← Quay lại trang sách

Chương 15 Tổng Thống Ra Quyết Định.

Tổng thống Lyndon Johnson đã gặp rắc rối. Các cố vấn của ông đã quả quyết với ông và ông đã đảm bảo với đất nước là cuộc tấn công Tết nhìn chung đã tiêu biểu cho một cuộc thảm hại của Cộng sản trong cuộc chiến tranh Việt Nam (1)

Nhưng nhân dân Mỹ đã không tin như vậy. Sự không hài lòng về cuộc chiến tranh không ngớt gia tăng được thể hiện rõ trong Quốc hội cũng như trong đa số cử tri. Thêm vào đó, nạn lạm phát và tình trạng vàng cứ tuồn ra đã đe dọa những thành tựu quan trọng đạt được trong lĩnh vực xã hội vĩ đại.

Tình hình quân sự đang được cải thiện vững chắc ở Nam Việt Nam và những biện pháp kiên quyết mà người ta không ngờ đến của chính phủ Nam Việt Nam đã đưa Tổng thống đến việc quyết định chỉ triển khai một số nhỏ lực lượng Mỹ và tăng thêm việc yểm trợ cho chính quyền Nam Việt Nam để họ có thể chia sẻ phần trách nhiệm lớn lao trong cuộc chiến tranh.

Tổng thống Johnson đã nhất quyết tiếp tục theo đuổi những mục tiêu của Hoa Kỳ ở Việt Nam. nhưng ông cũng kiên quyết đưa ra một sáng kiến hòa bình nghiêm chình, có ý nghĩa đối với Bắc Việt Nam, việc làm này sẽ làm dịu bớt sự chống đối của quần chúng Mỹ đối với cuộc chiến tranh và còn có thể dẫn đến đàm phán để xuống thang chiến tranh. Nhưng bản chất của một đề nghị hòa bình như thế phải như thế nào? Cần đưa ra một đề nghị như thế nào để có thể đạt được tất cả những mục tiêu trên mà không đe dọa an ninh của lực lượng Mỹ ở Việt Nam.

Trong những tháng đã trôi qua, nhiều nguồn tin ngoại giao trên khắp thế giới đã đưa ra nhiều lời thăm dò hòa bình. Những sáng kiến này đã xuất phát từ Liên Xô, Ý, Thụy Điển, Ấn Độ, Đan Mạch, người đại diện của Giáo hoàng, Tổng thư ký Liên hợp quốc và những người khác. Tất cả các sáng kiến này đã được theo đuổi mạnh mẽ và tất cả đều đã được đưa đến con số không (2).

Các cố vấn của Tổng thống tất cả đều đồng ý rằng sáng kiến hòa bình, điều mong muốn và thực vậy, đây là điều cần thiết để làm dịu bớt dư luận quần chúng nhưng họ cũng tán thành ý kiến cho rằng Hà Nội sẽ không chấp nhận một đề nghị như thế cho đến khi họ nhận thức ra được là họ không thể nào đạt được những mục tiêu của họ trên bãi chiến trường hoặc ngay ở tại chính trường Hoa Kỳ.

Hiện nay, ngay ở bên trong chính quyền người ta nhận thấy có một sự hoài nghi về chiều hướng về những cố gắng của Mỹ ở Việt Nam, ông Clifford, người được Tổng thống kính nể và đặt rất nhiều tin tưởng, đã nêu lên sự thắc mắc về hiệu quả của nỗ lực toàn bộ của Mỹ và đã đề xuất là cần phải tìm cách nào để thay thế cờ chiến tranh đang tiếp diễn, tìm biện pháp có thể dẫn đến chấm dứt chiến tranh. Những quan điểm này đã làm cho Tổng thống và ông Clifford càng ngày càng xa cách nhau, mặc dù Tổng thống Johnson vẫn tiếp tục nghe theo ông ta.

Nhưng tin tưởng của Tổng thống Johnson đối với ông Rusk vẫn không hề lung lay, ông đã tìm kiếm lời khuyên từ khắp mọi phía và có thể là ông đã pha trộn những quan điểm này lại để đưa ra một quyết định nhưng cuối cùng Tổng thống vẫn ưa thích chủ yếu là ý kiến của Rusk và nghe theo ý kiến của ông (3).

Rusk đã đưa ra một sáng kiến hòa bình, một cuộc tạm ngừng ném bom không điều kiện ở phần đất phía Bắc vĩ tuyến 20. Nhưng ngay cả ông Rusk, mặc dù tin chắc rằng một đề nghị như thế sẽ đủ có tác dụng tạm ngừng sự ủng hộ đang bị xói mòn của quần chúng đối với cuộc chiến tranh tại Hoa Kỳ, ông đã không tin là biện pháp này sẽ thành công để đưa Hà Nội ngồi vào bàn hội nghị.

Mặc dù ông Rusk là người cố vấn trung kiên và đáng tin cậy song Tổng thống đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những lý lẽ mà ông Clifford và các nhà lão thành đã đưa ra cho rằng cần phải khôi phục sự đoàn kết trong nước để có thể cho phép tiếp tục tiến hành những cố gắng ở Nam Việt Nam.

Vì thế, Tổng thống đã phải đương đầu với một tình trạng khó xử. Làm thế nào để đề nghị hòa bình của ông Rusk có thể được biến đổi từ một đề nghị chỉ cố ý gây ảnh hưởng với ý kiến quần chúng Mỹ và đạt được những hậu quả chính trị mong muốn thành một đề nghị có thể thực hiện được những điều ở trên mà có thể làm cho Hà Nội chấp nhận được và coi đó như một cố gắng thành thực của Mỹ để đạt đến đàm phán? Cần phải có hành động khác nào đó để gây cảm xúc mạnh mẽ mới được.

Tổng thống bắt đầu cân nhắc một đường lối hành động mà các cố vấn của ông, trừ ông Rusk, đã không nhận thấy. Như Tổng thống Johnson đã phát biểu:

“Tôi đang cân nhắc về hiệu quả có thể có về một bước tiến tới hòa bình kết hợp với việc công bố quyết định của tôi rút lui khỏi chính trường vào cuối nhiệm kỳ này. Sự cân nhắc này đặt những sự việc vào một triển vọng khác. Tôi biết rằng một vài cố vấn của tôi đang suy nghĩ về một biện pháp đưa đến hòa bình. Xét về ý kiến quần chúng và những hậu quả chính trị. Tôi đang tự hỏi không hiểu rằng một đề nghị mới có thực sự đưa đến một sự hòa giải không, điều đó làm cho sự thực thay đổi rất nhiều” (4)

Đã từ lâu Tổng thống đều nghĩ đến khả năng không mưu cầu ra ứng cử Tổng thống một nhiệm kỳ thứ hai. Ý nghĩ này không phải chỉ có liên quan đến tình hình ở Việt Nam, Tổng thống Johnson đã bị tác động bởi nhiều sự suy xét “thẳng thắn mà nói, tôi đã không tin rằng... tôi có thể tồn tại được thêm bốn năm nữa với những ngày dài dằng dặc với những căng thẳng liên tục như tôi vừa trải qua... Tôi cũng hiểu thêm rằng khả năng có thể đạt được những lá phiếu cần thiết của đảng Cộng hòa để đẩy tới dự thảo đạo luật tăng thuế cho Quốc hội thông qua sẽ chẳng hơn gì con số không nếu tôi ra ứng cử lại" (5).

Khả năng xảy ra những vụ rối loạn lại ở trong nước tại các thành phố như đã xảy ra trong năm 1968 cũng là một nhân tố cần phải cân nhắc. Tổng thống Johnson đã cảm thấy có thể ông sẽ phải đương đầu với quyết định không, ông đã phát biểu như sau:

"Tôi đã không muốn làm nảy sinh ra một sự ngờ vực mảy may nào là tôi đã đáp ứng lại quá ít hoặc quá nhiều, quá sớm hoặc quá muộn với một mặt chú ý đến sự an toàn của công dân trong nước và mặt kia thì chú ý đến ngày bầu cử” (6).

