờ trở thành vững tin là cuộc chiến tranh đang bị thua, hoặc trong điều kiện tốt nhất, không thể nào thắng mà không bị tổn phí lớn lao thêm nhiều tài nguyên (2).
Vì thế, sự chấn động và giận dữ trong những ngày đầu của cuộc tấn công Tết đã nhanh chóng nhường chỗ cho cảm giác vô ích và chán chường giữa tầng lớp có tiếng nói của dân chúng và tô màu cho bầu không khí trong đó những quyết định đã được soạn thảo, quan điểm được những người hướng dẫn dư luận nêu trên đưa ra là đất nước đang không ngừng trở thành chia rẽ và hết mọi ảo tưởng về chiến lược Việt Nam hiện nay và sẽ không còn kiên trì chịu đựng thêm nữa trước sự việc không có một chỉ dấu nào cho thấy chiến tranh có thể đi đến chỗ chấm dứt: Cảm nghĩ tăng lên cho rằng tổn phí của chiến tranh không còn bõ công để theo đuổi những mục đích đang đấu tranh.
Có một vài sự tranh luận về tính khách quan trong việc tường thuật các trận đánh trong dịp Tết của báo chí và vô tuyến truyền hình cũng như ảnh hưởng của sự tường thuật đối với đa số quần chúng Mỹ (3). Dường như người ta lý luận rằng phương tiện thông tin đã tường thuật chi tiết những trận tấn công tàn phá của Việt Cộng lúc mới xảy ra, nhưng lại đã thiếu sót không theo đuổi và nêu nổi bật sự phục hồi khá nhanh chóng của các lực lượng Mỹ và Nam Việt Nam và cuối cùng các lực lượng của Việt Cộng đã bị thua khá nặng nề về mặt quân sự.
Trong bất cứ tình huống nào, sự sửng sốt mãnh liệt và cảnh chém giết những ngày đầu của những trận tấn cống Tết đã được vô tuyến truyền hình mang vào tận nhà một cách sinh động cho công chúng Mỹ xem. Dư luận đa số người Mỹ về những hậu quả của cuộc tấn công Tết ngụ ý như thế nào đối với chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã được hình thành bởi sự tường thuật bao quát và bi thảm này của vô tuyến truyền hình.
Những bài phân tích tin tức, như thể đối chọi với sự tường thuật chính xác, cũng đã có ảnh hưởng đáng kể. Bản phân tích được Wỉlter Cronkite, nhà bình luận của hãng truyền hình CBS; trình bày trong phần tin tức tối ngày 27 tháng Hai đặc biệt gây xúc động mạnh:
“Hình như lúc này chắc chắn hơn bao giờ hết, kinh nghiệm đẫm máu ở Việt Nam sẽ phải kết thúc trong sự bế tắc. Hầu như chắc chắn đến mùa hè này lập trường xa cách nhau sẽ chấm dứt hoặc bằng thật sự thương lượng trên cơ sở nhượng bộ lẫn nhau hoặc bằng một sự leo thang khủng khiếp, và đối với mọi phương tiện chúng ta có để leo thang, quân địch có thể chẳng thua kém gì chúng ta và điều này áp dụng cho cả việc xâm lược miền Bắc, sử dụng vũ khí bất nhân hoặc đơn thuần đưa thêm một trăm hoặc hai trăm hay ba trăm nghìn quân Mỹ vào cuộc chiến tranh. Và mỗi lần leo thang, thế giới tiến sát đến miệng hố thảm họa thế giới.
Nói rằng ngày nay chúng ta đang ở gần chiến thắng hơn, trước bằng chứng hiển nhiên là tin lời những người lạc quan đã từng đánh giá tình hình sai trong quá khứ. Cho rằng chúng ta đang ở trong tình trạng nguy khốn sắp bị bại trận là chịu khuất phục trước sự bi quan quá đáng. Nói rằng chúng ta đang bị đẩy vào hoàn cảnh khó khăn bế tắc có vẻ là một kết luận thực tế nhất, tuy chưa thỏa mãn” (4).
Bí thư báo chí của Tổng thống, George Christian, sau đó đã phát biểu là khi ông Cronkite đưa ra lời phát biểu trên, "những làn sóng làm mọi người sửng sốt tràn ngập trong chính phủ” (5). Ông Rostow đã cho là "việc tường thuật ồ ạt không bị ngăn cấm về cuộc chiến tranh phức tạp thường đã cho thấy là không thể phân biệt được và hay thiên lệch". Mặt khác, ông cũng đã thừa nhận là các nhà cầm quyền quân sự và dân sự đã tỏ ra không có hiệu quả trong việc đưa ra một hình ảnh “rõ ràng và có sức thuyết phục" về quá trình diễn biến các sự kiện quan trọng ở Việt Nam (6).
Những lời khẳng định của Tổng thống, của những sĩ quan tùy viên cao cấp của ông và của những cấp chỉ huy quân sự của ông đã bị ngờ vực vì sự lạc quan trước đây của các nhân vật này và vì cảnh tàn phá quá rõ ràng đã tác động đến nhân dân và các thành phố ở Nam Việt Nam. Người ta bắt đầu nghi ngờ những mục tiêu trong chính sách của Hoa Kỳ, và so với những kết quả có thể đạt được thì phí tổn đã bắt đầu cho thấy là quá cao.
Những bộ phận quan trọng của báo chí Mỹ đã phản ánh quan điểm này, ông James Roston của báo New York Times tự hỏi: "Cuộc tàn sát này nhằm mục đích gì? Làm sao chúng ta có thể cứu được Việt Nam nếu chúng ta tiêu diệt nó trong cuộc chiến tranh".
Nhật báo Phố Uôn nêu "Những diễn biến trên bộ hiện nay có đang làm cho những mục tiêu tiêu biểu lúc ban đầu của chúng ta bị hỏng bét không?... Nếu hầu như không còn gì để chính phủ và đất nước còn có thể làm được nứa thì còn phải cứu cái gì ở đó và để làm gì?".
Bài xã luận đã gợi ý bằng cách nói toạc móng heo: "Chúng tôi nghĩ rằng nhân dân Mỹ cần phải chuẩn bị tư tưởng để chấp nhận. nếu họ chưa sẵn sàng, triển vọng là toàn thể nỗ lực ở Việt Nam có thể bị kết tội, nó có thể tan rã dưới chân chúng ta. Trước hết, tình hình quân sự có thể làm cho những lý luận có tính chất triết lý về sự can thiệp của Mỹ trở thành lý thuyết suông" (7).
Trong một bức tranh châm biếm phản ánh sự chua cay, nhà vẽ hình hài hước Art Buchwald đã ví tình hình giống như câu chuyện lạc quan tếu trong trận Little Bighorn, ông ta vẽ tướng Custer đang đưa ra những lời phát biểu lạc quan liên quan đến số thương vong cao của quân địch và cho biết là trận đánh "đã vừa vượt qua giai đoạn khó khăn nguy hiểm và bây giờ ông có thể thấy được ánh sáng ở cuối đường hầm" (8).
Những đề tài này tiếp tục xuất hiện trên các báo và lan tràn sang cả những tạp chí tin tức. Tạp chí Atlantic và Harpers đã dành riêng toàn thể số xuất bản bàn về Việt Nam (9). Ngày 11 tháng Ba, trong bài viết trên tạp chí Tin Tức hàng tuần (Newsweek), ông Walter Lippmand đã phát biểu ý kiến rằng khả năng Hoa Kỳ có thể bị "bại trận" ở Việt Nam đang gây nên một chấn động mãnh liệt ở khắp đất nước. Sự sửng sốt này lớn hơn tất cả, ông Lippmand đã kết luận như vậy, vì nó đã vô cùng bất ngờ.
