← Quay lại trang sách

Chương 17 Giải Thích Quá Trình Hình Thành Quyết Định.

Đối với những quyết định về chính sách quả là cũng chẳng trông cậy vào đó được bao nhiêu, tuy thế rất nhiều việc cũng đã được khởi xướng. Bất luận những ý định của Tổng thống và các cố vấn của ông thế nào đi nữa, những quyết định được ban ra ngày 31 tháng Ba 1968 đã đưa người Mỹ và Bắc Việt Nam ngồi bàn hội nghị ở Paris để khởi sự một cuộc hành trình trên con đường dài dẫn đến hòa bình.

Một giới hạn đối với việc đưa lực lượng trên bộ Hoa Kỳ sang tham chiến đã được ấn định và Nam Việt Nam đã được thông báo trước là họ sẽ phải chuẩn bị sẵn sàng để đảm nhiệm thêm trách nhiệm trong việc tự bảo vệ lấy mình. Những mục tiêu chính trị có giới hạn của Hoa Kỳ ở Nam Việt nam, lần đầu tiên đã được xác nhận. Chiến lược trên bộ của vị tư lệnh quân sự mới của Mỹ được căn cứ vào những mục tiêu hạn chế này, một mức số quân tối đa được ấn định và sẽ dẫn đến một sự giảm bớt những lực lượng Mỹ và gia tăng thêm sự tham gia của các lực lượng Nam Việt Nam.

Cũng chẳng khó nếu người ta nhất định cứ đem tất cả các biến cố quan trọng phong phú, hỗn loạn và đặc biệt là những tình huống trong những tháng đầu của năm 1968 để đưa vào kế hoạch hình thành quyết định và làm như vậy sẽ có thể có ý nghĩa đối với nhiều mặt khác nhau của cuộc chiến tranh Việt Nam và với quá trình hình thành quyết định nói chung.

Hình ảnh nổi bật là hình ảnh của một Tổng thống đã hiến dâng bản thân mình và sự nghiệp chính trị của mình cho một mục tiêu và một đường lối hành động, vây quanh ông là những cố vấn và nói chung đã hình thành tiếp tục ủng hộ mục tiêu và đường lối hành động ấy, nhưng bây giờ Tổng thống đã phải đối phó với không những sự thúc ép của thời cuộc mà còn cả với một cố vấn, vị cố vấn này lại bắt đầu nghi ngờ về những mục tiêu và cả đường lối hành động đang được theo đuổi nữa.

Cuộc tấn công Tết đã cảm thấy rằng việc đạt được những mục tiêu của Mỹ ở Việt Nam, nếu có thể thực hiện đi nữa, cũng sẽ đòi hỏi một thời gian rất dài trong tương lai. Thực tế chính trị đã cho thấy là nếu cứ tiếp tục như vậy mãi ở Nam Việt Nam. với sự tăng thêm thiệt hại về sinh mạng và tiền bạc của Mỹ, kèm theo ảnh hưởng to lớn đối với đời sống trong nước ở Hoa Kỳ và đồng thời không thấy được một bảo đảm nào cho chiến thắng quân sự trong tương lai gần, thì sự kiện này đã khiến cho đại đa số quần chúng Mỹ không thể chấp nhận được nữa. Vì thế cần phải tìm ra một đường lối hành động khác.

Chỉ tới lúc đó, những mục tiêu tối hậu của đất nước chúng ta đối với Việt Nam mới được đem ra xem xét lại. Nhóm đặc biệt do ông Clifford cứng đầu, tuy đã nêu rõ là cần phải có sự chỉ đạo mới và cần phải hình thành và chấp thuận những mục tiêu mới đã được sửa đổi nhưng tự nhóm này đã không triển khải rõ ràng được những mục tiêu ấy. Đây là một công việc cần được Tổng thống chú ý theo dõi.

Mối bất đồng ý kiến về các mục tiêu của đất nước đã trở nên rất gay go và và chỉ có Tổng thống mới có thể ấn định những mục tiêu mới của đất nước được. Một phần nào đó, những ưu tiên và những nhận thức cho bộ máy quan liêu đưa ra phải chịu trách nhiệm về việc các cố vấn chính phủ nêu trên, đã bất lực không đưa ra được một đường lối chỉ đạo mới (1).

Ông Rusk đã tạo ít cơ hội cho bộ máy quan liêu của bộ ngoại giao để có thể đóng góp vào quá trình soạn thảo quyết định sau vụ Tết, ông đã hành động với tư cách là cố vấn riêng của Tổng thống về chính sách đối ngoại và đã trình thẳng và trình riêng Tổng thống ý kiến của ông. Những quan điểm của ông đã được mô tả trước đây rồi.

Không như ông Rusk, ông Clifford lại đại diện cho hai guồng máy quan liêu với những quan điểm và những quyền lợi rất khác nhau. Bộ máy quan liêu dân sự, tức Bộ ngoại giao của Lầu Năm Góc như người ta thường gọi như vậy, từ lâu rồi đã đi đến kết luận, tuy Bộ ngoại giao lại không đồng ý như thế, là những mục tiêu chính trị của Mỹ ở Nam Việt Nam đã ít được người ta chú ý tới, cơ bản sự thành công của Mỹ ở Việt Nam, theo các quan chức này, là phải phát triển một khung cảnh chính trị tại Việt Nam với mục đích thiết lập một mối liên lạc dựa trên các định chế giữa dân chúng ở thôn quê và bộ máy cai trị họ và như vậy sẽ loại trừ được việc đông đảo dân chúng vùng nông thôn xa lìa khỏi chính phủ.

Nếu không có một sự liên kết như vậy, họ tin rằng không có cách nào để biến những thắng lợi quân sự thành thành tựu chính trị lâu dài. Những thắng lợi quân sự này có thể cứ tiếp diễn vô hạn định trong tương lai và quân Bắc Việt Nam và Việt cộng có thể bị thật nhiều thương vong, vượt rất xa số thương vong của Mỹ. Nhưng những chiến thắng sẽ trở thành vô nghĩa, theo như các quan chức dân sự trong bộ quốc phòng suy nghĩ, nếu những chiến thắng ấy không góp phần vào việc phát triển một khung cảnh chính trị Nam Việt Nam có thể tạo được cơ sở cho việc rút lui của Mỹ sau này.

Theo các quan chức này, chiến lược quân sự hiện đang được các lực lượng Hoa Kỳ theo đuổi ở Việt Nam không đưa ra được một quan niệm rõ rệt và chắc chắn, cũng như đã dành ít tài nguyên cho việc thiết lập một cấu trúc chính trị Nam Việt Nam, khả dĩ liên kết chính phủ Sài Gòn với quần chúng nhân dân ở nông thôn.

Những lý lẽ của những quan chức Bộ quốc phòng này đưa ra trước đây đã gieo rắc những nghi ngờ trong tâm trí của cựu bộ trưởng Mc Namara đối với chiến lược quân sự đang theo đuổi ở Nam Việt Nam và ông này đã tìm cách áp đặt những hạn chế đối với sự gia tăng nhanh các lực lượng Mỹ tại đó. Nhưng ông Mc Namara, trong thâm tâm ông, đã chưa hề nghĩ đến việc xem xét lại những mục tiêu cơ bản của Mỹ ở Việt Nam, và chưa hề đặt thành vấn đề những mục tiêu này.

Mặt khác, bộ máy quan liêu quân sự từ lâu đã bực mình vì những kiềm chế chính trị mà họ cho là đã ngăn cản không cho họ theo đuổi cuộc chiến tranh, đã kết thúc nhanh chóng và chiến thắng và không những thế vì tiêu hao mất nhiều lực lượng dự bị chiến lược, nên đã đe dọa công cuộc phòng thủ của Mỹ tại những khu vực có tầm quan trọng sống còn khác trên thế giới.