Tổng thống Johnson cũng đã cảm thấy là ông đã sử dụng gần hết vốn liếng của ông cho Quốc hội và đã thực hiện được hầu hết cái gì ông có thể thực hiện được trong lĩnh vực ban hành pháp luật xã hội trong nước. Vì vậy, bất cứ việc gì khác mà ông có thể thực hiện sẽ phải làm cho được trong thời gian ngắn và có lẽ sẽ thực hiện được tốt hơn với ưu thế không phải là ứng cử viên Tổng thống. Ông Walt Rostow nói:

"Ông ấy nhắc lại việc ông đã đi vào chính trường với tư cách là một nghị sĩ và đã thấy cựu Tổng thống F.D.Roosevelt đã bị bó tay đối với các vấn đề nội bộ vì luật lệ của tòa án tối cao... ông đã cảm thấy là ông có thể hạ ông Nixon nhưng sẽ không thể thực hiện được việc gì trong nhiệm kỳ thứ hai của ông. Vì ông đã gặp quá nhiều cản trở, ông đã sử dụng hết vốn liếng vào phong trào quyền công dân và vào cuộc chiến tranh" (7).

Như Tổng thống đã nhận định tình hình: “Con người biết sử dụng quyền lực có hiệu quả phải là con người có óc thực tế. Người này cần phải hiểu là tiêu phí quyền lực tức là làm tiêu mòn đi. Vì tôi đã không ngần ngại dùng quyền lực của Tổng thống để theo dõi những gì tôi tin hoặc vì lợi ích của đất nước của tôi, tôi đã không có ảo tưởng là quyền lực mà tôi có trong năm 1968 ngang với quyền lực của tôi có trong năm 1964" (8).

Và đã có vấn đề Việt Nam, một vấn đề đã tạo nên biết bao nhiêu là chia rẽ và thái độ thù địch trong đời sống quần chúng Mỹ. Tổng thống Johnson đã trở thành điểm trung tâm của những sự chia rẽ, ông đang bị thách thức hầu như chưa hề có một trường hợp nào xảy ra trước đây đối với một Tổng thống đương nhiệm. Vì thế nếu Tổng thống quyết định rút lui khỏi cuộc chạy đua, vấn đề chiến tranh có thể được đưa ra khỏi cuộc tranh cãi chính trị.

Trong một thời gian đất nước sẽ có thể khôi phục được một bộ mặt ra về đoàn kết nào đó và sự suy luận theo nghĩa rộng chính trị có thể được loại trừ khỏi bất cứ một sáng kiến hòa bình nào. Trong thời gian rất dài Tổng thống đã thảo luận với gia đình của ông và những cố vấn gần gũi ông nhất về khả năng ông không ra ứng cử nữa (9).

Ông đang tìm kiếm một diễn đàn thích hợp để cho việc công bố như thế có thể gây được ảnh hưởng tối đa. Bài diễn văn đọc vào cuối tháng Ba của ông hình như đã ở vào thời điểm rất tốt để đưa ra lời công bố gây cảm xúc mạnh này vì nhiều lý do. Việc này sẽ được thực hiện theo tiền lệ trước đây của Tổng thống Harry Truman và sẽ tạo đủ thì giờ để các ứng cử viên đảng Dân chủ còn lại có thể tổ chức cuộc vận động của họ (10).

Ngoài ra ông còn muốn rằng đề nghị tạm ngừng ném bom của ông được đưa ra mà không bị ràng buộc bởi những lý do chính trị nào khác. Sau đó ông đã giải thích như sau:

“Tôi muốn rằng phe địch và tất cả mọi người bất cứ ở đâu để hiểu rõ quyết định ấy và xem nó như một cố gắng thật sự và thành thật để tìm một con đường đi đến hòa bình. Cách tạo được sức thuyết phục mạnh mẽ nhất để giải thích vấn đề này rõ ràng, theo tôi nghĩ sẽ là kết hợp lời công bố tạm ngừng ném bom của tôi với lời phát biểu là tôi sẽ không ra ứng cử Tổng thống trở lại nữa.

Ngoài ra tôi cũng đã hy vọng rằng sự công bố kết hợp hai vấn đề sẽ còn có thể thực hiện được việc gì khác nữa. Vấn đề Việt Nam đã tạo nên những sự chia rẽ và thù địch giữa những người Mỹ, như tôi đã lo ngại. Tôi muốn hàn gắn một số những vết thương này và phục hồi tình đoàn kết trên đất nước. Bài diễn văn này có thể giúp cho thực hiện việc đó. Tôi đã hết sức mong rằng có thể làm được như vậy” (11).

Không biết chính xác khi nào Tồng thống Johnson đưa ra quyết định thực hiện một cuộc tạm ngừng ném bom ở phần đất trên vĩ tuyến 20, sáng kiến nhằm mục đích hòa bình này sẽ được kết hợp với quyết định của ông rút tên không tái cử Tổng thống, ông đã thiên về đề nghị của ông Rusk trong suốt tháng 3 mặc dù rằng đề nghị này có vẻ không hứa hẹn đưa đến việc khởi sự đàm phán.

Ông Rusk cho biết rằng ông cảm thấy Tổng thống đã xem xét nghiêm chỉnh đề nghị này vào ngày 16 tháng 3 khi đề nghị này được truyền đạt cho Sài Gòn. Ông Mc Pherson cho rằng sáng kiến này đã bị gạt bỏ, chậm lắm là trong buổi họp với Tổng thống ngày 22-3.

Tổng thống đã cho biết rằng vào buổi tối 27-3, ông đã có một cuộc trao đổi rất lâu với lãnh tụ phe đa số ở Thượng viện Mansfield tại Nhà Trắng và đã thảo luận, trong số những vấn đề khác, lời phát biểu mà ông dự định đưa ra. Tổng thống đã đọc cho Thượng nghị si Mansfield là ông có ý định chấm dứt mọi cuộc ném bom ở phần đất trên vĩ tuyến 20 (12).

Nhưng như ông Mansfield lại nhắc lại cuộc nói chuyện trên, Tổng thống chưa hoàn toàn xác định quyết định công bố tạm ngừng ném bom, ông nói:

“Tôi đã gặp Tổng thống từ 6 giờ tối hôm ấy đến 9g30, chỉ tối hôm ấy thôi. Trong thời gian đó, Tổng thống đã đọc cho tôi nghe những đoạn của bài diễn văn mà ông dự kiến đọc vào ngày chủ nhật và ông nói cho tôi biết là ông đã để năm người phụ trách tiến hành việc soạn thảo. Khi ông đọc xong bài diễn văn, tôi đã nói với Tổng thống rằng tôi thiết nghĩ sẽ là một sai lầm nếu đọc bài diễn văn này vì nó không tạo được hy vọng cho nhân dân mà chỉ biểu lộ một sự dính líu sâu hơn.

Ông đã thực sự nêu khả năng chấm dứt ném bom phần đất phía Bắc vĩ tuyến 20. Không hiểu quyết định ấy có "khó khăn" vào lúc ấy hay không, điều đó tôi không rõ. Tôi đã mạnh mẽ thúc giục ông một khi tôi hiểu rõ phải làm thế nào đưa cuộc chiến tranh bi thảm này đến chỗ kết thúc vì đó là một khu vực mà chúng ta đáng lẽ trước hết đừng để bị dính líu vào và đó là một khu vực đã không bao giờ được coi như sống còn đối với nền an ninh của chúng ta" (13).