Ba tháng sau khi Tướng Westmoreland trở về nước trong mùa thu vừa qua, lúc đó quân đội đang ở thế phòng thủ. Ba tháng sau đại sứ của chúng ta ở Sài Gòn trở về nước để làm chúng ta yên lòng, toàn thể chương trình chính trị tại các làng xã và thành phố bị tiêu tan... Tổng thống Lyndon Johnson cho rằng ông đang tiến hành một cuộc chiến tranh hạn chế vì ông đã không leo thang nhanh như một số tướng lĩnh của ông mong muốn ông thực hiện.
Thật ra thì những mục tiêu chiến tranh của ông là không có giới hạn: các mục tiêu này hứa hẹn bình định toàn thể châu Á. Đối với những mục đích không có giới hạn như thế không tài nào có thể thắng trận bằng những phương tiện hạn chế. Vì những mục tiêu của chúng ta không có giới hạn. chúng ta chắc chắn sẽ “bị đánh bại" (10).
Tạp chí Time trong số xuất bản ra ngày 13-3 đã viết “Cuộc bàn cãi đầy thông minh không ngừng diễn ra trong nước liên quan đến những công thức sẽ đưa đến một hình thức giải kết nào đó... Việc này ngụ ý cho thấy là đối với Hoa Kỳ năm 1965 đã làm cho trong nước nhận thấy được là chiến thắng ở Việt Nam - hoặc ngay cả một cuộc dàn xếp thuận lợi có thể đã hoàn toàn vượt quá tầm tay của cường quốc thế giới lớn nhất" (11).
Tập trung sự chú ý vào sự không hài lòng không ngừng gia tăng nêu trên đối với nỗ lực của Mỹ ở Việt Nam đã được thể hiện trong một bài tường thuật đăng trên tờ New York Times ngày 10-3 chính xác đến mức làm mọi người giật mình về lời yêu cầu ở Việt Nam xin gửi thêm quân và việc đánh giá lại chính sách của Mỹ đang được tiến hành trong chính quyền. Câu chuyện cũng làm sáng tỏ sự nghi ngờ không ngừng gia tăng của nhiều viên chức trong chính quyền về quá trình vạch chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Câu chuyện do Nell Sheehan và Hedrick Smith viết đã kể rõ như sau:
Tướng William C.Westmoreland đã xin tăng viện thêm 206.000 quân ở Việt Nam, nhưng lời thỉnh cầu của ông đã làm bùng nổ một cuộc tranh cãi gây chia rẽ nội bộ giữa các cấp cao của chính quyền Johnson.
Một số quan chức dân sự cấp dưới của chính phủ trong Bộ quốc phòng được sự ủng hộ của một vài quan chức cao cấp trong Bộ ngoại giao đã đưa ra lý lẽ chống lại lời yêu cầu của Tướng Westmoreland xin tăng thêm 40% lực lượng của ông để “lấy lại thế chủ động”.
Luận điểm của những quan chức cao cấp này là một sự tăng thêm lực lượng của Mỹ sẽ gây nên một sự gia tăng tương xứng của Bắc Việt Nam, do đó sẽ làm cho mức độ bạo lực tăng lên mà không tạo được thế có lợi cho các quân đồng minh...
Tổng thống chưa quyết định vấn đề tăng thêm đáng kể lực lượng Mỹ ở Việt Nam... Tuy nhiên quy mô rộng lớn và chiều sâu của cuộc bàn cãi nội bộ bên trong chính phủ phản ánh nỗi khổ tâm về điều không chắc chắn và sự ngờ vực tại thủ đô này về mọi mặt của cuộc chiến tranh do địch để lại tiếp tục theo làn sóng bi thảm của những trận tấn công vào dịp tết, ngày lễ đầu năm mới ở châu Á cách đây sáu tuần.
Hơn bao giờ hết, sự việc này đã để lại một cảm giác mệt mỏi và tức giận đối với cuộc chiến tranh. Chính những quan chức trong khi nói chuyện riêng đã bình luận về những thay đổi thái độ có tính chất phổ biến và sâu sắc một ý nghĩ chung cho rằng đã đạt tới con đường ranh giới và ý nghĩa của nó bây giờ mới bắt đầu nhận thấy...
Nhưng ở mọi cấp trong chính phủ người ta có một ý nghĩ chung cho rằng cuộc chiến tranh nếu được mở rộng thêm nữa thì không còn được coi như một cuộc chiến tranh hạn chế nữa. Các quan chức thừa nhận là bất cứ một sự dính líu nào thêm nữa của Mỹ sẽ lôi chân theo những hệ quả nghiêm trọng đối với đời sống dân sự của đất nước - không những chỉ có vấn đề gọi nhập ngũ quân dự bị và ban hành đạo luật tăng thêm thuế tức thời mà còn có nhiều khó khăn trong vấn đề ngân sách kinh tế và cán cân chi phí (12)
Rồi Sheehan và Hedrick Smith tiếp tục diễn tả với một sự chính xác hết sức ngạc nhiên quan điểm của các quan chức quân sự thuộc Bộ quốc phòng trong những cuộc bàn cãi của Nhóm công tác đặc biệt do ông Clifford đứng đầu.
Tác động của việc tường thuật câu chuyện trên đã rất sôi nổi, Hedrick Smith nhớ lại các sự kiện như sau: "Chuyện xuất hiện bất thần trên những số báo Times đầu tiên ra tối thứ bảy có bữa tiệc được tổ chức tại Câu lạc bộ Gridrion (9-3), nơi đây các nhà báo có tên tuổi ở Washington, tất cả đều họp mặt tại đó. Tôi đã có mặt với tư cách là khách mời của James Reston. Vào khoảng 10 giờ đêm, tin tức về câu chuyện thuật ở trên đến tai mọi người trong phòng. Nó được loan truyền giống như gió thổi qua một cánh đồng lúa mì vậy. Nó thật sự có tác động mạnh và người ta đã phản ứng lại. Ông George Christian (Bí thư báo chí của Tổng thống) bị các phóng viên báo chí bao bọc chung quanh. Tôi được chứng kiến tận mắt hậu quả của câu chuyện đăng trên báo. Đó là một trong những câu chuyện giật gân trong lĩnh vực báo chí mà tôi chưa hề thấy - đó là thật sự thấy tại chỗ một cử tọa đang phản ứng lại một câu chuyện quan trọng mà tôi đã có công giúp tường thuật và viết thành bài" (13).
Câu chuyện từng gây nên sự chú ý của đoàn báo chí Washington bằng một kiểu gây cảm xúc mạnh mẽ đến như thế đã nhanh chóng được những tờ báo khác săn nhặt và khoảng cuối ngáy hôm sau đã tới được từ đầu này đến đầu kia đất nước. Bài báo "tường thuật đúng, chính xác và đã làm tăng thêm sự hoài nghi của công chúng đối với chính sách của chúng ta ở Việt Nam”.