Như người ta đã chờ đợi, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đã nhận ra được vấn đề của họ ở Việt Nam, thực chất là một vấn đề quân sự và chiến lược Tướng Westmoreland chọn và thực hiện đã theo đúng học thuyết kinh điển cho rằng chiến thắng này tùy thuộc vào hành động tiến công để đánh bại những đơn vị chủ lực của địch và gây cho họ những thương vong đáng kể lớn hơn số thương vong của chúng ta, cho đến khi những tổn thất của Hà Nội trở thành Không còn thể chịu đựng được nữa.

Ngoài ra, hoạt động tiến công dọc theo biên giới Việt Nam đã ngăn chặn những lực lượng này của địch trước khi họ có thể tiến lại gần quần chúng nhân dân ở Nam Việt Nam. Như thế sẽ có thể tránh được những thương vong gây cho thường dân và các quân du kích địa phương - bị cắt đứt khỏi sự yểm trợ từ bên ngoài - sẽ bị suy yếu dần kết quả khả năng hoạt động, và chính phủ Nam Việt Nam có thể khởi sự thực hiện những chương trình có tác dụng góp phần vào việc lập được những quan hệ với nông dân ở thôn quê (trong bất cứ tình huống nào việc này không phải là trách nhiệm của quân đội).

Nhưng giới quân sự đã nghĩ rằng chiến lược này đã bị cản trở vì địch đã được phép sử dụng những khu đất thánh ở Lào và ở Campuchia, nhờ vậy đã có thể tái bổ sung quân số và tiếp tế, trang bị lại và thoát khỏi bị các lực lượng trên bộ của Mỹ tiêu diệt. Hơn nữa, những kiềm chế có tính cách chính trị đối với việc sử dụng sức mạnh không quân ở Bắc Việt Nam đã cho phép quân địch tìm cách thích ứng được khiến cho sức ép đã không phải là không thể chấp nhận được đối với họ.

Tuy nhiên, vấn đề được bộ máy quan liêu quân đội coi như hậu quả không kém quan trọng chính là khả năng suy yếu của chúng ta để đương đầu với những trường hợp xảy ra bất ngờ khác về mặt quân sự do quyết định chính trị không cho gọi nhập ngũ những lực lượng dự bị gây nên. Như đã được nêu ở trên, đối với Tướng Wheeler vấn đề gọi nhập ngũ quân dự bị mới chính là nguyên do chủ yếu khiến ông yêu cầu tăng thêm lực lượng trong tháng hai 1968.

Đứng trước những phản ứng này của bộ máy quan liêu có thể đoán trước được ông Clifford đã tỏ ra là một diễn viên độc lập theo đúng nghĩa của từ này, ông Rusk và ông Rostow đã bị ràng buộc vào một chính sách mà cả hai đã giúp soạn thảo ra. “Ông Clifford đã không nắm được vấn đề, ông đã không có kinh nghiệm, không theo dõi sát vấn đề trong nhiều năm, ông đã không hiểu rõ cách mà chúng tôi đã giải quyết", ông Rostow đã phát biểu như thế (2).

Còn ông Rusk thì đã cảm thấy: "Tôi đã hiểu ró cái gì mà Tổng thống muốn" và ông Clifford đã nhắc lại như sau: “Ông Rusk và ông Rostow đã nói với tôi là ông không nắm được vấn đề mà tôi đã không theo dõi sát" (3). Vấn đề trong nhiều năm liền họ đã phải trải qua.

Nhưng đó là thế lợi của ông Clifford, ông là người duy nhất trong số những cố vấn của Tổng thống không tích cực chịu trách nhiệm về chính sách hiện nay và vì thế ông đã không nhất thiết bị ràng buộc phải bênh vực nó (chính sách này). Như thế ông đã được các quan chức dân sự trong Bộ quốc phòng thuyết phục là không những sự can thiệp quân sự của Mỹ ở Việt Nam cần phải được giới hạn mà còn cho rằng nếu cứ tiếp tục đi theo con đường hiện nay thì việc này sẽ đưa đất nước đến chỗ phá sản về chính trị và quân sự.

Mặc dù không thuyết phục được ông Bộ trưởng chịu chấp nhận vấn đề gọi động viên và xây dựng lại lực lượng dự bị chiến lược nhưng bộ máy quan liêu quân sự cũng đã sắp xếp đưa ra những lý luận để giữ cho ông Clifford khỏi bị lạc quá xa con đường ấy.

Tuy nhiên, ông Clifford đã có thể nêu ra sự cần thiết phải có một con đường khác thay thế cho con đường ấy. Trừ ông Georges Ball trong năm 1965, không một ai thân cận với Tổng thống đã dám đặt thành vấn đề chiến lược cơ bản về Việt Nam của chúng ta, cũng như Tổng thống đã không hoan nghênh hoặc tìm kiếm xem có gì nêu thắc mắc như thế không.

Năm 1967 khi ông Mcnamara bắt đầu nghi ngờ về hiệu lực của chiến lược trên bộ của chúng ta ở Việt Nam và về chi phí luôn luôn phải tăng thêm để theo đuổi chiến lược ấy, ông Clifford đã là một trong số những cố vấn chính được Tổng thống dùng để “hạ bệ ông ấy" và việc ông Mc Namara rời khỏi chính quyền đã được công bố sau đó không lâu.

Nhưng cũng về một ý nghĩa khác, ông Clifford đã là người đóng một vai trò độc lập. Độc lập về kinh tế và hầu như miễn cưỡng đã chấp nhận phục vụ trong nội các, vào một thời kỳ khủng hoảng, ông đã không cho rằng ông phải chịu ơn Tổng thống để trở nên nổi bật và thành công. Như ông đã gợi ra trong số các cố vấn của Tổng thống chỉ có mình ông là đã giao thiệp với Tổng thống Johnson như bạn ngang hàng.

Ông Clifford đã biểu thị lòng trung thành của cá nhân ông đối với Tồng thống bằng cách nói cho Tổng thống biết tình hình theo sự nhận xét của ông thay vì nhằm bảo vệ địa vị được nhiều người ham muốn của ông trong chính phủ mà lại trình với Tổng thống những điều gì mà Tổng thống ưa nghe.

Ngoài ra, ông còn có thể giao thiệp với bên ngoài bộ máy quan liêu, tham khảo ý kiến các bạn bè trong quốc hội và trong giới các nhà kinh doanh và kinh tế. Như thế ông đã có thể nắm chắc được tâm trạng của đất nước mà xét về mặt này các bạn đồng nghiệp của ông từng phục vụ lâu năm hơn trong chính quyền đã hầu như bị cách ly.

Như ông Mc Pherson đã giải thích về vai trò của ông Clifford: “Ông Clifford đã làm chính trị theo kiểu môn đồ của Aristote chứ không phải theo kiểu "ông thị trưởng Daley", ông đã rất lo lắng phải làm sao cho Tổng thống lãnh đạo được đất nước và làm cho Tổng thống vẫn đứng vững được như là một nhân vật mạnh và ý thức được trách nhiệm trong đời sống của Mỹ, ông ta đã cảm thấy là Tổng thống đang bị phá sản vì cuộc chiến tranh” (4).

Lẽ dĩ nhiên, đây không có ý nói rằng ông Rusk và ông Rostow là những người nịnh bợ, hay trình Tổng thống ý kiến gì mà họ nghĩ rằng Tổng thống muốn nghe. Hai ông này đã giúp thiết lập chính sách mà Hoa Kỳ đang theo đuổi ở Việt Nam và họ đã kiên quyết ủng hộ chính sách này. Cả hai đều cảm thấy tầm quan trọng của việc ngăn ngừa đừng để Đông Nam Á rơi vào tay Cộng sản và cả hai ông đã cảm thấy là chỉ có hành động quân sự về phía Hoa Kỳ mới là phương pháp duy nhất để có thể thực hiện được việc này.