Vì thế, hình như chậm lắm là tối 27-3, Tổng thống Johnson chưa nhất quyết đưa vấn đề tạm ngừng ném bom cục bộ vào bài diễn văn của ông, mặc dù ông đang bị đẩy tới theo hướng này do sự đòi hỏi của tình hình chính trị của sự cần thiết đưa ra một đề nghị hòa bình nào đó và do lời khuyên của những cố vấn được coi trọng nhất của ông. Tổng thống vẫn nhất quyết giữ trọn quyền định đoạt, ông vẫn cố đạt được sự ủng hộ cho một chính sách mạnh mẽ. Như ông Mansfield đã nhắc lại như sau:

"Tổng thống đã có nêu vấn đề liên quan đến đề nghị tăng lực lượng Hoa Kỳ ở Việt Nam thêm khoảng 206.000 quân, điều mà tôi nói là điên rồ. Tôi nhắc lại bản báo cáo tôi đã gửi đến ông trong năm 1965 trong đó tôi đã bày tỏ vào lúc đó rằng nếu chúng ta cứ tiếp tục đi theo con đường chúng ta đang đi thì rồi việc này sẽ có thể dẫn chúng ta đưa lực lượng quân viễn chinh lên tới 750.000 người ở Việt Nam.

Tổng thống đã không đề cập đến việc ông sẽ không tìm kiếm việc ra ứng cử Tổng thống lại nhưng ông có nói, trong khi ông đang đi tới văn phòng hình bầu dục là tôi sắp từ biệt và ông mong muốn thấy các lãnh tụ tán thành quan điểm của ông hơn nữa. Tôi im lặng không nói, nhưng sau đó Tổng thống tỏ lời cảm ơn tôi đã luôn luôn phát biểu những ý kiến chân thật của tôi đối với ông và nói là ông đánh giá cao tính ngay thẳng của tôi” (14).

Việc soạn thảo bài diễn văn của Tổng thống vẫn tiếp tục tiến hành. Ngày thứ năm 28-3, các ông Rusk, Clifford, Rostow, William Bundy và Mc Pherson đã gặp gỡ nhau tại văn phòng làm việc của ông Rusk để duyệt lại bản dự thảo cuối cùng của bài diễn văn mà Tổng thống sẽ phải đọc trong ba ngày nữa.

Ông Clifford là một trong những người đã không biết hoặc đã không nghĩ là ông đã hiểu được điều gì Tổng thống đang suy nghĩ. Mặc dù cảm thấy được khuyến khích trước phản ứng của các nhà lão thành và ảnh hưởng của họ đối với Tổng thống, ông vẫn cảm thấy phần nào bị ra rìa trong những ngày cuối tháng Ba. "Tôi đã không hoàn toàn hiểu biết về bài diễn văn trong khi các bản dự thảo được tiến hành soạn thảo", ông Clifford đã nhắc lại như thế và ông nói tiếp: "Tôi không thể nhớ lại không hiểu tôi đã có được đọc bản dự thảo hay chưa trước khi tôi đến Bộ ngoại giao" (15).

Lý do đặc biệt có cuộc gặp gỡ trong văn phòng của ông Rusk sáng hôm đó là để duyệt bản dự thảo bài diễn văn và làm cho trơn tru. Việc này đã không đòi hỏi nhiều thời gian và tôi cho rằng có thể trở về vào bữa ăn trưa, ông Clifford đã nhớ lại như thế. Trong bài diễn văn không thấy có vấn đề sáng kiến hòa bình hoặc tạm ngừng ném bom và ông Clifford giống như Thượng nghị sĩ Mansfield tối hôm trước, đã cảm thấy toàn thể giọng điệu của bản dự thảo không phù hợp với tâm trạng của đất nước, ông đã nhận thấy như sau:

"Bản dự thảo đã được trình bày theo một cách mà tôi nghĩ rằng khi được dọc thành diễn văn thì sẽ là một sai lầm bi thảm. Khi tôi đọc bài diễn văn ấy, tôi đã để ra hai mươi lăm phút để phát biểu ý kiến của tôi. Tôi đã nói đây là một bài diễn văn không ổn, là một bài diễn văn về chiến tranh. Cái mà Tổng thống cần là một bài diễn văn về hòa bình. Chẳng hạn câu đầu tiên viết như sau: "Tôi muốn nói với đồng bào về cuộc chiến tranh ở Việt Nam". Tôi muốn câu đó được sửa là "Tôi muốn nói với đồng bào về hòa bình ở Việt Nam".

Điều tôi muốn làm và thật sự tôi đã làm là cứ xoay ngược vấn đề Bản dự thảo đã là một lời kêu gọi cứng rắn, nghiêm khắc nhằm tiếp tục thực hiện chính sách sử dụng vũ lực và kêu gọi sự ủng hộ của quần chúng Mỹ đối với sự tiếp tục theo đuổi một chính sách mà cuối cùng sẽ đưa chúng ta thoát khỏi cảnh hiểm nghèo. Tôi cho rằng đây là một đường lối giải quyết hoàn toàn không đúng" (16).

Ông Clifford đã lặp lại lời yêu cầu của ông là trong bài diễn văn cần công bố bước đầu tiên hướng về xuống thang chiến tranh và giảm bớt mức bạo lực là thực hiện việc tạm ngừng ném bom ở phần đất Bắc vĩ tuyến 20. Ông nhắc lại kế hoạch do ông đề nghị là một biện pháp đầu tiên như thế cần phải được tiếp nối bởi một biện pháp không quan trọng nào đó của Hà Nội để có thể đưa đến những bước xuống thang khác của Mỹ.

Theo lời ông Bundy, Rusk "đã tỏ ra rất phục tùng" (17). "Tôi đã không chú trọng nhiều đến buổi họp ngày 28-3, ông Rusk nhắc lại như thế, ông nói tiếp:

"Vào lúc ấy, tôi đã tin chắc là Tổng thống sắp đưa đến đề nghị tạm ngừng ném bom cục bộ vào bài diễn văn và tôi cũng đã đoán chắc là Tổng thống sẽ không tái ứng cử Tổng thống. Lời lẽ bài diễn văn, xét về hai vấn đề chủ yếu trên, cần được sửa cho hợp với những quyết định ấy. Sáng kiến tạm ngừng ném bom đã không được đưa trước vào bài diễn văn vì Tổng thống không ưa thấy vấn đề ấy được viết lên giấy rồi sau đó ông lại đọc thấy trên báo. Tổng thống sẽ không từ bỏ ý định!" (18).

Ông Rostow tán đồng ý kiến: "Quan điểm của tôi là bài diễn văn chưa thể thành hình một khi đề nghị hòa bình chưa được đưa vào. Chúng tôi hiểu rõ đây sẽ là một vấn đề lớn. Đề nghị đó đang chờ sẵn và đợi thời điểm thích hợp để được đưa vào một khi đề nghị hòa bình đã được đem vào điểm chủ yếu được thấy ngay ở đầu bài diễn văn và bài diễn văn được soạn thảo xoay quanh điểm mấu chốt ấy. Soạn thảo lại bài diễn văn chung quanh vấn đề đề nghị hòa bình không phải là một công việc khó khăn" (19).

Vì thế đến lúc này ông Rusk đã đồng ý với ông Clifford là thời cơ đã đến để lồng đề nghị tạm ngừng ném bom vào bài diễn văn. Ông gọi người thư ký vào và đọc cho người này viết lời phát biểu bao gồm đề nghị bắt đầu của ông một cuộc tạm ngừng ném bom trên thực tế ở phần đất phía Bắc vĩ tuyến 20. "Ông Clifford cho rằng ông phải đấu tranh chống những kẻ hiếu chiến như Rusk và Rostow", ông Rostow nói thế và ông nói tiếp: "Nhưng không cần phải thuyết phục chúng tôi. Chúng tôi đã và đang nghĩ đến một cuộc tấn công sau đề nghị hòa bình từ mùa thu. Chúng tôi phải kéo ông Clifford cùng hành động" (20).

Như ông Clifford vì không hiểu rõ quyết định công bố tạm ngừng ném bom của Tổng thống cho nên đã nhận định tình hình rất khác, ông đã nhắc lại buổi họp như sau:

"Đây không phải là một trò chơi đố chữ. Khi tôi rời buổi họp ấy tôi tự cảm thấy rằng tôi đã đóng góp rất đáng kể vào việc giải quyết khó khăn ấy so với bất cứ đóng góp nào khác của tôi trong thời gian tôi làm việc với Tổng thống Johnson. Do buổi họp ấy, một bản dự thảo khác đã được đưa ra với một giọng điệu hoàn toàn đổi mới của bài diễn văn vào lúc chúng tôi thảo xong bản dự thảo ngày hôm ấy, chúng tôi đã đưa đề nghị tạm ngừng ném bom vào. Tôi nghĩ rằng buổi họp hôm ấy đã làm đảo ngược bài diễn văn" (21).