Dân chúng tự hỏi nếu mọi việc thật sự được tiến hành tốt đến như thế và nếu các trận đánh Tết quả đã là một chiến thắng lớn như chính quyền vẫn tiếp tục công bố thì tại sao lại cần phải gửi thêm 206.000 quân Mỹ sang Việt Nam? Sự hoài nghi này đã được củng cố thêm vào lúc mà những phương tiện phát thành tiếng nói có ảnh hưởng khác phát biểu ý kiến một cách mạnh mẽ chống lại chiều hướng mà ở Việt Nam đã đề nghị.
Cũng trong đêm hôm mà câu chuyện xuất hiện (10-3) hãng truyền hình NBC đã kết thúc một chương trình đặc biệt về Việt Nam với lời bình luận như sau: “ngày hôm nay, nếu những báo cáo được công bố là đúng, Tổng thống đang có trên bàn giấy của ông một đơn xin tăng viện thêm hai trăm ngàn quân để giúp khôi phục lại tình hình như đã đạt đến trước đây. Việc này làm cho chúng ta phải cảnh giác là quân địch sẽ có thể ứng phó được với bất cứ lực lượng mới nào chúng ta tung ra chiến trường. Tất cả cái gì sẽ thay đổi có lẽ là khả năng hủy diệt... Để sang một bên tất cả những lý lẽ khác, thời gian đang ở tầm tay khi chúng ta phải quyết định không hiểu có phải là vô ích một khi phải tiêu diệt Việt Nam để cứu nó không" (14).
Câu chuyện đăng trên báo New York Times như ông Reston nhớ lại đã "khuấy động toàn thể tổ chức chính quyền ở phía đông nước Mỹ và tạo nên một vấn đề lừa dối. Nó đã gây nên một cuộc khủng hoảng không cần thiết và đã bóp méo sự việc. Nó đã gạt ra một bên những tin tức đầy hi vọng và đã tác động khá mạnh đến dư luận quần chúng. Nó đã đưa ra một hình ảnh dối trá về tình hình" (15)
Dĩ nhiên Tổng thống Johnson đã tỏ ra giận dữ khi hay được tin tức bị bại lộ. Ông biết ảnh hưởng của sự việc trên đối với quần chúng và những người chỉ trích cuộc chiến tranh trong Quốc hội Mỹ. Tổng thống nghi ngờ rằng câu chuyện đã bị các quan chức dân sự cấp thấp trong Lầu Năm góc tiết lộ để gây sức ép làm cho ông phải chấp nhận quan điểm của họ. Ông cũng hoài nghi có một sự thúc đẩy chính trị nào đó vì bài báo đã xuất hiện hai ngày trước khi có hội nghị tuyển lựa ứng cứ viên của đảng được tổ chức ở New Hampshire (16).
Nhưng Tổng thống đã lầm. Câu chuyện đã được săn nhặt từ nhiều nguồn tin khác nhau và đúc kết lại với nhau như hầu hết các câu chuyện đều như thế và chính tính đa ngôn và đa dạng của những nguồn tin này đã cho thấy sự tranh luận hết sức sôi nổi ở mọi cấp của ngành Hành pháp cũng như trong Quốc hội Mỹ do sự yêu cầu gửi thêm quân gây nên.
Sự biểu lộ ban đầu về cuộc đấu tranh trong Lầu Nam góc thật sự đã xuất phát từ một quan chức Lầu Năm góc. Như ông Edwin L.Dail. Jr, phóng viên về vấn đề kinh tế tại Văn phòng báo New York Times ở Washington nhớ lại:
“Tôi đang dự tiệc cốc-tai tại nhà một nghị sĩ quốc hội Bill Moorhead, chúng tôi là bạn cùng lớp ở trường Đại học Yale và là bạn thân với nhau. Tôi bắt chuyện với Townsend Hoopes. Ông này đã học trên chúng tôi một lớp ở trường Đại học Yale. Trong câu chuyện này, ông đã tiết lộ cho tôi biết là trong Lầu Năm góc có một nhóm đang được hình thành và nhóm này đang bắt đầu chống lại việc gửi thêm quân sang Việt Nam. Ông chỉ biết có thế thôi, không có cái gì mật cả”. (17).
Câu chuyện trên đây đều đến tai Sheehan và Smith ở văn phòng Times ở Washington và hai người này đã tiến hành công việc triển khai câu chuyện này. Như Sheehan diễn tả phản ứng của họ:
"Sáng thứ hai ông Ed Dail kể lại cho chúng tôi nghe câu chuyện của ông với quan chức cao cấp trong chính quyền cấp bộ trong nội các, những người đã đưa ra những nhận xét rất lỗ mãng về lời yêu cầu gửi thêm quân của quân đội và đã biểu lộ là đang có một cuộc tranh luận quan trọng diễn ra trong chính quyền vè lời thỉnh cầu này. Tôi và ông Smith đã thấy rõ cái gì đó đã tới, đã có một sự bất đồng quan điểm nội bộ nào đó về vụ Tết. Sự nhận xét này của ông Dail, xét tình hình dư luận quần chúng, đã đủ kích thích chúng tôi thực hiện những sự dò hỏi đúng đắn" (18).
Trong vòng mấy phút đồng hồ tiến hành những cuộc dò hỏi này, tin tức thu nhận được từ nhiều nguồn tin hoàn toàn khác nhau trong Tòa nhà Quốc hội (Điện Capitol) đã xác nhận việc yêu cầu gửi thêm quân và cuộc tranh luận trong chính quyền về vấn đề này. Ông Sheehan gọi điện thoại cho một tùy viên tham mưu của một thượng nghị sĩ bảo thủ, một con diều hâu đối với cuộc chiến tranh và là một người bạn của phía quân đội. Như anh nhớ lại câu chuyện:
"Tôi đã sử dụng phương pháp kỹ thuật của người phóng viên báo chí ngụ ý muốn biết thật chính xác và ông ta đã nói với tôi ngay tức khắc là Tướng Westmoreland đã đệ trình một đơn xin tăng thêm "vài trăm nghìn quân". Ông đã cho biết là đang có một cuộc tranh cãi diễn ra giữa Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, phe ủng hộ việc thỏa mãn lời yêu cầu và các viên chức dân sự bộ quốc phòng, phe này không đồng ý gửi thêm quân.
Đồng thời ông Smith gọi điện thoại cho một trong những nguồn cung cấp tin tức tại Tòa nhà Quốc hội và đã có được con số chính xác là 206.000 người, nhưng chúng tôi đã không biết chắc con số này là của ai, có phải là đã bắt nguồn từ Tướng Westmoreland hay là của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân. Sau đó tôi đã tìm hỏi những nguồn tin khác và tôi đã săn nhặt được từng mẩu chuyện tranh luận của người này rồi hỏi sang người khác. Không một cá nhân nào đã có thể thuật lại được toàn thể câu chuyện và một số người đã không biết rõ là họ đã thật sự cho tôi biết bao nhiêu tin tức bằng cách phủ nhận hoặc xác nhận những lời phát biểu của tôi.
Tuy nhiên phải chờ đến tận thứ sáu tôi mới có thể xác nhận được lời yêu cầu tăng thêm 206.000 quân là con số của Tướng Westmoreland và chính ông đã yêu cầu. Vào lúc ấy chúng tôi mới có thể viết một cách chắc chắn là Tướng Westmoreland đã yêu cầu gửi thêm 206.000 quân. Điều ấy đã làm cho những tin tức đầu tiên nặng nề, dựa vào đó người ta chờ đợi câu chuyện rộng lớn hơn tường thuật. Cuộc tranh cãi về chính sách do việc yêu cầu gửi thêm quân gây nên” (19).