Có những lúc cả hai ông đã xem xét những chiến lược khác có thể thay thế chiến tranh hiện nay nhưng họ đã bác bỏ các chiến lược ấy. Tuy nhiên, khi tình hình ở Việt Nam và ở Hoa Kỳ thay đổi thì Rusk và Rostow đã chẳng bao giờ xem xét lại những lập luận đầu tiên của họ, dựa vào những thất bại đã quá rõ rệt hoặc những thiếu sót của các chính sách đang được theo đuổi.

Nhưng vấn đề những mục đích tối hậu của chính sách Mỹ ở Việt Nam lạt phải là một quyết định của Tổng thống và chỉ có Tổng thống mới quyết định được mà thôi. Sau khi Nhóm đặc biệt Clifford đã soạn thảo xong bản báo cáo của ủy ban, phần còn lại của tiến trình hình thành quyết định trở thành một cuộc đấu tranh giữa những cố vấn tối cao của Tổng thống để thúc đẩy Tổng thống chấp nhận thực hiện lựa chọn đặc biệt của họ, theo đuổi quan niệm đặc biệt của họ về những mục tiêu dân tộc của Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam. Bộ máy quan liêu chỉ tham gia ý kiến ở vòng ngoài mà thôi.

Như vậy, quá trình hình thành quyết định như đã được tiến hành sau Tết đã lại chứng tỏ là việc thiết lập toàn bộ những mục tiêu dân tộc, khác với soạn thảo những quyết định để thực hiện đầy đủ những mục tiêu này cuối cùng đã là một quyết định chính trị.

Cuối cùng Tổng thống lại phải ấn định mục tiêu dân tộc và các ưu tiên và ông được cử tri đánh giá cao sự hoàn thành nhiệm vụ ấn định những mục tiêu sao cho phù hợp với những mong muốn của đa số cử tri. Chính sách tầm thường là chính sách được đưa ra do những nhà lãnh đạo không tiên đoán được một cách chính xác những hậu quả của những quyết định của họ, hoặc do họ có đề cao tột độ những giá trị mà cử tri không tán thành (5) vì như thế những quyết định được đưa ra trong tháng Ba 1968 và bao gồm như đã được thực hiện những vấn đề chủ yếu liên quan đến việc chỉ đạo chính sách của Mỹ đã là những quyết định riêng của Tổng thống.

Phong cách của Tổng thống Johnson, khi ông muốn tiến tới một quyết định quan trọng đã được những người cộng tác với ông trước kia mô tả với đầy đủ chi tiết. Mong muốn đạt đến một sự nhất trí, ông đã tìm hiểu rất kỹ mọi khía cạnh của một vấn đề, trước khi đến một quyết định, ông hay bày tỏ những ý kiến trái ngược với những cố vấn riêng rẽ của ông để giúp họ hướng về một sự nhất trí như đã được đề cập ở trên, ông đã tỏ ra không kiên nhẫn với những người mà ông không tán đồng ý kiến (6)

Tổng thống đã tạo được một môi trường chung quanh ông - lời khuyên nghị mà ông nghe được vừa do nhân cách của ông vừa do những người đã được ông chọn như những cố vấn thân thiết. Tổng thống Johnson đã bày tỏ hết sức rõ là ông cho rằng điều tối quan trọng đối với thế giới, với đất nước và với chính bản thân ông là không để cho Việt Nam bị rơi vào tay Cộng sản.

Những cố vấn được ông nghe theo đã đồng ý về quan điểm này và đã làm tăng thêm sức mạnh quyết tâm của ông. Vì nể sợ, vì tình bạn, vì tinh thần trách nhiệm, vì không dám ngạo mạn thậm chí sợ sệt nữa, các cố vấn của Tổng thống Johnson đã ít khi cản trở ý định của ông.

Khi Tổng thống nói ông muốn "Các lựa chọn phải được xem xét và nếu có thể được thì nên đưa ra những khuyến nghị đã được nhất trí các cố vấn thông thường đã nắm được sự gợi ý đấy”. Họ đã đưa ra những khuyến nghị đã được đồng ý trước mà không nêu lên những sự bất đồng cũng như những thỏa hiệp đã dẫn đến sự nhất trí này. (7).

Những quyết định về chính sách được hình thành ở cấp Tổng thống, khác với những quyết định được soạn thảo ở cấp thấp hơn trong bộ máy quan liêu. Vì đó là những quyết định có tính chất chính trị, các quyết định này đã gây cảm xúc hơn đối với dư luận quốc hội và dư luận quần chúng.

Thực vậy, người ta đã nói rằng sự ủng hộ của quần chúng là “một thử thách gay go đối với một chính sách đối ngoại". Tổng thống Johnson đã đánh giá các việc cần phải tranh thủ sự ủng hộ của quần chúng đối với những chính sách được áp dụng ở Việt Nam của ông. Ngay từ lúc đầu, ông đã nhận thấy rõ ràng sự ủng hộ vững chắc ở trong nước là điều kiện tiên quyết để cho chính sách của ông có thể thắng lợi ở Việt Nam.

Trong suốt thời gian Hoa Kỳ dính líu vào Việt Nam, Tổng thống đã đấu tranh để duy trì sự ủng hộ này của quần chúng, ông đã hiểu rõ là nhân dân Mỹ không thích những cuộc chiến tranh lâu dài và vô tận, ông cũng biết là Hà Nội hiểu được sự kiện này và đang đặt chiến lược của họ trên cơ sở làm xói mòn ý chí của Mỹ đứng trước một cuộc chiến tranh không dứt khoát và kéo dài.

Điểm chính của thế tiến thoái lưỡng nan đã được một quan chức Bắc Việt Nam phát biểu tóm tắt trong năm 1962 như sau: "Người Mỹ không thích những cuộc chiến tranh kéo dài không đi đến kết thúc - và đây sẽ là một cuộc chiến tranh lâu dài, không đi đến chỗ giải quyết. Vì thế, cuối cùng chúng ta chắc chắn nắm phần thắng".

Vì vậy, dư luận quần chúng Mỹ đã luôn luôn được xem như cái mà người ta gọi là "con cờ đôminô" chủ yếu (8). Cả hai phe đều hướng một bộ phận chủ yếu trong chiến lược của họ vào việc gây ảnh hưởng với dư luận quần chúng. Nhận thức của dư luận trong nước ở Hoa Kỳ đã kiềm chế việc gia tăng nhanh các lực lượng trên bộ tại Việt Nam, ngăn cấm việc gọi nhập ngữ những lực lượng dự bị và lại luôn hướng về dự đoán trước các tiến triển và thắng lợi.

Nhà chiến lược người Anh, Basil Liddell Hart trước đây từ lâu đã vạch rõ là trong một nền dân chủ lại “thực tế phiền phức" chính là các nỗ lực quân sự lại phải dựa vào sự ủng hộ quần chúng, bởi vậy mà việc cung cấp người và đạn dược thậm chí cả đến việc có được cơ hội để tiếp tục chiến đấu, cũng đều phải tùy thuộc vào người dân trên đường phố. Nhưng dường như Tổng thống và các cố vấn quân sự của ông ít có khuynh hướng sửa đổi những mục tiêu của họ ở Việt Nam để điều chỉnh chiến lược của họ “tới một chừng mực nào đó khả dĩ làm cho quần chúng nhân dân thấy là nghe được" (9).