Ông William Bundy đã chia sẻ quan điểm trên, ông nhận thấy ông Clifford là người chịu trách nhiệm làm cho bài diễn văn giọng cứng rắn trở thành một lời kêu gọi tán thành một giải pháp hòa bình. Vài ngày sau, ông đã bày tỏ quan điểm này bằng cách viết cho ông Clifford một lá thư khen ngợi ông đã thực hiện một việc rất có ích cho quần chúng và qua hành động của ông được thể hiện ngày 28 tháng Ba, ông đã đóng góp cho hòa bình. (22).

Vào cuối buổi họp, ông Rusk và ông Bundy đã thảo một điện tín thông báo Sài Gòn rõ Tổng thống đã chấp nhận đề nghị ngừng ném bom Bắc Việt Nam ở phán đất phía Bắc vĩ tuyến 20. Sau đó ông Rostow đã trình diện Tổng thống, thông báo cho ông rõ là các cố vấn của Tổng thống đang soạn thảo một bản dự thảo khác cho bài diễn văn và ngụ ý là có lẽ thời cơ đã đến đề lồng đề nghị hòa bình vào và hỏi xem Tổng thống có sẵn sàng tiếp họ vào cuối ngày không (23)

Hai ông Mc Pherson và Clifford đã rời phòng họp để soạn thảo diễn văn thay thế. Ông Clifford đã trở về Lầu Năm Góc và thông báo cho ông Warnke và Goulding về tinh thần chung của buổi họp và yêu cầu hai ông này viết bản dự thảo diễn văn bao gồm đề nghị tạm ngừng ném bom. Hai viên chức Bộ quốc phòng này đã tỏ ra thất vọng vì một cuộc ngừng ném bom toàn thể đã không được đề nghị, nhưng ông Clifford đã nói với họ là việc đó không phải là chyện bàn cãi nữa, Tổng thống đã nhất quyết sẽ không chấp thuận việc ngừng ném bom hoàn toàn (24).

Do đó, sự khó khăn trong việc soạn thảo một bài diễn văn thay thế đã làm cho ông Clifford và các viên chức Bộ quốc phòng thuộc quyền ông phải diễn tả đề nghị tạm ngừng ném bom của ông Rusk theo một ngôn ngữ nêu nổi bật lòng thành thật của đề nghị và nhấn mạnh vào bản chất hòa bình của nó. Vì vậy, bản dự thảo bài diễn văn được soạn thảo tại Bộ quốc phòng có đề tài trung tâm nêu nổi bật ý kiến là các hành động của chúng ta có ý nhằm đưa đến đàm phán. Có đưa ra cho Hà Nội hai con đường để lựa chọn sau khi việc tạm ngừng ném bom được thực hiện, một con đường là xác định lại công thức San Antonio, việc này có thể dẫn đến ngừng ném bom hoàn toàn, con đường kia đòi hỏi Hà Nội đáp ứng lại sự kiềm chế của chúng ta, do đó giảm bớt mức độ bạo lực (25).

Tối hôm đó. các ông Clifford, Rusk và Rostow đã gặp Tổng thống tại Nhà Trắng và trình cho Tổng thống xem bản dự thảo bài diễn văn thay thế dài bảy trang (26). Tổng thống gọi riêng ông Rusk vào văn phòng và cho phép ông gửi bản điện tín đi Sài Gòn để thông báo Đại sứ Bunker về những dự định của ông và chỉ thị cho ông Đại sứ thông báo chính phủ Nam Việt Nam và tranh thủ sự đồng ý của họ. Ông Rusk đã lập lại những chỉ thị này cho ông Bundy và bức điện tín được đánh đi.

Đối với ông Bundy, chỉ đến lúc này ông mới rõ là Tổng thống đã quyết định rồi (27). Tuy nhiên, đối với ông Roslow và ông Rusk đây chỉ là một sự kết thúc, sự "kết thúc các thủ tục" để lồng vào bài diễn văn một đề nghị hòa bình đã được quyết định chọn từ lâu (28). Vì vậy, ông Clifford đã không thể thay đồi đề nghị của ông Rusk để đưa ra đề nghị tạm ngưng ném bom không điều kiện ở phần đất phía Bắc vĩ tuyến 20, nhưng ông đã có thể làm thay đổi lời lẽ của bài diễn văn để làm cho nó có tính chất hòa giải và làm nổi bật sự xuống thang và làm cho Bắc Việt Nam dễ dàng có thể chấp nhận và coi đó như cơ sở để đi đến đàm phán.

Việc này đã có thể thực hiện được vì ông Rusk và ông Rostow đã cảm thấy Tồng thống đã quyết định chọn một kiểu tạm ngừng ném bom như thế và sẽ không thể can ngăn được. Ngôn ngữ được dùng để diễn đạt tỏ ra ít quan trọng. Như ông Rusk nhận thấy: "Tôi đã không tìm cách uốn nắn bài diễn văn theo lề lối mà tôi cho rằng nó phải được hình thành. Tôi đã không xắn tay áo và gắng công sức làm việc đó. Giọng điệu của bài diễn văn, xét về hai vấn đề chủ yếu, cần phải được làm cho phù hợp với những quyết định ấy" (29).

Như vậy, như ông Mc Pherson đã nhận thức được. có cái gì mạnh hơn điều ông Clifford tin chắc và có đầy sức thuyết phục đã làm cho ông Rusk và ông Rostow đồng ý thay đổi giọng điệu của bài diễn văn. Nhờ biết được những ý định của Tổng thống hơn điều mà ông Clifford đang biện hộ, hai người này đã hướng sự chú ý vào "cái gì" cần phải có trong bài diễn văn được như một sáng kiến hòa bình chứ không phải điều ấy cần được diễn đạt "như thế nào" (30). Nhưng vấn đề "như thế nào" đã thể hiện giọng điệu mà sáng kiến hòa bình được phát biểu cần phải được coi trọng.

Một phiên họp khác về soạn thảo bài diễn văn đã được triệu tập vào ngày thứ bảy 30 tháng Ba, Tổng thống đã có mặt trong phiên họp này, ông không mặc áo khoác, cà vạt kéo xệ xuống,duyệt lại từng chữ trong bài diễn văn rất cẩn thận. Ông Clifford, Tướng Wheeler, các ông Rostow, Christian Bundy và Mc Pherson đã có mặt, ông Nicholas Katzenbach đại diện ông Rusk, ông này đã rời Washinglon đi Wellington, Niu Di Lân, tham dự một buồi họp đã được dự định trước gồm những nước đã đóng góp vào việc đưa quân đến Việt Nam.

Chính trong phiên họp ngay ông Clifford đã nắm chắc điều mà ông cho là sự nổi bật thật sự được đưa vào bài diễn văn như ông Mc Pherson nhớ lại như sau:

“Đó là điều chưa từng thấy trong kinh nghiệm của tôi. Buổi họp đã diễn ra rất lâu với rất nhiều sự bàn cãi về hầu hết mỗi đoạn của bài diễn văn. Chúng tôi hầu như duyệt lại từng chữ trong bài diễn văn và đã thay đổi nhiều đoạn trong đó. Trong phiên họp soạn thảo diễn văn kéo dài ấy, ông Clifford đã đặt thành vấn đề bất cứ một từ nào được xem như gợi ý rất nhẹ nhàng là chúng ta sẽ tiến hành trở lại việc ném bom. Tổng thống rất am tường điều mà ông Clifford đang làm và ông sẵn sàng thừa nhận điều đó.

Từ trước đến giờ không có ai dám nói: "Tổng thống sẽ không thể ra lệnh ném bom trở lại một khi đã đọc bài diễn văn này". Nhưng mọi sự thông báo mà chúng tôi đang cố tìm cách truyền đạt trong bài diễn văn là chúng ta sẽ không tái ném bom toàn bộ, chúng ta đang giảm bớt ném bom, dừng lại vĩ tuyến 20. Một lần nữa ông Clifford lại bày tỏ ý kiến cho đó là một phương thức trao đổi có đi có lại - một phương thức nắm kéo xuống bằng được (31).