Mặc dù ông Smith đã kiếm ra được ngay con số chính xác về số quân xin tăng cường. Ông nhận thấy cuộc tranh cãi về chính sách trong chính quyền là phần đáng chú ý và quan trọng hơn cả. Ông nhớ lại như sau:
"Tôi đã kiểm tra con số chính xác và ông Neil xác nhận với tôi là con số đó là do Tướng Westmorland đề nghị. Đã có hai đường dây tin tức đưa tin cho chúng tôi cùng một lúc từ hai loại nguồn gốc khác nhau về quy mô to lớn yêu cầu gửi thêm quân và về cuộc tranh cái trong chính quyền về vấn đề này. Yếu tố thứ hai đã gây cho tôi ấn tượng sâu sắc hơn và tôi cho là yếu tố này đáng chú ý bao nhiêu và tôi đã dành thì giờ để khai thác nó. Nếu chúng tôi đã không nhanh chóng săn được tin xác nhận cuộc tranh luận thì câu chuyện về yêu cầu tăng thêm quân thôi sẽ chỉ viết ra được một cột báo vào giữa tuần mà thôi” (20).
Làm sao mà những nguồn tin từ quốc hội (và những cơ quan khác) hay biết được việc yêu cầu gửi thêm quân và cuộc tranh cãi diễn ra trong chính quyền? Như ông Sheehan đã suy đoán sau đó ông nói:
“Câu chuyện đã được bàn tán khắp nơi trong Tòa nhà quốc hội; về phía diều hâu cũng như bồ câu. Thật vậy, Tổng thống Johnson có thể đã phần nào phải chịu trách nhiệm. Ông thường hay nói chuyện bằng điện thoại với Thượng nghị sĩ Russell. Nguồn tin chính của tôi là săn nhặt được trong Bộ tham mưu của một thượng nghị sĩ khác không quen biết ông Russell nhưng lại là một người có đồng quan điểm với ông ta.
Tôi có cảm tưởng là các nhân vật quân sự cao cấp đã cố gắng tiếp xúc với Tòa nhà Quốc hội để tranh thủ sự ủng hộ của các nghị sĩ đối với việc vêu cầu tăng thêm quân. Họ đã nói với các bạn bè của Tướng Westmoreland trong điện Capitol để biện hộ cho ông ta.
Về phía đối lập, đã có một sự vỡ mộng và bất đồng ý kiến sâu sắc đối với chính sách của chúng ta. Một số quân nhân cấp dưới mà tôi có dịp nói chuyện đã tỏ ra rất bối rối về việc Tướng Westmoreland đã xin gửi thêm quân vào lúc đó. Họ cho rằng đó là điều tệ hại nhất về mặt tâm lý. Cứ như vậy người ta sẵn sàng phát biểu ý kiến. Vì thế mà chúng tôi đã có thể đúc kết thành một câu chuyện chi tiết đến như thế”.
Ông William G.Riller, Trợ lý Thượng nghị sĩ John Sherman Cooper đã diễn tả tình hình như sau:
“Có năm mươi thượng nghị sĩ đã từng có kinh nghiệm trực tiếp về các công việc đối ngoại và quân sự hơn hẳn cấp lãnh đạo chính trị trong bất cứ chính quyền nào. Tới mức độ mà tin tức về nhưng vấn đề then chốt được các thượng nghị sĩ đặc biệt quan tâm, nếu có ảo tưởng nào cho rằng việc gì đang diễn ra có thể giữ kín không cho Quốc hội biết điều đó quả thực là một ảo tưởng có một mạng lưới hên lạc phối hợp rất ăn khớp với nhau trên cơ sở những quan hệ thân thiết và lâu năm giữa Quốc hội và những nhân vật then chốt trong bộ máy quan liêu ở mọt cấp và chính các nhân vật này đã giúp cho Quốc hội biết đầy đủ các tin tức" (21).
Kể từ mùa xuân 1967 sự vỡ mộng về cuộc chiến tranh không ngừng tăng lên trong Quốc hội, sự kiện này phản ảnh sự chán ghét chiến tranh đang không ngừng gia tăng trên khắp cả nước (22). Một số lớn nhà lập pháp nhận ra rằng cuộc chiến tranh đã lâm vào chỗ bế tắc và không có hi vọng sớm đi đến chiến thắng.
Việc Tướng Westmoreland tới thăm Quốc hội trong tháng 11 là nhằm mục đích làm đảo lộn khuynh hướng này và đã thành công trong một thời gian làm giảm bớt cao trào chống lại chính sách chiến tranh đang theo đuổi ở Việt Nam.
Nhưng cuộc tấn công Tết đã làm sống lại vấn đề chính sách của Hoa Kỳ ở Việt Nam và khơi lại cảm nghĩ chống chiến tranh, đặc biệt là trong Thượng viện. Các trận tấn công Tết đã xác nhận nhiều sự nghi ngờ về sự chỉ đạo và tổn phí nỗ lực của Mỹ ở Việt Nam và cũng đã gây nên những sự hoài nghi đối với nhiều người giữ thái độ trung lập và có những người từng ủng hộ chiến tranh.
Ông Riller đã diễn tả tình hình như sau: “tết đã là một thời kỳ bi thảm cho sự phản ứng chống lại chiến tranh liên tục, đã có từ lâu; đối với một số thượng nghị sĩ, những báo cáo của Tổng thống nói rằng mọi việc đang tiến triển tốt đẹp ở Việt Nam, đã được coi như một sự cố ý bác bỏ và khinh thường ý kiến của quốc hội. Các thượng nghị sĩ đã không hiểu rõ tại sao Tổng thống Lyndon Johnson đã không đề nghị tiếp tục tăng quân ở Việt Nam như các cố vấn quân sự của ông đã đề nghị và đối với họ việc này đã trở thành một chính sách không thể nhân nhượng được nữa" (23).
Điều làm cho nhiều nhà lập pháp quan tâm đặc biệt là Tổng thống đã tiến hành một cuộc chiến tranh và đã triển khai hơn nửa triệu người vào cuộc chiến, trên cơ sở đó họ cảm thấy đã nhiều sự tham khảo ý kiến Quốc hội. Họ nhất quyết dành cho được tiếng nói lớn hơn đối với những quyết định trong tương lai và kiên quyết đòi phải được tham khảo ý kiến đối với bất cứ quyết định nào liên quan đến việc tăng thêm số quân quan trọng ở Việt Nam.
Một số Thượng nghị sĩ nổi tiếng đã làm gián đoạn cuộc tranh luận về quyền công dân ngày 7-3 dù nói rõ vấn đề trên cho Tổng thống. Chủ tịch ủy ban đối ngoại Thượng viện, Thượng nghị sĩ J.William Fulbright đã nói: "Vấn đề chính là quyền hạn của chính quyền tự cho phép mở rộng cuộc chiến tranh mà không được sự đồng ý của Quốc hội và đã không hề có một cuộc tranh luận hoặc một sự xem xét nào của Quốc hội cả" (24).