Tổng thống Johnson đã nhận thấy là về mặt chính trị và về mặt cá nhân ông không thể thay đổi công khai chính sách mà ông đã kiên trì theo đuổi trong thời gian lâu như thế. Trong những cuộc bàn cãi về một chính sách cho Việt Nam của ông trong thời gian sau Tết, Tổng thống đã được người ta cho thấy một cách kín đáo là sự ủng hộ của Quốc hội và của quần chúng đối với chính sách hiện nay đã bất đầu tiêu tan dần.

Ông Clifford đã nhanh chóng nhận thấy sự thật này và lợi dụng việc ấy để cố gắng thuyết phục Tổng thống là cần phải tìm ra một con đường khác ở Việt Nam, không những chỉ để tranh thủ trở lại sự ủng hộ của quần chúng mà còn là để tìm kiếm một sự kết thúc vừa ý đối với sự dính líu của Hoa Kỳ.

Mặt khác, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, vào thời điểm nào đã tỏ ra không có một nhận thức sâu sắc nào về sự bất mãn đang gia tăng do cuộc chiến tranh gây ra trong đại đa số nhân dân Mỹ. Họ nhận thấy không cần phải đưa ra một chiến lược mới và thay vì thế họ đã coi vụ Tết như là một cơ hội rốt cuộc đã cho phép họ theo đuổi được chiến lược mà họ đã chủ trương từ lâu.

Họ có vẻ hoàn toàn thản nhiên trước phản ứng của quần chúng đối với lời yêu cầu tăng thêm quân của họ, một lời yêu cầu mà đáng lẽ không thể bị tiết lộ vào một thời điểm bất lợi về mặt tâm lý. Họ tiếp tục thúc ép đòi gia tăng cố gắng của Mỹ ở Việt Nam mà trong bầu không khí hiện nay, về mặt chính trị cho thấy là đại đã số quần chúng Mỹ không thể nào chấp nhận được.

Không con nghi ngờ gì là ông Clifford đã gieo rắc được những hoài nghi trong tâm trí của Tổng thống Johnson đối với các chính sách vẫn tiếp tục được các cố vấn thân cận và được tin cậy khác của ông biện hộ và bênh vực. Những hoài nghi này càng được củng cố thêm vì Tổng thống cũng hiểu biết rõ những ảnh hưởng và chính sách hiện này đang tác động đến quần chúng, Quốc hội và cả đối với các cố vấn khác không ở trong chính phủ nữa. Ông Clifford đã khéo léo lợi dụng tất cả những đồng minh này trong cuộc vận động của ông nhằm thay đổi chiều hướng chính sách của Hoa Kỳ.

Theo lề lối thông thường của ông. Tổng thống Johnson đã tìm hiểu sự nhất trí trong số các cố vấn của ông và ông đã đạt được sự nhất trí ấy rất gay go mới đi tới thòa hiệp được, ông đã chấp nhận đề nghị của ông Rusk về một sáng kiến hòa bình đề có thể soa dịu dư luận quần chúng mà vẫn cho phép ông tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh như trước kia nếu sáng kiến này không đem lại kết quả.

Nhưng ông đã chịu nhượng bộ theo quan điểm của ông Clifford và đã đưa ra sáng kiến này với lời lẽ rất hòa giải để làm cho đối phương dễ chấp nhận hơn và cũng đã đem kết hợp với lời công bố gây xúc động mạnh của ông để tâm trí nổi bật sự chân thành khi đưa ra sáng kiến trên đây.

Chính là nhờ Hà Nội chịu chấp nhận đề nghị này mà chúng ta mới có thể thay đổi chính sách về Việt Nam của ta. Như thế Tổng thống Johnson có thể cho phép Bộ trưởng quốc phòng của ông giải thích chính sách của Hoa Kỳ để làm cho cuộc đàm phán diễn ra ở Paris trở thành con đường chủ yếu đề đạt những mục đích của Hoa Kỳ ở Việt Nam mà vẫn không từ bỏ mục tiêu mà ông kiên quyết giữ vững là không để mất Nam Việt Nam vào tay Cộng sản.

Không có dấu hiệu vững chắc nào cho thấy Tổng thống đã bị ảnh hướng tới mức nào do dư luận quần chúng gây ra trong thời gian tiếp theo sau Tết, ông Rostow đã cảnh cáo không nên quá nhấn mạnh đển bất cứ một thay đổi nào có tính chất cơ cấu trong dư luận quần chúng có thể cho thấy là quần chúng Mỹ sau hết đã bằng lòng chấp nhận một cách bình thản việc để mất Nam Việt Nam vào tay Cộng sản.

Tuy nhiên xét mối liên quan đến các động cơ đã thúc đẩy Tổng thống thì ông đã phát biểu như sau: “Điều đáng làm cho Tổng thống bận tâm là đất nước đang suy thoái. Tổng thống đang cần phải giữ vững dư luận quần chúng đã bị xói mòn vào chiến lược làm tiêu hao của chúng ta và vì hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài. Mặc dù khó có thể biết được ý nghĩ của người khác, nhưng càng nói chuyện chúng tôi càng tin chắc là những quyết định của Tổng thống đã rất có liên quan với dư luận quần chúng" (10)

Ông William Bundy đã nhận thấy ảnh hưởng của dư luận quần chúng đối với những sự kiện quan trọng xảy ra trong tháng Ba 1968 đã diễn ra như sau:

“Tôi có cảm tưởng đó là điều đáng nói - là sự thúc đẩy của các cố vấn chuyên nghiệp đến sự có lẽ đã hướng về chủ trương hạn chế tối đa việc tăng thêm lực lượng chừng nào có thể làm được, nhưng tôi nghĩ rằng việc thay đổi chính sách ném bom đã bị ảnh hưởng rất nhiều - đặc biệt là trong những việc làm và những khuyến nghị của ông Bộ trưởng quốc phòng Clifford - do việc người ta đã ý thức được là sự ủng hộ chính trị ở trong nước đã càng ngày càng bị xói mòn rất nhanh và sự kiện này tất cả chúng tôi đều đã nhận thấy rất rõ trong tháng Ba" (11).

Chỉ những tiếng vang mơ hồ của các cuộc tranh luận về chính sách trong chính quyền là đã đến tai nhân dân Hoa Kỳ hay đúng ra là đến tai hầu hết các bộ máy quan liêu của Chính phủ mà thôi. Còn Tổng thống đã bị cách ly với quần chúng, mà thực ra quần chúng mới là quan trọng trong vấn đề này, những quyết định của ông đã trở thành những quyết định cá nhân, ông Reedy đã lên án như sau: “Việc liên quan đến quần chúng - ở mức nào tình thế một mất một còn này - lại đang được định đoạt như thế là không có dính dáng gì đến quần chúng cả: 12).

Dù cho có được cung cấp đầy đủ tin tức nhất và dù cho có những thiện chí tốt đẹp nhát đi nữa, nhưng đó cũng vẫn là một phương pháp hình thành chính sách có nhiều khuyết điểm nghiêm trọng đã được biểu lộ rõ trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam. Việc này có tác dụng là chỉ giới hạn các cuộc tranh luận có ý nghĩa, trong phạm vi một nhóm nhỏ và rất chọn lọc trong Chính phủ. Thật vậy. trong khi mâ tầm quan trọng của vấn đề trờ nên lớn bơn và có nhiều ý nghĩa chính trị hơn. thì giới tham dự lại càng thu hẹp lại hơn.