Khi buổi họp chấm dứt, xét về sự ám chỉ đầu tiên và quyết định chính trị sẽ được công bố trong bài diễn văn này. Tổng thống Johnson đã nói với ông Mc Pherson trong đoạn cuối của hài diễn văn xét ra không cần phải soạn thảo vì ông đã viết xong đoạn này rồi (32).

Tổng thống đã tham khảo ý kiến những nhân vật lãnh đạo trong quốc hội vào buổi sáng 29 tháng Ba về ý định của ông trong việc ném bom và ông Clifford do sự thúc giục của Tổng thống đã thông báo cho những thành viên Quốc hội khác vào ngày hôm sau (33).

Cũng trong ngày 30 tháng Ba, Đại sứ Bunker đã báo cáo rằng ông đã thi hành những chỉ thị của Tổng thống và đã thông báo chính phủ Nam Việt Nam. Cả ông Thiệu và ông Kỳ, theo lời ông Đại sứ thuật lại, đã "trả lời ngay tức khắc và không do dự là việc đó có thể làm được” (34).

Ngoài ra ông Clifford còn tham khảo ý kiến các thành viên của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, những người mà Tổng thống sẽ cần đến sự ủng hộ của họ, những người này trừ Tướng Wheeler chưa hề được tham khảo ý kiến về việc tạm ngừng ném bom. Việc thuyết phục những nhân vật này đã không gặp khó khăn.

Quyết định tạm ngừng ném bom chỉ có tính cách tạm thời nếu Bắc Việt Nam không đáp lại, có một số ít mục tiêu đáng đánh ở phía Bắc vĩ tuyến 20 nhưng thời tiết xấu sẽ ngăn cản những cuộc tấn công trong khu vực này dù trong bất cứ tình huống nào và đang cần có một hành động nào đó để củng cố lại sự ủng hộ của quần chúng Mỹ đối với việc tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh. Nếu không đưa ra quyết định này, chúng ta sẻ không tranh thủ được sự ủng hộ của nhân dân Mỹ để có thể tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh bằng bất cứ đường lối nào có hiệu quả, đó là lời phát biểu sau đó của Tướng Wheeler (35).

Trong một bức điện tín gửi cho Tướng Westmoreland để thông báo lần đầu tiên quyết định của Tổng thống, các nhà lãnh đạo quân sự đã nhấn mạnh đến những vấn đề cần quan tâm nêu trên ở trong nước. Trước hết, Tướng Wheeler thông báo cho Tướng Westmoreland biết về việc gì mà ông đã biết trước đó là việc Tổng thống sẽ công bố việc triển khai thêm lực lượng Mỹ đã được thỏa thuận sang Nam Việt Nam.

Ông nói rõ là Tổng thống cảm thấy điều cần phải làm là để chặn đứng những lời buộc tội leo thang của những người đối lập với ông về chính sách Đông Nam Á của ông, ông cần phải đồng thời đưa ra một sáng kiến khác để nhận đạt được một sự dàn xếp hòa bình vào cuộc chiến tranh. Nhưng trong số những nhân tố thích hợp với quyết định của Tổng thống "việc tranh thủ sự ủng bộ của quần chúng đã được nhấn mạnh khi đó không thấy đề cập gì đến vấn đề thương thuyết".

a) Kể từ khi xảy ra cuộc tấn công Tết, sự ủng hộ của quần chúng Mỹ và của Quốc hội Mỹ đối với cuộc chiến tranh ở Đông Nam Á đã giảm sút với tốc độ rất nhanh. Nhiều người trong số những người đề xướng nhiệt tình nhất hành động mạnh mẽ nhất ở Việt Nam đã thay đổi hoàn toàn quan điểm của họ và đã thiên về lập trường trung lập hoặc là đang lưỡng lự. Nếu khuynh hướng này cứ tiếp diễn không bị kìm hãm thì sự ủng hộ của quần chúng đối với những mục tiêu của chúng ta tại Đông Nam Á sẽ quá mỏng manh để có thể duy trì nỗ lực hiện nay.

b) Thời tiết trên phần đất phía Bắc thuộc Bắc Việt Nam sẽ tiếp tục không thích hợp cho các hoạt động của không quân trong vòng 30 ngày tới đây, vì thế nếu cần thực hiện việc ngừng các hoạt động không quân thì lúc này là thời điểm tốt nhất đứng trên quan điểm quân sự.

c) Hy vọng rằng sáng kiến đơn phương tìm kiếm hòa bình này sẽ làm đảo ngược sự bất bình và chống đối đang tăng lên đối với cuộc chiến tranh trong xã hội của chúng ta.

d) Sáng kiến trên sẽ giúp chống lại sự chỉ trích của nước ngoài (36).

Các tham mưu trưởng liên quân đã thôi không hăng hái tán thành đề nghị của Tổng thống mà họ đã không được tham khảo ý kiến một cách tích cực. Theo quan điểm của các nhà lãnh đạo quân sự, đó là hoàn toàn quyết định của Tổng thống. Tướng Wheeler đã thông báo cho những nhà chỉ huy quân sự thuộc quyền ông như sau:

“Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đữ được báo cho biết sáng kiến đơn phương sẽ được đưa ra, hiểu rõ các lý do về việc đó vì thế Hội đồng tham mưu trưởng liên quân ra lệnh cho tất cả các tư lệnh quân sự ủng hộ quyết định của Tổng thống" (37).

Trong một điện tín riêng, Tướng Wheeler đã thông báo cho Tướng Westmoreland rõ là trong buổi họp ngày 30.3 tại Nhà Trắng, Tổng thống đã vạch rõ là trước đây chúng ta thường hay bị tố cáo là các sáng kiến hòa bình đả được tiếp nối bằng việc gia tăng các hoạt động quân sự. Vì thế ông yêu cầu vị tư lệnh chiến trường tiến hành các cuộc hành quân đặc biệt là việc giải vây Khe Sanh đã được trù hoạch, ở mức vừa phải và chỉ xem đó như là một diễn biến thông thường của các cuộc hành quân tiến công địch quân thôi" (38).

Ngày thứ bảy 30-3, Bộ Ngoại giao đánh một điện tín cho các đại sứ Mỹ tại Australia, New Zealand, Thái Lan, Lào, Philippin và Nam Triều Tiên, chỉ thị các vị này thông báo cho các vị nguyên thủ các nước này rõ những yếu tố chủ yếu về việc công bố về chính sách mà Tổng thống dự định thực hiện. Bức điện tín đã cung cấp cho các đại sứ thêm những lý lẽ để biện hộ cho chính sách mới và để các vị này có thể sử dụng trong các cuộc nói chuyện với các nhà lãnh đạo nước ngoài và các đồng mình:

a) Quí vị cần phải gọi sự chú ý đến việc gia tăng lực lượng sẽ được công bố đồng thời và sẽ làm cho sáng tỏ ý chí kiên quyết liên tục của chúng ta. Ngoài ra cần lưu ý đến ưu tiên hàng đầu dành cho việc trang bị lại các lực lượng Quân đội Việt Nam cộng hòa.

b) Quí vị cần phải nêu rõ là Hà Nội rất có thể sẽ lên án kế hoạch và như thế sẽ tạo cho chúng ta thế tự do hành động sau một thời gian. Tuy vậy, chúng ta có thể mong muốn tiếp tục thực hiện sự hạn chế ném bom ngay cả sau khi có sự lên án chính thức, để củng cố thêm lòng thành thật trong việc tạm ngừng ném bom và để có thể đổ hết trách nhiệm cho Hà Nội một cách vững chắc đối với bất cứ việc gì xảy ra sau đó. Lẽ dĩ nhiên bất cứ một sự thay đổi chủ yếu nào về quân sự có thể bắt buộc chúng ta tiến hành ném bom trở lại toàn diện bất cứ lúc nào.