Quan điểm này đã được các bạn đồng nghiệp của ông lặp lại. Thượng nghị sĩ Clifford Case phát biểu: “tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải nhấn mạnh vào điểm ấy. Tôi cho rằng chúng ta không còn có thể lẩn tránh trách nhiệm phải chia sẻ trong việc đưa ra quyết định..." (25)
Thượng nghị sĩ Robert Kennedy tuyên bố: “tôi cho có lẽ là một sự sai lầm khi Tổng thống quyết định biện pháp lâu dài đến leo thang cuộc chiến tranh mà không được sự ủng hộ và sự thông cảm của Thượng nghị sĩ cầm đầu phe đa số ở thượng viện. Mike Manesfild, không phải là kẻ thù của Tổng thống, cũng đã phải quan tâm. Ông đã phát biểu như sau: "Chúng ta đang có mặt ở một vị trí không đúng và chúng ta đang biến thành một cuộc chiến tranh không đúng kiểu”, trong khi đó ông lại công nhận là Tổng thống "đã hết sức cố gắng, mãnh liệt và kiên định tìm con đường đi đến thương nghị" (26).
Bài báo đăng trên New York Times đã xuất hiện một ngày trước ngày Bộ trưởng Ngoại giao Rusk, theo chương trình ấn định, phải ra điều trần trước ủy ban đối ngoại Thượng viện. Các thành viên của ủy ban tỏ ra kính mến và thông cảm ông Rusk. Họ cho là mặc dù ông này đã mắc sai lầm tiếp tục ủng hộ cuộc chiến tranh, xét về phương diện hậu quả của nó đối với đất nước, nhưng ông đã giữ được tính chính trực và chưa hề nói dối họ (27).
Vì thế Chủ tịch Ủy ban trong lời phát biểu khác thường, đã đưa ra nhận xét khi khai mạc buổi điều trần như sau:
"Tôi biết ông hiểu rõ về những vị trong phòng này, về quần chúng nói chung sẽ hiểu là cuộc thảo luận giữa ông và ủy ban và chương trình viện trợ nước ngoài nói chung và đặc biệt là vấn đề Việt Nam tuyệt nhiên không phải do bất cứ một động cơ thù oán gì đối với ông cả. Mọi thành viên của ủy ban này rất kính mến cá nhân ông. Tất cả chúng tôi - và đặc biệt là tôi - công nhận là ít có những quan chức ở Washington ngày nay đã thi hành nhiệm vụ của họ đối với đất nước với đầy nhiệt tâm và nghị lực hơn ông. Trước sự kiện có nhiều người trong chúng tôi không đồng ý với những ý kiến của ông tuyệt nhiên không ngụ ý là chúng tôi không có một sự kính mến sâu sắc đối với trí thông minh và tính chính trực của ông và không phải là chúng tôi không khâm phục sự tận tâm và ý thức trách nhiệm của ông" (28).
Nhưng các nghị sĩ cũng đã hiểu được ảnh hưởng của phương tiện thông tin đại chúng về sự tác động của cuộc điều trần của ông Rusk được truyền hình trực tiếp. Trong hai ngày bị chất vấn, ông Rusk đã điều trần tổng cộng 6 giờ rưỡi ngày 11-3 và bốn giờ rưỡi trong ngày 12-3. Đây là một cuộc chất vấn kéo dài lâu nhất một nhân vật chính quyền và chưa hề bao giờ được phát thanh và truyền hình cho nhân dân Mỹ (29)
Ông Rusk đã tránh né tất cả những mưu toan cầm chân ông ốc vặn hỏi về có thể có một sự tăng thêm quân hay không hoặc những yếu tố khác về chiến lược Việt Nam trong tương lai. Ông đã phát biểu; tôi nghĩ rằng tôi sẽ làm một việc không đáng khi đưa ra những suy đoán về số lượng hoặc những khả năng trước khi Tổng thống có cơ hội xem xét tất cả tin tức về tham khảo ý kiến các cố vấn của ông" (30)
Ông Rusk đã nói rõ là mặc dù “không có đề nghị gì đặc biệt trước Tổng thống trong lúc này... toàn bộ tình hình đang được xem xét từ A đến Z... Những sự kiện và những vấn đề cũng như nhưng cơ hội đang được xem xét, nhưng tôi không thể suy đoán về những quyết định chưa được ban hành hoặc những kết luận chưa đạt được... Chúng tôi đang xem xét tình hình nghiên cứu nó trên mọi khía cạnh nhưng hiện nay chúng tôi chưa đi đến kết luận và Tổng thống chưa có những đề nghị biện pháp hành động dứt khoát - và điều này có nghĩa là có thật chi tiết - trước mặt ông trong lúc này” (31).
Mặc dù ông không bị Ủy ban chất vấn về điểm này, ông Bộ trưởng Rusk đã quyết định nhắc lại lời phát biểu của ông ngày 11-2 liên quan đến vấn đề khả năng có thể đi đến thương thuyết với Bắc Việt Nam. Sự náo động của những cuộc thăm dò ngoại giao với cường độ lớn trong tháng một và đầu tháng hai đã dẫn đến việc suy đoán về khả năng đi đến thương thuyết.
Những cuộc thăm dò chiều sâu do các nhà lãnh đạo chính phủ Án Độ, Liên Xô, Ý, Pháp và ông Tổng thư ký liên hiệp quốc U Thant tiến hành với các đại diện Bắc Việt Nam đã cổ vũ điều mà chính quyền nhận thấy là những hi vọng dối trá đối với một cuộc đàm phán như thế.
Lời phát biểu của ông Rusk trong tháng hai đã tìm cách làm cụt hứng những mong đợi đang dâng lên và hình như có ý nói lên là chính quyền đã không còn hi vọng gì tiến hành cuộc đàm phán trong tương lai gần. Ông nói:
"Không một lúc nào Hà Nội biểu lộ công khai hoặc tư riêng là họ sẽ kiềm chế không lợi dụng bất cứ một cuộc ngừng ném bom nào ở Bắc Việt Nam để củng cố về mặt quân sự. Họ cũng đã tỏ ra chẳng có chút quan tâm nào về những cuộc thảo luận sơ bộ để dàn xếp một cuộc ngừng bắn hoàn toàn" (32).
Trong cuộc điều trần trước ủy ban, ông Rusk đã tự động đưa ra một lời phát biểu tương tự, có lè cũng cùng một lý do - là để làm ngã lòng mọi người đối với sự suy đoán là cuộc đàm phán hòa bình sắp tới diễn ra đến nơi rồi. Trước uỷ ban, ông Rusk đã phát biểu như sau:
"Thật hết sức rõ là tiếp theo các cuộc tiếp xúc gần đây của chúng ta với Hà Nội, họ sẽ không chấp nhận một cuộc ngừng ném bom cục bộ nào và xem đề nghị này như một bước tiến tới hòa bình bằng bất cứ cách nào, theo bất cứ kiểu nào hoặc bất cứ dưới hình thức nào".
Nhưng ông Bộ trưởng vẫn mở rộng cửa để đón nhận những cố gắng của chính quyền nhằm đi vào con đường đàm phán hòa bình. Ông nói với ủy ban như sau:
"Điều đó không có nghĩa là trong khi chúng tôi bước vào tương lai chúng tôi sẽ không để ý xem xét việc ấy và tất cả những đề nghị khác mà chúng tôi có thể nhúng tay vào hoặc là cái gì của chúng tôi có thể nghĩ ra được" (33).
Những buổi điều trần ở Thượng viện được truyền hình đi theo sự mô tả đặc biệt của Thượng nghị sĩ Mundl như một "diễn đàn có tính cách giáo dục" cốt để đáp ứng mục đích ấy vì hình ảnh những buổi điều trần này đã được đưa vào tận nhà cho chính quyền và nhân dân Mỹ thấy sự bất đồng ý kiến đang tăng lên trong ủy ban và trong Quốc hội về sự chỉ đạo chính sách Hoa Kỳ ở Việt Nam và sự cương quyết của Thượng viện đòi phải được tham khảo ý kiến về bất cứ một sự bố trí thêm quân nào ở Việt Nam.