Tổng thống chọn lựa những thành viên trong nhóm này và ấn định phạm vi tranh luận của họ. Vì thế, bản chất của cuộc tranh cãi và những quan điểm khác nhau được biểu lộ trong nhóm này có một tầm quan trọng sống còn. Nhưng những cá nhân này hầu như chắc chắn tán thành những giá trị và những tầm nhìn về tương lai của Tổng thống và coi nó như những điều mà họ tin tưởng. Họ cũng phải phần nào tỏ rõ lòng trung thành và quyến luyến cá nhân của họ đối với chính người đã đưa họ vào được giới thân cận này.

Sự kiện trên đây sẽ khiến cho người nào đó trong nhóm người được chọn lọc mà lại tỏ ra bất đồng ý kiến với chiều hướng rất rõ ràng theo quan điểm của Tổng thống, người ấy sẽ phải thực là khổ sở khó mà chịu đựng nổi. Sự bất đồng ý kiến tới một mức nào đó có thể sẽ đưa đến hậu quả là bị khai trừ, thậm chí là bị sa thải nữa.

Một khi chính sách đã được đưa ra, một khi mục tiêu và con đường đi đến mục tiêu ấy đã được Tổng thống chấp nhận và coi như của chính ông rồi, thì đường lối trong chính phủ phải được sắp xếp cốt sao củng cố và thực hiện được chính sách ấy, bộ máy quan liêu nhận những lệnh tiến hành công việc và nhận lấy việc điều hành. Khi ấy, tính linh hoạt sẽ bị hạn chế và việc soạn thảo lại và làm sáng tỏ thêm những mục tiêu không còn được coi là quan trọng nữa và, mà thực ra việc này còn có thể bị xem như là gây trở ngại cho công việc sắp đến.

Đây là công việc của một bộ máy quan liêu thành thạo, có thẩm quyền đã đưa ra một chính sách chính trị. Một khi mà các mục tiêu đã được xác định rồi, thì bộ máy quan liêu phải giúp cho các nhà lãnh đạo chính trị được nhẹ bớt gánh nặng khỏi phải lo đến những quyết định thông thường liên quan đến chính sách đối ngoại.

Nhưng người ta quyết định, trong chừng mực mà ông ta muốn, vẫn có thể xác nhận lại quyền điều khiển của mình và có thể chỉ thị cho bộ máy quan liêu trình lên các đường lối hành động để có thể lựa chọn được. Sau vụ Tết 1968, những đường lối hành động để lựa chọn cuối cùng đã được trình lên cho một Tổng thống mà trước đây vị này đã không hề bày tỏ ỷ muốn được nghe họ trình bày.

Có những cơ cấu của chính phủ dường như có nhiệm vụ để bảo đảm cho một số cuộc tranh cãi có tính cách đối lập ở những cấp cao nhất trong chính phủ. Hội đồng an ninh quốc gia là một trong số các cơ cấu có nhiệm vụ như thế. Nhiều hình thức khác, từ nhiều phía nhằm góp vào việc hình thành chính sách ngoại giao cũng đã được đề nghị (13). Nhưng người ta cho rằng các hình thức này chỉ để phục vụ cho ý muốn của Tổng thống và mỗi Tổng thống đều đã sử dụng những hình thức ấy theo kiểu của mình và làm sao để đáp ứng được những mục đích của mình (14).

Ngoài quá trình diễn biến chính trị ra thì chế độ của Hoa Kỳ đã không hề dự liệu một thủ tục nào có tính chất định chế cho các cuộc tranh cãi chính trị ở cấp cao nhất để xác định những mục tiêu dân tộc và chính sách quốc gia.

Trước khi bộ máy quan liêu có thể thực hiện được chức năng cần phải biết những mục tiêu nào đang được tìm kiếm, các mục tiêu trong chính sách đối nội và đối ngoại chủ yếu phải xác định những giá trị và những đức tin của một xã hội. Nhưng một khi các mục tiêu đã được xác định rồi, bộ máy quan liêu cũng có bổn phận phải trình cho Tổng thống về mặt chính trị và vác mặt kinh tế để đạt được những mục tiêu ấy.

Chức năng này của bộ máy quan liêu vẫn được thực hiện trong chính phủ theo thường lệ. Đối với bất cứ một sự thay đổi nào về luật thuế má, bộ máy quan liêu có thể dự đoán trước lời lỗ trong thu nhập qua thời gian. Đối với bất cứ sự sửa đổi nào trong vấn đề thuế má hoặc số tiền phải trả về an ninh xã hội, bộ máy quan liêu có thể dự đoán trước hậu quả cuối cùng đối với người nhận tiền trợ cấp cũng như đối với chính phủ. Mỗi hệ thống vũ khí mới cũng được phân tích để xác định tổng số tài nguyên cần thiết để triển khai.

Vì thế chi phí mà chính phủ phải gánh vác đối với chế độ hưu trí của quân đội hoặc những khoản trợ cấp cho các cựu chiến binh đã được đặt kế hoạch cho cả 100 năm. Nhưng khi những mục tiêu của Hoa Kỳ ở Việt Nam được Tổng thống ấn định thì quá trình hình thành quyết định đã lại không giải quyết nổi vấn đề xác định những tốn kém phải trả vừa về tài nguyên và về thời gian để đạt được những mục tiêu ấy

Những mục đích của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã rất rõ và cần không thay đổi. Mối quan tâm chủ yếu vẫn là ngăn ngừa không để cho Cộng sản dùng vũ lực chiếm lấy Nam Việt Nam. Mục đích nào chủ yếu đã được Tổng thống Johnson suy nghĩ đến nhiều vì ông đã nhận thức được những hậu quả trên trường quốc tế và ở trong nước nếu xảy ra một sự mất mát như vậy trên phương diện quốc tế.

Việt nam được xem như một cuộc thử nghiệm về những cam kết quân sự của Hoa Kỳ đối với những đồng minh ở khắp thế giới. Việt Nam cũng đã được xem như một sự xung đột về ý chí tối quan trọng giữa chủ nghĩa cộng sản và hệ thống các nước đồng minh do Hoa Kỳ đã thiết lập sau cuộc chiến tranh thế giới thứ II.

Việt Nam lại còn là một nơi thử nghiệm, nơi đương đầu giữa chiến tranh giải phóng dân tộc do Cộng sản chủ trương với chiến tranh chống nổi dậy, cái giá phải trả cho công cuộc xâm lược sẽ cho Cộng sản thấy là họ phải trả một giá quá cao và nguyên tắc là một cuộc xâm lăng vũ trang tất sẽ bị chặn lại không thể nào đạt được thắng lợi, nguyên tắc ấy sẽ trở thành có giá trị.

Đối với trong nước, việc bảo vệ có kết quả Nam Việt Nam được xem như là tối cần thiết cho tình hình ổn định sinh hoạt chính trị của Hoa Kỳ. Trong tập hồi ký của ông, Tổng thống Johnson đã biện hộ cho chính sách của Mỹ ở Việt Nam như sau:

“Tôi đã hiểu khá rõ quần chúng nhân dân của chúng ta để nhận thức được là nếu chúng ta bỏ Việt Nam ra đi và để mất vùng Đông Nam Á, việc này sẽ gây nên một cuộc tranh cãi gây chia rẽ và tai hại trên đất nước chúng ta. Một cuộc tranh luận gây chia rẽ về ai đã để mất Việt Nam chẳng hạn theo tôi nhận thấy, còn tai hại đối với đời sống quốc gia của chúng ta hơn là cuộc tranh luận về vấn đề Trung Quốc trước đây.