c) Dù có lên án hay không lên án, Hà Nội rất có thể cảm thấy bị hạn chế trong việc tiến hành bất cứ một cuộc tấn công lớn nào, ít nhất trong các khu vực ở phía Bắc. Nếu thật sự họ cảm thấy như thế, việc này có thể làm nhẹ bớt sức ép lại khu vực mà sức ép này rất nghiêm trọng. Nếu họ không hạn chế các hoạt động, lúc đó việc này sẽ tạo cho chúng ta lĩnh vực hoạt động rõ ràng đối với bất cứ hành động nào xét thấy cần.

d) Vì lý do những hạn chế về thời tiết, việc ném bom phần đất phía Bắc vĩ tuyến 20 trong bất cứ trường hợp nào cũng sẽ bị hạn chế ít nhất là trong khoảng thời gian bốn tuần tới - thời gian mà chúng ta dự tính coi đó như thời gian thử nghiệm tối đa trong bất cứ trường hợp nào. Do đó, chúng ta sẻ không bỏ qua bất cứ sự việc gì thật sự nghiêm chỉnh trong khoảng thời gian được bố trí này. Hơn nữa, sức mạnh không quân lúc này được sử dụng ở phần đất phía Bắc vĩ tuyến 20 sẽ có thể được sử dụng ở Lào (tại đây không trù tính thay đổi chính sách) và Nam Việt Nam.

e) Đến mức mà sự công bố trên báo hiệu trước bất cứ khả năng nào ngừng ném bom toàn bộ, trong trường hợp Hà Nội thật sự đáp lại bằng những sự kiềm chế của họ, chúng tôi coi sự việc này không chắc có thể xảy ra. Nhưng trong bất cứ tình huống nào, thời gian biểu lộ sự kiềm chế có lẽ sẽ phải để cho tiếp diễn trong thời gian nhiều tuần lễ và như thế chúng ta sẽ có đủ thì giờ để đánh giá tình hình và tham khảo ý kiến họ thật cẩn thận trước khi chúng ta định tiến hành một hành động nào (39).

Như vậy, để làm yên lòng các đồng minh của chúng ta về "ý chí kiên quyết liên lục" của chúng ta, bức điện đã biểu lộ rõ ràng là không trông mong mấy ở sáng kiến này. Có lẽ nó có thể củng cố sự thành thật của chúng ta và “đặt hết tránh nhiệm một cách vững chắc lên trên lưng Hà Nội đối với bất cứ việc gì xảy ra sau đó. Người ta đã không mong đợi Hà Nội sẽ phản ứng tích cực mặc dù họ có thể "cảm thấy" bị hạn chế không cho phép tiến hành bất cứ một cuộc tấn công lớn nào ít nhất là ở những khu vực phía Bắc", đó là điều mà ông Clifford đặt hy vọng lớn nhất nhưng theo Bộ ngoại giao nhận thấy thì việc đó rất khó xảy ra.

Thời gian thử nghiệm được trù tính là khoảng bốn tuần lễ diễn ra trong một mùa mà thời tiết sẽ hạn chế việc ném bom trong bất cứ tình huống nào. Sau thời gian này chúng ta sẽ rảnh tay để có thể quyết định ném bom trở lại như trước kia, mặc dù điều này đã không được phát biểu một cách rõ ràng.

Bài diễn văn của Tổng thống gửi toàn thể quốc dân đọc hôm thứ bảy 31.3 đã mở đầu bằng tóm tắt những cố gắng của ông để đạt được hòa bình ở Việt Nam qua nhiều năm (41), lời mở đầu được thể hiện như sau:

"Đồng bào thân mến.

Tối nay tôi muốn nói với đông bào về hòa bình ở Việt Nam và Đông Nam Á...

Từ nhiều năm nay, các đại diện chính phủ chúng ta và của các nước khác đã đi khắp thế giới cố tìm một cơ sở cho việc đàm phán về hòa bình.

Kể từ tháng chín năm ngoái, họ đã đem theo đề nghị mà tôi đã tuyên bố công khai ở San Antonio.

Đề nghị đó nội dung như sau:

Hoa Kỳ sẽ ngừng hẳn việc ném bom Bắc Việt Nam khi nào hành động này có thể đưa ngay đến những cuộc thảo luận có ích và có kết quả - và chúng ta cho rằng Bắc Việt Nam sê không lợi dụng về mặt quân sự trước sự kiềm chếc của chúng ta.

Hà Nội đã vừa bí mật vừa công khai. Ngay trong lúc mà việc tìm kiếm hòa bình đang tiếp diễn. Bắc Việt Nam đã vội vã chuẩn bị một cuộc tấn công. Cuộc tấn công này xảy ra trong những ngày nghỉ Tết (Tổng thống kể lại sơ qua), mặc dù đã gây nên sự tan vỡ đau khổ và thiệt hại nhân mạng có tính cách lan rộng nhưng đã không đạt được một mục tiêu nào cả”.

Trong khi lặp lại công thức San Antonio và công bố đột ngột việc ngừng ném bom cục bộ Bắc Việt Nam được xem như một sáng kiến mới nhằm mục đích giảm bớt mức bạo lực hiện nay và dẫn đến đàm phán hòa bình, Tổng thống đã không đả động gì đến sự quan tâm về sự ủng hộ ở trong nước đối với cuộc chiến tranh và cũng không bày tỏ bất cứ một sự nghi ngờ gì về bức điện tín của Bộ Ngoại giao đêm hôm trước nói rằng không trông mong gì sáng kiến này được kết quả. Thực vậy chủ đề trọng tâm của đoạn này trong bài diễn văn là hành động đơn phương của chúng ta nhằm mục đích sớm dẫn đến đàm phán. Tổng thống còn đề cử những đại diện của Hoa Kỳ cho cuộc đàm phán. Tổng thống nói:

“Không cần trì hoãn cuộc đàm phán để có thể đưa cuộc chiến tranh kéo dài và đẫm máu này đến chỗ kết thúc.

Tối nay tôi nhấc lại đề nghị mà tôi đã đưa ra hồi tháng tám năm ngoái - đó là ngưng ném bom Bắc Việt Nam. Chúng tôi yêu cầu tiến hành ngay cuộc đàm phán. Cần thương thuyết nghiêm chỉnh với thực chất là bàn về hòa bình. Chúng tôi cho rằng trong khi những cuộc đàm phán đang tiến hành, Hà Nội sẽ không lợi dụng sự kiềm chế của chúng ta.

Chúng tôi sẵn sàng hành động ngay hướng về hòa bình thông qua thương lượng.

Vì thế, tối nay, trong niềm hy vọng, là hành động này sẽ sớm dẫn đến đàm phán, tôi đưa ra biện pháp đầu tiên để xuống thang chiến tranh. Chúng tôi đang giảm bớt xuống đáng kể mức độ chiến sự hiện nay. Và chúng tôi đang thực hiện đơn phương điều ấy và tiến hành ngay lập tức.

Đêm nay, tôi đã hạ lệnh cho máy bay và các tàu hải quân của chúng ta thôi không thực hiện những cuộc tấn công vào Bắc Việt Nam nữa, trừ tại khu vực phía Bắc vùng phi quân sự mà tại đó sự tăng cường liên tục của quân địch trực tiếp đe dọa những vị trí tiền tiêu của chúng ta và tại đó những sự chuyển quân và hàng tiếp tế của đối phương rõ ràng có liên quan đến mối đe dọa ấy.

Khu vực chúng ta đang ngừng không tiến hành những cuộc tấn công ban đêm gần 90% dân số của Bắc Việt Nam và hầu bết lãnh thổ của họ. Như vậy sẽ không thực hiện những cuộc tấn công chung quanh những khu vực chủ yếu đông dân cư hoặc là tại những vùng sản xuất lương thực của Bắc Việt Nam.