Tạp chí Times tường thuật rằng buổi họp “đã có lúc phơi bày với tài hùng biện những quan điểm cơ bản của chính quyền và những người chỉ trích ít cực đoan hơn". Nhưng các buổi điều trần cũng đã đưa ra cho toàn quốc thấy chủ đề là ông Rusk không ngừng lặp đi lặp lại nhiều lần vấn đề đất nước này phải thực hiện những lời cam kết (34).
Trong khi đó việc nghiên cứu của ông Clark Clifford đã khởi sự trước đây. Tiếp sau báo cáo của Nhóm công tác đặc biệt Clifford được đệ trình lên. Ông tân Bộ trưởng, thường có Tướng Wheeler tháp tùng, đã thực hiện những cuộc gặp gỡ theo một thời khóa biểu thiết thực với những nhân vật lãnh đạo trong Quốc hội, đặc biệt là với các thành viên của Ủy ban Quốc phòng Thượng viện và Hạ viện để tìm hiểu và đánh giá dư luận trong Điện Capitol (Tòa nhà Quốc hột).
Dư luận này đã nhanh chóng trở nên rõ ràng. Tướng Wheeler nhớ lại là "họ tỏ ra không ưa việc gọi nhập ngũ quân dự bị. Nhưng quan điểm của Thượng nghị sĩ Russell đã đặc biệt gây ấn tượng sâu sắc đối với ông Clifford. Ông cho là trước hết chúng ta đã phạm lỗi lầm đưa quân sang Việt Nam (35)
Ông Clifford đã gợi lại ý nghĩ của ông như sau: "Càng đi sâu vào vấn đề tôi càng thấy tôi bắt đầu đi đến quyết định cho ý kiến của Thượng nghị sĩ Russell là đúng, đó là trước hết chúng ta không nên mang quân vào" (36).
Thượng nghị sĩ Henry Jackson sau đó đã nhắc lại những buổi họp với ông Clifford như sau:
“Có khoảng bốn người trong chúng tôi đã ngăn chặn một mưu toan, ngay sau vụ Tết, đem thêm một phần tư triệu quân sang đó. Tôi đã chống lại vì tôi nói chúng ta phải bắt đầu thu gọn việc này lại... Đó là một đoạn ngắn lịch sử chưa hề được thảo luận với đầy đủ chi tiết. Đó không phải là những buổi họp của ủy ban. Chúng tôi đã có những cuộc thảo luận về vấn đề ấy và chúng tôi đã chống lại, trong cuộc thảo luận có Thượng nghị sĩ Russell, Thượng nghị sĩ Stennis, ông Clark Clifford".
Thương nghị sĩ Jackson cho ràng sự chống đối này của Quốc hội đã dứt khoát nằm trong tư tưởng của ông Clifford và lúc ấy “Chúng tôi đã có một loạt những cuộc gặp gỡ nhau trong bữa ăn trưa". Thượng nghị sĩ Jackson nhớ lại như sau:
“Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân và ông Clark Clifford đã gặp các Thượng nghị sĩ Stennis, Russell, Young, Largaret, Chase Smith và tôi. Chúng tôi chỉ cốt nói thật rõ là chúng tôi hoàn toàn chẳng thể ủng hộ một sự gia tăng lớn về quân số ở Việt Nam. Ông Clifford và Tướng Wheeler đã cùng trình bày vấn đề một cách thẳng thắn và nói rằng đó chỉ là một sự phân tích vào lúc ấy.
Ông Clifford đã có tư tưởng hoài nghi. Ông thấy khó lòng đạt được một kết quả nào cho vấn đề trên. Phản ứng của chúng tôi sẽ không ủng hộ việc ấy. Tôi có ý ngờ vực rằng phản ứng của chúng tôi mà ông đã thấy được đã tác động dứt khoát đến vấn đề soạn thào quyết định của ông. Nếu chúng tôi không sẵn sàng ủng hộ việc đó thì ai sẽ ủng hộ ông, Clark Clifford đã tỏ ra chán nản. Phản ứng của chúng tôi đã dứt khoát chiếm một phần tư tưởng của ông và chắc chắn đã trở thành một trong những nhân tố quyết định đã ảnh hưởng đến việc làm của ông ta (37).
Thượng nghĩ sĩ Largaret Chase Smith đã có phản ứng khác. Bà nhắc lại những buổi gặp gỡ nêu trên như sau:
“Tôi đã cảm thấy sâu sắc là Bộ trưởng Clifford và Tổng thống Johnson lúc đó đang cố làm cho các thành viên then chốt của Quốc hội đưa ra quyết định và chịu trách nhiệm về mặt chính trị (ít nhất thì cũng chia sẻ trách nhiệm). Phản ứng của tôi là, vì có Tổng thống mới có tất cả các tin tức và vì Quốc hội khó có thể biết đầy đủ như Tổng thống về cái gì đang cần đến, vì thế việc này không thể thực hiện được.
Các thành viên chủ yếu của Quốc hội chỉ có thể biểu thị phản ứng cá nhân đối với điều mà họ được cho biết mà thôi. Tôi không chắc là họ đã được cho biết tất cả câu chuyện và những sự biến xảy ra sau đó chứng minh sự hoài nghi của tôi đối với hành động của dụng ý này”.
“Về phản ứng cá nhân của tôi, tôi cho rằng với sự tổn thất nhiều nhân mạng đến như thế và với những phí tổn thật là to lớn, chúng ta không thể đột ngột rút lui, rút quân ra khỏi cuộc chiến tranh và do đó nếu chỉ cần thêm ít quân nữa để đem lại chiến thắng thì tôi sẽ bằng lòng ủng hộ việc gửi thêm một số ít quân...
Tôi không chống triệt để việc gọi nhập ngũ quân dự bị. Trái lại, tôi cảm nghĩ rằng quân dự bị cần phải được gọi nhập ngũ để đáp ứng mục đích và nhiệm vụ của nó... Tôi suy luận rằng nếu chiến tranh vẫn cứ tiếp tục với một tốc độ không dứt khoát do hậu quả của nỗ lực bị hạn chế đó sẽ càng ngày càng gây thêm xúc động cho những gia đình người Mỹ có chồng con bị thiệt mạng và vì thế chiến tranh sẽ càng ngày càng trở thành không thể chấp nhận được đối với họ" (38).
Thượng nghị sĩ Mansfields cũng đã gặp gỡ ông Clifford mặc dù ông không nhớ có gặp Tướng Wheeler vào lúc ấy hay không. Ông nhắc lại những cuộc gặp gỡ này theo kiểu sau đây:
“Tôi kính trọng sự quan tâm của ông ấy đối với con đường mà công việc đang được tiến hành và sự cần thiết tìm một giải pháp nào đó cho chiến tranh đang diễn ra ở Đông Dương. Dĩ nhiên là ông ấy đã hiểu rõ cảm nghĩ của tôi như thế nào đối với sự dính líu của chúng ta ngay từ lúc mới bắt đầu và tất cả cái gì tôi đã làm là khuyến khích ông ta làm đủ mọi cách có thể làm được để đưa đến việc chấm dứt chiến tranh" (39).