Các đồng minh của chúng ta trên khắp thế giới đã đi đến kết luận là lời hứa của chúng ta chẳng đáng giá bao nhiêu. Matxcơva và Bắc Kinh sẽ nắm ngay lấy cơ hội để mở rộng quyền kiểm soát của họ vào chỗ quyền lực bị bỏ trống mà chúng ta đã để lại sau khi chúng ta rút khỏi" (15)

Vì thế Tổng thống Johnson đã nghĩ rằng muốn chọn lựa để bảo vệ Nam Việt Nam thì đó có thể sẽ không phải là một đường lối hòa bình mà có lẽ là mở rộng cuộc xung đột. Theo quan niệm đôminô thì nếu để mất Nam Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản sẽ lan tràn khắp Đông Nam Á, những cam kết khác của Hoa Kỳ sẽ được đặt thành vấn đề và đất nước sẽ bị chia rẽ vì một cuộc tranh cãi xấu xa trong nội bộ liên quan đến việc người ta đã theo một chính sách thiếu khôn ngoan. Người ta đã nhắc đến lời của Tổng thống Johnso, đã nói từ đầu năm 1968 như sau: "Tôi sẽ không phải là vị Tổng thống chịu ngồi nhìn Đông Nam Á đi theo con đường mà Trung Quốc đã đi theo" (16).

Trong khi theo đuổi mục tiêu này. Tổng thống Johnson đã không chuẩn bị để chấp nhận rủi ro có thể xảy ra một cuộc đối đầu trực tiếp về quân sự với Liên Xô hoặc Trung Quốc, mà thậm chí cuối cùng có thể sẽ là một cuộc chiến tranh hạt nhân nữa. Việc cố tránh để xảy ra một cuộc chạm trán như thế quả vậy đã trở thành một mục tiêu không kém phần quan trọng.

Như thế, nhưng mục tiêu trong chính sách của Tổng thống Johnson đã được thể hiện qua việc tiến hành tối thiểu những hoạt động quân sự đã ngăn ngừa một cuộc bại trận ở Nam Việt Nam trong khi đó thì lại phải có thuyết phục Hà Nội là họ không thể nào thành công trong mưu đồ xâm lược của họ được.

Mục tiêu dài hạn là một cuộc dàn xếp chính trị để cho phép người Nam Việt Nam định đoạt tương lai của họ mà không có sự can thiệp từ bên ngoài. Trong một bài diễn văn đọc tại trường đại học John Hopkins trong tháng tư 1965, Tổng thống đã trình bày với quần chúng nhân dân Mỹ những gì sẽ phải làm ở Việt Nam:

"Chúng ta sẽ làm tất cả những gì cần phải làm để đạt mục tiêu ấy, (đó là làm sao để nhân dân Việt Nam có thể được phép đem đất nước của họ đi theo con đường của họ). Và chúng ta sẽ làm những gì thật là cần thiết mà thôi" (17).

Những mục tiêu của chính sách trên đây đã được thực hiện do sự dính líu quân sự dần dần từng bước của Mỹ ở Việt Nam. Tổng thống Johnson đã phải chống lại một bên là những sức ép của phe quân sự đòi đi đến chiến thắng, đòi phải làm hơn nữa và ở phía bên kia là những sức ép đòi từ bỏ sự ràng buộc hoặc xuống thang chiến tranh và đàm phán do những người chống lại sự can thiệp quân sự của chúng ta chủ trương.

Những sức ép này đã được dung hòa nhờ quá trình hình thành quyết định cố né tránh một hành động dứt khoát, không giúp đỡ có thể phát triển một chiến lược nhất quán và thực tiễn hầu đạt những mục tiêu này, cũng như không cho phép xét đến những phí tổn chính và cố gắng dung hòa những sức ép khác nhau đòi phải chiến thắng hoặc đòi phải từ bỏ sự ràng buộc với một cuộc leo thang quân sự dần dần, việc này sẽ làm thỏa mãn phe diều hâu vì đã tỏ ra đang cố làm hơn lên, trong khi ấy, lại vẫn làm thỏa mãn được cả phe bồ câu vì đã kêu gọi đối phương đàm phán.

Trong khi cố. tìm kiếm một sự nhất trí ôn hòa này, cái giá phải trả, như một nhà bình luận đã phát biểu, đã trở thành những mâu thuẫn nửa chừng và đã không ấn định được những ưu tiên cho hành động. (18).

Do phải truy xét về phản ứng trong nước, cũng như phải thận trọng không đưa ra những biện pháp khiến cho Trung Quốc hoặc Liên Xô có thể nhân cớ can thiệp vào, do vậy ít nhất Tổng thống cũng đã đưa ra tám quyết định khác nhau và nửa số quân Hoa Kỳ ở Việt Nam trong thời gian bốn năm.

Nhưng chậm lắm là vào tháng năm 1967, một trong số những cố vấn dân sự chính của Bộ trưởng Quốc phòng có thể đã trình bày với ông này rằng: “Cần phải tìm cho ra "lý lẽ" của cuộc chiến tranh để mọi người không thể tiến hành theo lập luận chủ yếu của chính họ và đưa chúng ta càng ngày càng đi sâu thêm vào" (19).

Như vậy, những vấn đề đã được nghiên cứu và những quyết định đã được hình thành về bản chất mà nói là luôn luôn có tính cách chiến thuật. Những chính sách để lựa chọn duy nhất được xem xét là các mức số quân hoặc những chiến dịch ném bom. Vì cái giá phải trả nếu không can thiệp vào Việt Nam được coi là lớn hơn so với giá phải trả cho việc can thiệp vào, nên phí tổn chuyển về quân sự cho cuộc can thiệp ấy đã không được ước tính trước.

Cái giá duy nhất đã được người ta chú ý tới là sự tiếp tục ủng hộ của quần chúng và do đó những quyết định về tăng thêm tiềm lực quân sự cho Việt Nam đã được cân nhắc dựa vào sức ủng hộ của quần chúng cho những hành động như thế.

Vì vậy mà sự leo thang dần dần đã là chiến lược được lựa chọn để đạt được những mục tiêu của Hoa Kỳ. Vấn đề chính trị trong nước cũng đòi hỏi phải có một sự đổ vỡ tối thiểu cần thiết trong đời sống của Mỹ. Nhưng với tình trạng mỗi năm chiến tranh trôi qua, thế chính trị ở trong nước của Tổng thống càng ngày càng bị suy yếu thêm. Sự lạc quan không đem lại những kết quả đúng lúc đã gây nên một sự khủng hoảng về niềm tin (20).

Một khi đã cứ khẳng định rằng cái giá phải trả cho việc không can thiệp để cứu Việt Nam sẽ lớn hơn rất nhiều so với bất cứ giá nào khác phải gánh chịu để bảo vệ những lợi ích của Mỹ ở Đông Nam Á, thì điều này sẽ khiến phải sử dụng không giới hạn đối với mọi tài nguyên của Mỹ và cũng đã đem lại hậu quả tai hại làm vô hiệu bất cứ một sự xem xét đứng đắn nào đối với việc lựa chọn các đường lối hành động.

Thực vậy, chiến lược được chọn để áp dụng đã tạo cho quá trình hình thành quyết định của Bắc Việt Nam hợp lý hơn phương thức của chúng ta. Bằng cách áp dụng sức mạnh tăng lên dần dần Hoa Kỳ sẽ nhận thấy tới điểm nào rất khó mà định được cuộc chiến tranh sẽ có thể trở nên quá tốn kém đối với những nhà cách mạng lão thành ở Bắc Việt Nam, làm cho họ phải từ bỏ những mục đích của họ ở miền Nam.

Nhưng sẽ không thể có một giới hạn đối với sự cố gắng mà chúng ta sẽ phải ra sức tiến hành để đẩy họ đến điểm ấy. Trong việc áp dụng chiến lược này, các nhà lãnh đạo của đất nước đã luôn luôn phán đoán cái khả năng của địch có thể làm tiêu tan những mục đích của Mỹ và chúng leo thang ở mỗi giai đoạn.