Ngay cuộc ném bom miền Bắc rất hạn chế này cũng có thể sớm chấm dứt - nếu sự kiềm chế của chúng ta được Hà Nội đáp ứng bằng sự kiềm chế của họ. Nhưng lương tâm của tôi không cho phép ngừng ném bom toàn bộ chừng nào mà việc làm như thế có thể làm nguy hại ngay và trực tiếp đến sinh mệnh của các binh sĩ của chúng ta và của các đồng minh chúng ta. Một cuộc ngừng ném bom toàn thể liệu có thể thực hiện được nhưng trong tương lai, việc này sẽ được quyết định tùy theo những sự biến.

Mục đích hành động này của chúng tôi là để dẫn đến sự giảm bớt mức bạo lực hiện nay. Nó nhằm cứu những sinh mệnh của những binh sĩ dũng cảm và đồng thời cứu sống những người đàn bà và trẻ em vô tội nữa. Nó cho phép hai lực lượng chiến đấu tiến gần hơn đến một cuộc dàn xếp chính trị.

Bây giờ cùng như trong quá khứ, Hoa Kỳ sẵn sàng gửi những đại diện đến bất cứ diễn đàn nào, bất cứ lúc nào để thảo luận những biện pháp có thể đưa cuộc chiến tranh xấu xa này đến chỗ chấm dứt.

Tôi đang đề cử một trong những người Mỹ lỗi lạc nhất, Đại sứ Averell Harriman với tư cách đại diện cá nhân tôi trong các cuộc đàm phán. Ngoài ra, tôi đã yêu cầu Đại sứ Lewdlyn Thompson được triệu hồi từ Mát-xcơ-va về nước để tham khảo ý kiến và sẵn sàng đi theo Đại sứ Harriman đến Giơ-ne-ve hoặc bất kỳ một chỗ nào khác xét thấy thích hợp ngay sau khi Hà Nội tán thành họp hội nghị.

Tôi kêu gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh hẵy đáp ứng tích cực và thuận lợi đối với biện pháp mới hướng về hòa bình này".

Không có một điều kiện nào được đặt ra cho cuộc tạm ngừng ném bom và quả thực nó không được “mệnh danh là một cuộc tạm ngừng" mà là "một cuộc ngừng hẳn". Không có một thời gian nhất định được nêu và bài diễn văn đã không bao hàm một sự đe dọa nào và đã không liệt kê một điều kiện nào để có thể lại tiếp tục ném bom trở lại.

Tổng thống đã không thảo luận việc gì sẽ xảy ra nếu không đạt đến đàm phán và chỉ cho biết là quân đội Nam Việt Nam đang trở thành lớn mạnh hơn, đã đạt được nhiều thành tích và sẽ được Hoa Kỳ trang bị lại để có thể dồn nỗ lực cần thiết nhằm bảo vệ lãnh thổ của họ. Việc công bố sự gia tăng không đáng kể lực lượng Mỹ chỉ được nêu vắn tắt và có vẻ gần như một lời chú thích so với những lời phát biểu gây cảm xúc mạnh mẽ đã được đưa ra trước.

"Trong nhiều dịp tôi đã nói cho nhân dân Mỹ rõ là chúng tôi sẽ phái sang Việt Nam những lực lượng cần phải có để hoàn thành nhiệm vụ của chúng ta tại đó. Như thế, coi điều ấy là điều chỉ dẫn, trước đây chúng tôi đã cho phép thực hiện mức số quân vào khoảng 525.000 quân.

Từ vài tuần nay - để đáp ứng nhu cầu quân số để có thể đương đầu với cuộc tấn công mới đây của địch quân - chúng tôi đã phái thêm sang Việt Nam khoảng 11.000 lính thủy đánh bộ và lính không vận. Số quân này đã được triển khai bằng máy bay trong 48 tiếng đồng hồ, trên cơ sở vì trường hợp khẩn cấp. Nhưng pháo, xe tăng, máy bay và những đơn vị khác cần để cùng hoạt động và yểm trợ những chiến sĩ bộ binh trong tác chiến đã không thể gửi đi cùng trong thời hạn ngắn ấy.

Để các lực lượng nêu trên có thể đạt được hiệu lực tối đa, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đã đề nghị với tôi rằng chúng ta phải chuẩn bị gấp - trong vòng năm tháng tới - số quân yểm trợ. Tổng số lên tới khoảng 13.500 người”.

Phần kế tiếp bài diễn văn của Tổng thống đã liệt kê chi tiết những chi phí của cuộc chiến tranh Việt Nam và đưa ra lời yêu cầu Quốc hội có hành động để làm giảm bớt sự thiếu hụt bằng cách thông qua dự luật đánh thêm thuế, vấn đề này đã được đệ trình và yêu cầu quốc hội thông qua gần một năm sau.

Nói tóm lại, Tổng thống đã lặp lại những mục đích và mục tiêu của Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam, ông đã giải thích cho thấy những mục tiêu này đã trực tiếp liên hệ đến tương lai của toàn thể vùng Đông Nam Á như thế nào và ông lại một lần nữa kêu gọi Bắc Việt Nam hãy tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho cuộc chiến tranh. Tổng thống nói:

“Tôi không thể hứa hẹn là sáng kiến mà tôi vừa công bố đêm nay sẽ hoàn toàn thành công đạt tới hòa bình nhiều hơn 30 sáng kiến khác mà chúng ta đã thực hiện và tán thành trong những năm gần đây.

Nhưng trong niềm hy vọng thiết tha của chúng tôi, chúng tôi mong rằng Bắc Việt Nam sau nhiều năm chiến đấu mà vấn đề vẫn không được giải quyết, bây giờ sẽ ngừng các cố gắng của họ đạt chiến thắng quân sự và sẽ cùng chúng tôi hoạt động hướng về thương thuyết hòa bình.

Vì thế, đêm nay tôi xác nhận lại lời hứa đã được chúng tôi đưa ra ở Manila - là chúng ta sẵn sàng rút các lực lượng của chúng ta ra khỏi Nam Việt Nam khi mà phía bên kia rút các lực lượng của họ về miền Bắc.. ngưng xâm nhập và như vậy mức độ bạo lực sẽ giảm xuống.

Tối nay tôi vừa đưa ra biện pháp đầu tiên, dựa theo đó tôi hy vọng sẽ dẫn đến một loạt những hành động của cả đôi bên hướng về hòa bình. Tôi cầu xin cho sáng kiến hòa bình sẽ không bị các nhà lãnh đạo Bắc Việt Nam bác bỏ.

Tôi cầu xin cho họ chấp nhận nó như một biện pháp dựa vào đó những hy sinh của chính nhân dân của họ có thể được chấm dứt. Và tôi đòi hỏi sự giúp đỡ và sự ủng hộ của mọi người, những đồng bào của tôi, để cho nỗ lực này đến tận bên kia chiến trường, hướng về mục tiêu sớm đem lại hòa bình”.

Cuối cùng Tổng thống đã nói chuyện theo một lối rất riêng biệt nhằm chú đến những thành quả ở trong nước và đến vấn đề hình như đã được xem như chiếm vị trí hàng đầu trong tâm trí của ông trong suốt tháng trước gồm có bàn cãi, nhận định lại và đánh giá chính sách Việt Nam của nước Mỹ - có liên quan đến vấn đề đoàn kết trong nước, ông phát biểu như sau:

“Sức mạnh chủ yếu của đất nước chúng ta và sự nghiệp của chúng la sẽ không phải là dựa vào vũ khí hùng mạnh hoặc tài nguyên vô tận hoặc của cải bao la mà sẽ dựa vào đoàn kết thống nhất của nhân dân chúng ta.

Tôi rất tin tưởng vào vấn đề này

Trong quá trình 37 năm phục vụ đất nước, trước hết với tư cách là dân biểu, nghị sĩ và phó Tổng thống rồi bây giờ là Tổng thống của đồng bào, tôi đã để tình đoàn kết của nhân dân lên trên hết. Tôi đã để nó trên cả bất cứ các đảng phái gây chia rẽ nào...