Những biểu lộ lạc quan liên tục của Bộ tư lệnh Tướng Westmoreland ở Sài Gòn cũng đã gây ấn tượng sâu sắc trong Quốc hội. Tiếp theo những cuộc gặp gỡ của ông với các thành viên của Quốc hội, ngày 7-3 ông Clifrord đã chỉ thị cho Tướng Wheeler gửi công điện cho Tướng Westmoreland với mục đích nói cho ông biết là những lời phát biểu lạc quan như đã được “người phát ngôn quân sự cao cấp" đưa ra và đã được đăng trên báo "New York Times" ra ngày 7-3 đã có ảnh hưởng đáng buồn trong Quốc hội "Liên quan đến lời yêu cầu tăng thêm quân của ông".
Ông Chủ tịch đã phát biểu "Lời yêu cầu đó sẽ khó lòng được thông qua, có lẽ không thể nào thông qua được, nếu chúng tôi không tỏ ra có một thái độ điềm đạm và phải chăng đối với tình hình chính trị, kinh tế về tâm lý ở Nam Việt Nam" (40).
Sự trao đổi công điện này chứng tỏ thêm sự bất đồng quan điểm giữa Sài Gòn và Washington về vụ tấn công Tết. Đối với sự chỉ đạo trên từ Washington, Tướng Westmoreland đã phát biểu như sau: “tôi đã hơi bối rối. Hình như đã có một sự hơi mâu thuẫn. Tại đây tôi đang bị buộc tội xin quân tiếp viện trên cơ sở tình trạng khẩn cấp nhưng tuy vậy người ta lại đang bảo tôi đừng lạc quan khi tôi đang cố thực hiện một sự đánh giá khách quan về tình hình" (41).
Trong khi đó, ông Clirford được yêu cầu ra điều trần trước ủy ban Fulbright tiếp theo ngay sau cuộc điều trần của Bộ trưởng ngoại giao. Nhưng ông Clifford vẫn chưa nắm vững được chiều sâu của sự ràng buộc của ông đối với chính sách Việt Nam của chính quyền, đã xin miễn cho ông phải điều trần, với lý do là ông vừa nhận nhiệm vụ quá mới và quá bận rộn về vấn đề Việt Nam để có thể đưa ra những nhận xét chín chắn đối với chương trình viện trợ quân sự, vấn đề này có vẻ là mục đích của cuộc điều trần.
Biết rõ sự hoài nghi của ông Clifford đang tăng lên, Tổng thống cũng không mong muốn thấy ông ra điều trần trước diễn đàn của một Thượng viện chống đối và được truyền hình đi khắp nơi trên toàn quốc. Được sự đồng ý của Thượng viện, Tổng thống Johnson và ông Bộ trưởng Clifford đã thuận để ông Nitze, Trợ lý Bộ trưởng quốc phòng ra điều trần:
Ông Nitze rất am hiểu cuộc điều trần sẽ đòi hỏi ông phải bênh vực chính sách của chính quyền cho nên ông đã từ chối không ra điều trần dựa trên cơ sở là ông không có đủ tư cách để biện hộ cho những chính sách này. Ông đã trao cho ông Clifford một lá thư do ông soạn thảo gửi Tổng thống, trong đó ông đã nói rõ quan điểm của ông cho rằng việc thực hiện sự bố trí quân sang Việt Nam sẽ đe dọa những cam kết của Hoa Kỳ ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới. Lá thư đã kết luận bằng một đoạn muốn nói rằng do sự tỏ rõ lập trường. Ông có thể rất hiểu được là Tổng thống có thể muốn ông hãy từ chức. Ông Nitze nhắc lại quan điểm của ông như sau:
“Tôi hoàn toàn sẵn sàng chấp nhận một quyết định của chính quyền mà đứng trên lập trường hẹp hòi thì có thể không tán thành nhưng dựa vào đó tôi có thể thấy được nhà cầm quyền cấp cao với sự hiểu thấu vấn đề rộng lớn nên có thể có những suy xét trong tâm trí mà tôi không có trong đầu óc vào lúc ấy và như thể tôi sẽ phải bênh vực quyết định đó. Nhưng tôi cảm thấy tôi đã hiểu rõ vấn đề như ông bạn bên cạnh tôi, nhưng không ai sẵn sàng giải thích cho tôi hiểu những suy xét rộng lớn hơn đó là gì.
Tôi có cảm tưởng là tình hình đã đảo ngược và lúc đó tôi đang chú ý đến những quan tâm rộng lớn hơn nhiều nhà cầm quyền cấp cao. Trong tình huống như thế, tôi không phải là người có thể được đưa đi điều trần… Đây không phải là một mối bất đồng to lớn với chính quyền. Đây chỉ có nghĩa là anh làm theo một cách nào đó và họ bảo đây là cách mà anh sẽ phải thi hành. Tôi không thể nào làm theo cách khác được” (42).
Ông Clifforđ đã sửng sốt trước lá thư của ông Nitze về nội dung cũng như về sự tiếp nhận khi đến tay Tổng thống Johnson, con người rất nhạy cảm đối với vấn đề trung kiên. Ông chấp thuận chuyển lá thư lên Tổng thống nếu ông Nitze sẵn sàng xóa bỏ đoạn nhắc đến sự sẵn sàng "thôi không tiếp tục” đảm nhiệm chức vụ nữa. Việc này đã được ông Nitze thực hiện và phần còn lại của lá thư được gửi lên Nhà trắng. Kể từ ngày ấy, ông Nitze đã không còn được mời dự những bữa ăn trưa được tổ chức vào ngày thứ ba mỗi tuần tại Nhà trắng (43).
Sau đó ông Clifford và Tổng thống đã quyết định chỉ thị ông Warnke phải ra điều trần trước Quốc hội thay mặt Bộ quốc phòng. Ông Warnke đồng ý mặc dù ông có nhiều nỗi lo âu về chính sách Việt Nam. Tuy nhiên. Thượng nghị sĩ Fulbright lại cứ nhất định là ủy ban chỉ sẵn sàng chấp nhận ông Clifford hoặc ông Nitze ra điều trần mà thôi và ủy ban sẽ chờ cho đến khi được chính quyền thông báo ông này hoặc ông kia sẵn sàng ra điều trần. Cứ như thế quả bom lại được ném trở lại vào sân của ông Clifford.
Có lý do để tin rằng đây là điểm mà những hoài nghi đang tăng lên nhưng còn do dự của ông Clifford đã kết tinh thành một niềm tin vững chắc là chiến lược của chúng ta cần phải sẵn sàng tìm một giải pháp hòa bình cho cuộc chiến. Bị xúc động trước sự thành thật và tài hùng biện của các trợ lý của ông như các ông Nitze, Warnke và Goulding, lo lắng trước sự chống đối dễ hiểu trong số các bạn bè trong Quốc hội, không tin theo những lời thuyết phục của các tướng lãnh trong Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, những suy nghĩ của chính ông Clifford đã kết tinh lại. Chắc ý nghĩ phải đứng ra biện hộ cho một chính sách, và không thành công trước một cử tọa gồm những người có phần rất am hiểu vấn đề và có đầu óc chống đối trong Quốc hội đã tập trung những hoài nghi trong trí óc của ông. Ông Nitze đã nhắc lại: “Khi ông Clifford phải đương đầu với khả năng ông ta có thể sắp phải đứng ra bào chữa cho chính sách của chính quyền trước Ủy ban Fulbright. quan điểm của ông đã thay đổi" (44)
Theo như ông Clifford đã giải thích tình trạng khó xử của ông, ông cố tìm kiếm những giải đáp mà không tìm ra nổi một giải đáp nào cả, ông nói:
“Tôi đã không thể tìm ra được giải đáp bao giờ cuộc chiến tranh sẽ chấm dứt. Tôi đã không tìm thấy có cách nào để đưa trận chiến tranh đến chỗ kết thúc. Tôi đã không hiểu được liệu những lời yêu cầu xin tăng thêm quân và đồ thiết bị sẽ đáp ứng đủ nhu cầu chưa hay là sẽ còn cần nhiều hơn nữa và nếu cần thêm nữa thì khi nào và cần thêm bao nhiêu. Tôi không hiểu rõ bao lâu nữa lực lượng Nam Việt Nam sẽ sẵn sàng tiếp quản thay thế được.