Ở một điểm nào đó, điều đã thấy được rất rõ là cái giá phải trả về mặt chính trị và về mặt kinh tế mà Hoa Kỳ đã phải gánh chịu để bảo vệ Việt Nam thật sự đã có thể vượt qua những phí tổn của việc từ bỏ cam kết hoặc ngược lại, cái giá mà chúng ta sẵn sàng chịu trả lại vẫn không thể bảo đảm được chiến thắng. Một số ít những quan chức đã nhìn thấy trước cái giá cuối cùng đã phải trả hoặc tới một mức nào đó họ đã bày tỏ là họ cảm thấy cái giá phải trả đã trở nên quá cao, nhưng họ là những người hoặc ít có thể lựa hoặc luôn luôn cho làm.

Mặt khác những người đã bênh vực cho một cố gắng mạnh mẽ hơn nữa của Hoa Kỳ ở Việt Nam và chung quanh Việt Nam, đặc biệt là Hội đồng tham mưu trưởng liên quân đã bị tước hết khả năng để thực hiện ý đồ đó theo một cách khác. Bị từ chối không áp dụng được một quan niệm chiến lược và tự do hành động quân sự mà họ cho là rất cần thiết để chiến thắng, giới lãnh đạo quân sự tuy vậy cũng đã được nguôi phần nào vì mức số quân và các mục tiêu ném bom cũng đã được gia tăng dần dần và cuối cùng rồi cũng sẽ có việc thay đổi ghế Bộ trưởng quốc phòng, ông này rồi ra đã trở thành người mà họ ghét cay ghét đắng nhất.

Nhưng những sự gia tăng quyền hạn quân sự này đã luôn luôn nằm trong phạm vi những nguyên tắc chỉ đạo của Tổng thống. Và như thế, những người đứng đầu quân đội, trong lúc mỗi người tìm kiếm một vai trò lớn hơn cho quần chúng của mình, quả vậy đã trở thành những người ngoan ngoãn rất tinh vi, chịu tuân theo các chính sách của Tổng thống và bảo đảm với quần chúng, y như Tướng Westmoreland đã làm, rằng bất cứ lời yêu cầu nào của tư lệnh chiến trường đều đã được thỏa mãn và ít khi trước quần chúng họ đã dám nêu ý kiến của họ về những hậu quả quân sự có thể xảy ra vì những hạn chế mà Tổng thống đã áp đặt cho nó. Như Tướng Westmoreland sau này đã phản ánh:

“Trong các cuộc họp báo và các dịp xuất hiện trước quần chúng của tôi trong thời gian tôi phục vụ ở Việt Nam và sau khi tôi trở về nước, tôi đã nhận ra rằng quân đội không có nhiệm vụ bào chữa cho sự cam kết và chính sách của Mỹ. Tuy vậy thật khó mà phân biệt được giữa sự trao đổi nhiệm vụ quân sự và những vấn đề liên hệ đến nhiệm vụ này như sự ủng hộ của quần chúng và của Quốc hội và tinh thần của người chiến sĩ đang chiến đấu, người này còn phải được thuyết phục để tin chắc là họ đang liều mạng sống chết cho một sự nghiệp cao cả.

Vì thế, quân đội đã bị kẹt cứng ở giữa và bản thân tôi với tư cách là người có lẽ có mặt thường xuyên tại chỗ, có thể là tôi đã xoay trở quá xa theo chiều hướng ủng hộ công khai chính sách của chính phủ, một sự tận tụy theo bẩm sinh sẵn có đối với nhiệm vụ được giao phó có lẽ còn tận tụy hơn là đối với một lý tưởng hay hơn cả lòng trung thành với Tổng thống là vị Tổng tư lệnh quân đội. Tôi đã cảm thấy buộc phải đưa ra lời ủng hộ trước quần chúng đối với một chính sách quốc gia mà tôi đã thật tin tưởng" (21).

Vì vậy những giả thuyết cơ bản liên quan đến các mục tiêu đó chưa hề bao giờ được đặt thành vấn đề. Trong quá trình hình thành quyết định chưa hề bao giờ xác định những chi phí chủ yếu và thảo ra một bản đối chiếu so sánh thu chi để biết được khi nào thì những phí tổn sẽ trở nên quá đáng. Những đường lối hành động để có thể lựa chọn đã không được xem xét đến, và những quyết định liên quan đến việc phân phối những tài nguyên của Mỹ cho Việt Nam đã được thực hiện trên căn bản là có thể sẽ cấp thêm tối thiểu bao nhiêu nữa mà vẫn duy trì được sự ủng hộ của quần chúng đối với cuộc chiến tranh.

Đã không có được một chiến lược nhất quán để đạt đến những mục tiêu của Mỹ. Chiến lược được áp dụng là cố kiên trì để về mặt chính trị trong nước khỏi bị chỉ trích là đã thất bại và với lực lượng quân sự tối thiều cần thiết vẫn có thể thuyết phục được những người cộng sản và ý chí của chúng ta nhất định không thay đổi và họ không thể nào chiến thắng.

Những hậu quả của sự bất lực không đưa ra được một mục đích chính xác rõ ràng gồm những hạn chế cần thiết, những hậu quả ấy chắc chắn không phải do dụng ý của những nhà lãnh đạo dân sự muốn gây ra, ít nhất cũng như vậy, đó là việc sẽ phải tiến hành một chiến dịch ném bom qui mô lớn nhằm vào Bắc Việt Nam vừa phải dời nửa triệu quân Mỹ sang tham chiến trong một cuộc chiến tranh trên bộ ở châu Á.

Chỉ đến khi mà cái giá phải trả cho việc đạt được những mục tiêu của Hoa Kỳ trở nên quá đắt về sinh mạng, về đồng đô la và đến khi sự tín nhiệm của quần chúng và những lợi ích đã trở thành thật mơ hồ, xa vời và thậm chí không còn có vẻ hợp lý nữa, thì tới lúc đó cấp lãnh đạo đất nước của chúng ta mới chịu so sánh những mực tiêu đang được theo đuổi với những tài nguyên và thời gian cần phải có để đạt được những mục tiêu ấy.

Chỉ đến khi cái giá phải trả đã trở thành quá cao rồi, thì lúc đó những mục tiêu đang được theo đuổi và chiến lược đang được áp dụng để đạt đến những mục tiêu ấy mới được đem ra đối chiếu để xem có phù hợp với nhau không.

Do chính điểm thất bại của quá trình hình thành quyết định ở những cấp cao nhất trong chính phủ sau Tết 1968, lần đầu tiên người ta thấy quá trình hình thành quyết định đã hoạt động đúng mức theo đúng chức năng. Các mục tiêu đã được đối chiếu với những tài nguyên cần phải có để hoàn thành những mục tiêu ấy, và chiến lược đang áp dụng đã được sửa đổi lại khi người ta nhận ra được rằng cái giá phải trả về mặt chính trị và vật chất để đạt đến những kết quả ấy trong vòng một thời gian phải chăng có lẽ đã vượt quá những gì mà đất nước có thể chịu đựng được.

Và sau đó cuộc tranh luận đã trở thành một vấn đề bàn cãi về chính sách làm thế nào để đạt được những mục tiêu dân tộc với những tài nguyên hạn chế làm thế nào để có thể sửa đổi những mục tiêu vừa không từ bỏ hoàn toàn những mục tiêu này, làm thế nào để tranh thủ trở lại sự mơ hồ của quần chúng đối với những hành động sau đó của Mỹ ở Nam Việt Nam.