Hiện nay đang có sự chia rẽ trong nội bộ nước Mỹ. Tối nay, giữa toàn thể chúng ta đang có sự chia rẽ. Và nắm vững tín nhiệm của đồng bào, với tư cách là Tổng thống, tôi không thể coi thường mối nguy hiểm đối với tiến bộ của nhân dân Mỹ và không đếm xỉa đến niềm hy vọng cũng như triển vọng hòa bình của toàn thể các dân tộc.

Vì thế, tôi khẩn khoản yêu cầu toàn thể những người Mỹ, dù những lợi ích cá nhân hoặc mối lo âu như thế nào đi nữa, hãy đề phòng đừng để bị phân hóa và tránh tất cả những hậu quả sâu xa của nó.

Cách đây năm mươi hai tháng và mười ngày, trong một lúc xảy ra tấm thảm kịch và hội chứng của nó, những trách nhiệm của văn phòng Tổng thống đã được đặt lên vai tôi. Lúc đó tôi đã yêu cầu đồng bào và xin Chúa giúp tôi để chúng tôi có thể tiếp tục đưa nước Mỹ đi theo con đường đang đi của nó, băng bó những vết thương, hàn gắn lịch sử của chúng ta, tiến thẳng tới một sự đoàn kết mới, giải quyết những việc phải làm của Mỹ và giữ lời cam kết của Mỹ đối với toàn thể nhân dân chúng ta. Đoàn kết chúng ta đã giữ cam kết ấy. Đoàn kết chúng ta đã mở rộng sự cam kết ấy.

Trong suốt thời gian tới đây, tôi nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ là một nước hùng mạnh hơn, một xã hội công bằng hơn và sẽ là một giải đất cống hiến rất nhiều cơ hội và sự hoàn thành lớn hơn bởi vì với tất cả những việc gì mà chúng ta cùng thực hiện với nhau trong những năm gần đây, thành tựu đã cho thấy là vô cùng.

Do đó, tôi sẽ không tìm kiếm và sẽ không nhận sự đề cử của đảng tôi đưa tôi ra ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa để một lần nữa trở thành Tổng thống của đồng bào.

Tuy nhiên, hãy để cho thiên hạ ở khắp nơi hiểu một nước Mỹ hùng mạnh, tin tưởng và cảnh giác đêm nay sẵn sàng đứng ở tư thế tìm kiếm một nền hòa bình trong danh dự và đêm nay sẵn sàng bảo vệ một sự nghiệp vinh dự với bất cứ giá nào, bất cứ nặng nhọc như thế nào, bất cứ những hi sinh nào mà nhiệm vụ có thể đòi hỏi.

Cảm ơn đồng bào đã lắng tai nghe.

Chào đồng bào và xin Chúa ban phúc lành cho mọi người”.

Bài diễn văn của Tổng thống đã không nói rõ vĩ tuyến 20 sẽ là giới hạn của việc ném bom của Mỹ ở Bắc Việt Nam, mặc dù sự giới hạn rõ ràng này đã được thể hiện trên những bản dự thảo lúc đầu. Tại phiên họp soạn thảo bài diễn văn ngày 30-3, sự diễn tả đã được đổi thành "ở vùng phía bắc khu phi quân sự”. Sự thay đổi này đã được thực hiện theo chỉ thị của quyền Bộ trưởng ngoại giao Katzenbach, ông này đã cảm thấy là sự giới hạn được nêu rõ ràng sẽ không có ý nghĩa đối với hầu hết mọi người và sẽ làm giảm bớt tính linh hoạt của Mỹ (41).

Mặc dù vĩ tuyến 20 đã chọn dùng để diễn tả hành động của Mỹ cho chính quyền Nam Việt Nam, cho các chính phủ đồng minh, cho giới lãnh đạo quân sự Mỹ và cho các lãnh tụ trong Quốc hội Mỹ, sự hiểu lầm và tranh luận đã nhanh chóng xuất hiện. Ngày 1 tháng Tư, máy bay của Mỹ đã tập kích vào Thanh Hóa; một điểm chuyển xe tàu ở ngay phía Nam vĩ tuyến 20.

Những bài tường thuật tin tức báo chí cho thấy bài diễn văn của Tổng thống đã đưa ra cảm tưởng là cuộc ném bom sẽ được giới hạn đến một vùng gần khu phi quân sự hơn nhiều (42).

Thượng nghị sĩ Fulbright đã công kích ngay tức khắc sáng kiến của Tổng thống, được xem như "một sự thay đổi rất hạn chế trong chính sách hiện nay, đã không được tính toán để đem lại sự đáp ứng của Bác Việt Nam" (43).

Thượng nghị sĩ Mansfield và những thượng nghị sĩ khác từng được Tổng thống tham khảo ý kiến đã thông báo cho ông Fulbright biết rằng vĩ tuyến thứ 20 đã được nêu rõ ràng với họ như giới hạn ném bom (44).

Tuy thế, các tư lệnh chiến trường đã nhận được chỉ thị cần phải "dùng sự suy xét nghiêm chỉnh trong việc lựa chọn các mục tiêu. Một cuộc tấn công lần thứ nhì vào Thanh Hóa dự định thực hiện vào ngày hôm sau đã được hủy bỏ (45).

Ngày 4-4-1968, Phụ tá Bộ trưởng Quốc phòng trong một bị vong lục gửi cho các Cục trưởng các Cục thuộc Bộ quốc phòng và Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đã thiết lập chương trình số 6 triển khai quân sang Đông Nam Á. Chương trình này đã tăng thêm 24.500 nhân viên cho chương trình số 5 đã được chấp thuận và đưa mức số quân mới của Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam lên 549.500 người (46).

Đã không có một quân nhân nào trong số 206.000 quân để đối phó với trường hợp bất ngờ do Tướng Wheeler xin ngày 29-2 được triển khai. Con số được ghi trong chương trình 6 tượng trưng số quân cao nhất của Hoa Kỳ được bố trí tại Việt Nam. Bộ quốc phòng đã không còn nhận thêm lời yêu cầu xin tăng quân Mỹ nào nữa của vị Tư lệnh Mỹ ở Việt Nam.

Xế chiều ngày 3-4-1968. Nhà Trắng đã cho loan báo lời phát biểu sau đây của Tổng thống Johnson:

"Hôm nay chính phủ Bắc Việt Nam đã đưa ra lời phát biểu được bao gồm trong đoạn sau đây và tôi trích dẫn như sau: "Tuy nhiên, về phần họ, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa tuyên bố họ ở tư thế sẵn sàng chỉ định những đại diện của họ để tiếp xúc với đại diện Hoa Kỳ với ý định xác định với phía Mỹ việc ngưng không điều kiện những vụ tập kích ném bom của Hoa Kỳ và tất cả những hành động chiến tranh khác chống Việt Nam dân chủ cộng hòa, có như thế cuộc đàm phán mới có thể bắt đầu tiến hành".

Tối chủ nhật trước tôi đã bày tỏ lập trường của Hoa Kỳ đối với vấn đề hòa bình ở Việt Nam và Đông Nam Á như sau:

"Bây giờ cũng như trước kia, Hoa Kỳ sắn sàng gửi các đại diện đến bất cứ diễn đàn nào, bất cứ thời điểm nào để thảo luận về những biện pháp có thể đưa cuộc chiến tranh đến chỗ kết thúc".

Do đó, chúng tôi sẽ tổ chức cuộc tiếp xúc với các đại diện của Bắc Việt Nam. Hiện nay việc tham khảo ý kiến chính phủ Nam Việt Nam và các đồng minh khác của chúng ta đang được tiến hành" (47).

Bước đầu tiên trên đó sẽ là một con đường dài và quanh co để đi đến hòa bình đã được thực hiện (48). Trước cử chỉ đáp lại nhanh chóng không ngờ đối với sáng kiến của Tổng thống, Hà Nội đã chuyển cuộc đấu tranh giành Nam Việt Nam lên trên một Con đường mới.

Tuy nhiên bí mật này đã không để tiết lộ cho những người vận động bầu cử của Tổng thống Johnson. Ông James Rowe đã thu xếp cho ông Theodore M.White gặp và phỏng vấn Tổng thống ngày 26-3-68, ngay tiếp theo cuộc gặp gỡ