Tất cả cái gì tôi có trong tay là lời phát biểu được đưa ra với quá ít tự tin để có thể làm yên lòng. vấn đề là nếu chúng ta cứ cố theo đuổi cuộc chiến tranh trong thời gian dài vô hạn định, quân địch sẽ có thể chọn con đường thôi không tiếp tục cuộc chiến tranh nữa... Tôi tin chắc là con đường quân sự mà chúng ta đang theo đuổi không những là vô tận mà còn tuyệt vọng nữa.
Biện pháp tăng thêm lực lượng Mỹ với số lượng quan trọng chỉ có thể làm gia tăng sức tàn phá và sự Mỹ hóa chiến tranh và như thế làm cho chúng ta thụt lùi xa hơn đối với mục tiêu hòa bình mà dựa vào đó sẽ cho phép nhân dân Việt Nam hình thành những thể chế chính trị và nền kinh tế của họ. Từ nay trở đi, tôi cũng tin chắc là mục tiêu chủ yếu của chúng ta phải là giải quyết việc dính líu của chúng ta và hoạt động hướng về giải kết dần dần (45).
Ông Clifford đã gặp riêng Thượng nghị sĩ Fulbright và trong một cuộc trao đổi câu chuyện một cách thẳng thắn ông đã thông báo cho ông Chủ tịch ủy ban đối ngoại Thượng viện biết về những hoài nghi đang tăng lên trong đầu óc của ông về chính sách Việt Nam mà chính quyền đang theo đuổi. Ông Fulbright đã nhắc lại cuộc gặp gỡ như sau:
“Ông Clifford đã cho tôi biết là ông ta đang tiến hành một cuộc duyệt xét lại chính sách Hoa Kỳ ở Việt Nam. Ông đưa ra lý lẽ là ông không muốn đưa ra lời phát biểu công khai trước khi việc duyệt xét lại hoàn thành. Tôi đã cảm thấy điều thích hợp là nên chờ cho đến khi cuộc duyệt xét này hoàn thành rồi ông ấy hãy ra điều trần trước ủy ban" (46).
Hai người đã đi đến thỏa thuận là nếu ông Clifford phải ra điều trần trong lúc vấn đề đang được tranh luận trong chính quyền, việc này có thể làm những triển vọng đưa đến việc thay đổi chính sách của chính quyền. Phấn khởi trước điều đã nghe được, ông Fulbright đã gửi công văn cho Bộ trưởng Quốc phòng báo cho ông này biết là ông có thể ra điều trần trong tương lai khi nào ông thấy thuận tiện. Như ông Chủ tịch đã phát biểu:
"Quan điểm của ủy ban đối ngoại là đề tài viện trợ quân sự có tầm quan trọng đến mức ông Bộ trưởng Quốc phòng phải ra trình bày trước một buổi họp công khai như trước đây. Lẽ dĩ nhiên, ủy ban rất hiểu sự cần thiết đối với ông để làm quen với đề tài và sẽ sẵn sàng để ông ra điều trần khi nào ông thấy thuận tiện" (47).
Vì thế ông Clifford đã tiến gần hơn đến quyết định về con đường mà Hoa Kỳ cần phải theo để đem cuộc chiến tranh Việt Nam đến chỗ kết thúc. Nhưng như ông sẽ khám phá ra là "Việc đạt đến một sự kết thúc và việc thi hành đầy đủ những điều khoản đã thỏa thuận không giống nhau, đặc biệt là khi người ta không có quyền quyết định cuối cùng" (48).
Dĩ nhiên, việc xác định rõ “Sự ủng hộ" đối với cuộc chiến tranh là tối quan trọng. Một số những nhà bình luận đã nhận thấy có một sự gia tăng lớn trong số những bồ câu sau tháng Ba 1968, trong khi đó thì những người khác lại giải thích việc này như một sự ủng hộ của quần chúng đối với việc tạm ngừng ném bom và sáng kiến hòa bình của Tổng thống.
Xem Converce và Shuman "Những đa số trầm lặng và cuộc chiến tranh Việt Nam" tr.20-21. Harlan Hahn “Những yếu tố liên quan với nhau về cảm nghĩ của công chúng đối với chiến tranh. Trưng cầu dân ý địa phương về vấn đề Việt Nam” tr. 1.189; "Làn sóng bi quan mới đối với cuộc chiến tranh Việt Nam được nhận thấy ở khắp đất nước" tr.6; “Một sự gia tăng rõ rệt được nhận thấy trong số những bồ câu” tr.15. Rostow "Sự chia sẻ quyền lực". tr.461-483. Rosenberg và những người khác: “Vấn đề Việt Nam và đa số trầm lặng" tr.38-39. John Mueller "Cuộc chiến tranh các Tổng thống và dư luận quần chúng" tr.57.
Về sự suy đoán ông Daniel Alsberg đã là người cung cấp nguồn tin cơ bản của câu chuyện đăng trên báo, xin đọc Jack "Alsberg: Những tin tức bị lộ khác".
Ông Nedrick đã có ý kiến như sau:
"Nỗi hoài nghi, biết rõ tin tức xuất phát từ lâu và anh Daniel Alsberg chắc là đã có dính dáng tới việc này. Mặc dù tôi không biết rõ nguồn tin chủ yếu dựa vào đó các nguồn tin của tôi đã săn lượm được chúng tôi biết rõ như Alsberg không phải là nguồn tin trực tiếp".
Cả hai và Sheehan trong khi được phỏng vấn riêng đã phủ nhận việc câu chuyện của họ đưa ra là do đồng sự chính trị thúc đẩy hoặc có một sự liên quan nào với Hội nghị sơ bộ đang chọn lựa ứng cử viên. Họ nói rõ là câu chuyện đã được đăng trên báo chí vì những lý do thực dụng và cạnh tranh: như là săn nhặt được những sự kiện càng gần đầy đủ càng tốt và đăng câu chuyện đó lên báo ra ngày chủ nhật đề đánh bại sự cạnh tranh của các tạp chí tuần báo tin tức khác.
Đọc “John, nhóm tham gia hội thảo ở Thượng viện thúc giục ông Rusk nhận lời tranh luận về cuộc chiến tranh". "Thượng nghị sĩ Mansfield hành động để chấm dứt cuộc cãi lộn cơ bản về việc ông Rusk từ chối". "Sự xuất hiện của ông Rusk trên kích thích việc hình thành nhóm hội thảo...".
Trong bất cứ trường hợp nào. Ông Nitze chỉ tham dự những bữa ăn trưa vào ngày thứ ba mỗi tuần như đại diện cho ông McNamara mỗi khi ông Bộ trưởng Quốc phòng không tới dự được.
Cuộc phỏng vấn riêng trung tướng ngày 5 tháng 2 năm 1975.