Chính sách hiện nay từng được quần chúng ủng hộ trong nhiều năm tỏ ra không đem lại những kết quả mong đợi trong một thời gian phải chăng hoặc với một giá trị có thể chấp nhận được. Quần chúng đã không thể thấy được một sự kết thúc nào cho cuộc chiến tranh. Để có thể đạt được những kết quả nhanh hơn hoặc có tính cách quyết định hơn, những tài nguyên dành cho cuộc chiến tranh sẽ phải gia tăng rất nhiều và toàn bộ vấn đề bản chất cũng như mối quan hệ của cuộc chiến tranh đối với Hoa Kỳ, có lẽ phải thay đổi.

Đã có những dấu hiệu rất rõ cho thấy là đại đa số quần chúng Hoa Kỳ, số này còn đang tăng thêm nữa đã bắt đầu tin rằng cái giá phải trả đã lên tới mức không thể chấp nhận được nữa và mục tiêu theo đuổi không còn đáng để phải trả với cái giá hiện nay nữa. Cuối cùng người ta cũng đã làm cho Tổng thống Johnson hiểu rõ được rằng chính sách đang được theo đuổi ở Việt Nam không còn được cử tri Mỹ ủng hộ nữa.

Thực tế chính trị - một thực tế được Tổng thống thừa nhận - là tuy không từ bỏ chính sách trước kia, nhưng cần phải tìm ra một hướng đi mới, một chiến lược mới ít tốn kém hơn.

Vì vậy những quyết định trong tháng 3-l968 của Tổng thống đã được căn cứ vào hai lý do chủ yếu sau đây:

1. Niềm tin vững chắc của các cố vấn của ông, đặc biệt là Bộ trưởng quốc phòng Clifford tin rằng việc tăng thêm cố gắng của Mỹ sẽ không làm cho việc đạt được những mục tiêu của Mỹ có thể thực hiện được tốt hơn hoặc nhanh hơn, và...

2. Nhận thức hết sức sâu sắc của chính bản thân ông cho rằng vấn đề đoàn kết trong nhân dân cần phải được khôi phục lại trên đất nước Hoa Kỳ.

Sự dè dặt thông thường trong giới học giả ngày nay khi nhìn lại sự việc về trước là phải lên án sự dính líu của Hoa Kỳ ở Việt Nam, coi đó như là một sự không may, không cần thiết, đáng buồn và là một sự thất bại hoàn toàn (22).

Nhưng trong bầu không khí sôi nổi trong những năm 60 đã ít có ai lên tiếng đưa ra lý lẽ nói rằng Việt Nam không có tầm quan trọng sống còn đối với nền an ninh quốc gia của chúng ta và có thể để cho nước này rơi vào tay Cộng sản mà chẳng hề gây thiệt hại cho những lợi ích của Mỹ (23).

Thuyết đôminô giờ đây đang bị mang tai mang tiếng nhiều thì hồi ấy tỏ ra là một lối nhìn có vẻ hợp lý về vùng Đông Nam Á. Thuyết này hình như đã thật sự báo hiệu trước nguy cơ suy sụp của nền an ninh Mỹ trên khắp thế giới. Vào lúc ấy những cuộc nổi dậy do cộng sản xúi giục hoặc lãnh đạo đã đe dọa tình hình ổn định trong nước cũng như nền độc lập của Mã Lai, Đông Dương, Singapore, Thái Lan, Miến Điện và Philippin, Lào dường như đang có nguy cơ rơi vào tay cộng sản.

Các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc có vẻ như là con đường mới và rất thành công của Cộng sản để mưu đồ chiếm chính quyền tại những nước đang phát triển ở Đông Nam Á

Vì vậy mặc dù việc Mỹ can thiệp vào Đông Dương cuối cùng đã thất bại thê thảm và cùng cực, nhưng một số mục tiêu trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cũng đã gián tiếp được đề cao nhờ có sự can thiệp này. Những nước ở sát cạnh Đông Dương đã có đủ thời giờ để tự tổ chức lấy để chống lại những đe dọa lật đổ từ bên trong.

Các nước này hiện nay phần lớn do những nhà lãnh đạo đầy tự tin điều khiển và họ tin rằng họ có đầy đủ khả năng để duy trì sự ổn định trong nước và phát triển nền kinh tế của họ. Nguy cơ của những cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, phương tiện để cộng sản bành trướng nền thống trị của họ, ít nhất ngày nay cũng đã giảm bớt ở Đông Nam Á.

Vậy thì có vẻ như vấn đề được đặt ra không phải là vấn đề không hiểu Hoa Kỳ có nên cam kết ủng hộ một chính phủ không cộng sản ở Nam Việt Nam hay không, mà đúng ra là vấn đề liệu những mục liêu của Mỹ tại khu vực này có thể đạt được theo một lối khác với giá phải trả về nhân mạng, thời gian và uy tín hơn không, và hơn nữa, những giá phải trả nêu trên có thể được dự đoán trước không?

Hoa Kỳ đã không sai lầm khi can thiệp vào Việt Nam. Mỗi bước đi đều là một sự lựa chọn có cân nhắc của một Tổng thống thận trọng, ông đã xem xét kỹ lưỡng, đã hạn chế mỗi phản ứng một chừng mực có thể làm được và đã lưu tâm đến ý kiến của quần chúng. Nhưng mọi cố gắng đã có tính cách vụn vặt, nhỏ giọt và không được hướng dẫn đúng đường.

Về mặt chính trị, ít người đã nhận thấy rõ được những động lực cách mạng của tình hình, lời kêu gọi của Việt cộng được quần chúng hưởng ứng, sự yếu kém của những chế độ quân phiệt truyền thống ở Sài Gòn. Đã có ít người nhận thấy được điều tối cần thiết cho vấn đề an ninh là phải xây dựng được một chính phủ Nam Việt Nam lương thiện và có hiệu lực thi hành công lý và cải thiện đời sống và hạnh phúc cho nhân dân họ.

Khoa học chính trị đã không đưa ra được một phương thuốc để xây dựng một chế độ chính trị dân chủ có thể đứng vững trong một xã hội theo truyền thống vừa thoát ra khỏi nền thống trị thực dân, lại chỉ có những tài nguyên vật chất hạn chế và yếu kém về hành chính, còn thêm bị chìm đắm trong một cuộc nội chiến chua cay. Chắc chắn đã không có một cơ quan nào trong chính phủ Hoa Kỳ được giao phó cho trách nhiệm về vấn đề này.

Vì thế, hẳn là đã có một sự nghi ngờ nào đó đối với vấn đề không hiểu một cường quốc bên ngoài liệu có thể thực hiện được những gì theo chiều hướng đó trong một xã hội xa lạ dù cho họ đã nhận thấy rõ thực chất của vấn đề đi nữa. Do đó, điều không làm cho ai ngạc nhiên là phản ứng của Hoa Kỳ chỉ là một phản ứng quân sự thông thường.

Việc đánh bại địch quân bằng quân sự có vẻ như một mục tiêu có thể đạt được và chúng ta đã leo thang chiến tranh rồi lại tái leo thang để tiến tới mục tiêu ấy. Việc đánh bại quân địch để tự nó trở thành một mục đích như đã từng thấy như vậy trong nhiều cuộc chiến tranh theo kiểu thông thường của Mỹ trước đây.

Đã có một số người thừa nhận là còn cần phải làm nhiều hơn ở Việt Nam. Bề ngoài người ta luôn luôn đề cập đến một chương trình tích cực, đến các chương trình bình định hoặc chương trình xây dựng nông thôn, nhằm mục đích đưa công bằng xã hội đến vùng nông thôn để thu phục nhân tâm của nhân dân và tranh thủ sự ủng hộ tích cực của họ