← Quay lại trang sách

- I -

Vua Solomon[2] còn chưa sống đến khoảng giữa trung bình của tuổi trời cho - bốn mươi lăm tuổi - mà tiếng đồn lừng lẫy về sự thông thái và vẻ đẹp toàn hảo của ngài, về cuộc sống huy hoàng và triều đình tráng lệ của ngài đã lan truyền đi rất xa ra ngoài bờ cõi Palestin[3]. Ở Assyria và Phoenicia, ở Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập, từ Tabriz đến Yemen và từ Ismar đến Persepolis, dọc miền duyên hải Biển Đen và trên các hòn đảo Địa Trung Hải, khắp nơi nhắc đến tên ngài với một niềm kinh ngạc, vì rằng trong số các vua chúa thời đó không có một ai sánh kịp ngài.

Vào năm 480, sau khi dân Israel ra khỏi xứ Ai Cập[4], năm trị vì thứ tư, nhằm tháng Zife[5], nhà vua bắt đầu khởi công cất ngôi đền vĩ đại thờ Đức Chúa Trời ở trên núi Moriah và một cung điện ở thành phố Jerusalem[6]. Tám mươi ngàn thợ đẽo đá và bảy mươi ngàn phu khuân vác liên tục làm việc trên núi và ở các vùng phụ cận thành phố, còn mười ngàn trong số ba mươi ngàn thợ đốn gỗ thay nhau lên núi Liban làm suốt cả tháng trời công việc cực kì nặng nhọc để sau đó được nghỉ ngơi trong hai tháng. Hàng ngàn người kết những cây gỗ đã được đốn xuống thành bè, và hàng trăm thủy thủ chở chúng theo đường biển về Jaffa; ở đó chúng qua tay chế tác của những người Tyre vốn rất thành thạo nghề rèn mộc. Chỉ có việc dựng các Kim tự tháp Chephren, Cheops và Mykerinos ở Giza mới sử dụng đến một số nhân công đông vô vàn như vậy.

Ba ngàn sáu trăm đốc công coi sóc mọi công việc, còn cai quản tất cả các đốc công đó là Azariah con trai của Nathan, một người rất tàn bạo và tháo vát; người ta đồn rằng anh ta không bao giờ ngủ, bị thiêu đốt bởi ngọn lửa của một căn bệnh bên trong không thể nào chữa khỏi. Còn tất cả thiết kế đền và cung điện, hình vẽ các cột trụ, bàn thờ và biển đồng, sơ đồ các cửa sổ, trang trí các bức tường và ngai vàng đều là của kiến trúc sư Hiram Abiff, quê ở Sidon, con trai của một người thợ đúc đồng thuộc dòng họ Nathalim.

Ngôi đền thờ Đức Chúa Trời được xây dựng xong sau tám năm, vào tháng Bul[7], còn cung điện nhà vua thì phải sau ba chục năm. Đổi lại những khối gỗ bá hương lấy từ trên núi Liban, những tấm ván trắc bá và ôliu, những súc gỗ tòng và bạch đàn hương, những phiến đá quý khổng lồ được bào nhẵn và mài bóng, các loại gấm điều, gấm bạch, gấm tía thêu vàng, những cuộn vải len màu xanh, những chiếc ngà voi và những tấm da cừu đỏ, rồi sắt thép, mã não, vô số đồ sứ, châu ngọc, dây xích vàng, mũ miện, rồi những dây, cặp, lưới, ống, đèn thờ, giá nến, hoa, bản lề cửa bằng vàng, những chiếc đinh vàng cân nặng sáu mươi shekel[8] mỗi chiếc, những chén đĩa đúc bằng vàng, những hoa văn trang trí bằng khảm và chạm trổ, những hình thiên sứ thượng đẳng, sư tử, bò đực, cây cọ và dứa - đổi lại tất cả những cái đó Solomon tặng cho vua Hiram xứ Tyre, người cùng họ với kiến trúc sư, hai mươi thành phố ở xứ Galile; và Hiram vẫn coi món quà đó là quá nhỏ mọn - bởi vì chưa ở đâu từng có một sự nguy nga tráng lệ như ngôi đền thờ Đức Chúa Trời và cung điện vua Solomon cùng một cung điện khác nhỏ hơn ở Milo dành cho hoàng hậu Astiz tuyệt sắc, con gái hoàng đế Ai Cập Sussakim. Còn gỗ hồng sắc, mà sau này được dùng làm lan can và cầu thang gác hiên thượng, các loại nhạc cụ và hộp đựng sách thánh, là quà tặng vua Solomon của nữ vương xứ Sheba, nàng Balkis thông minh và kiều diễm, cùng với một số lượng trầm hương, dầu thơm và nước hoa quý mà từ trước đến nay chưa từng thấy ở Israel.

Sự giàu có của nhà vua mỗi năm càng tăng thêm. Một năm ba lần các tàu thủy của ngài lại trở về bến cảng: tàu Tarshish đi lại trên Địa Trung Hải, còn tàu Hiram hoạt động ở vùng Biển Đen. Chúng chở ngà voi, khỉ, công và sơn dương từ châu Phi về; những cỗ xe sang trọng từ Ai Cập; những con hổ và sư tử sống cùng với các thứ lông, da thú từ Lưỡng Hà; những đàn ngựa trắng như tuyết từ Cuva; cát vàng Parwan sáu trăm sáu mươi talent[9] một năm; gỗ hồng sắc, gỗ mun, gỗ đàn hương từ nước Ophir; những tấm thảm Assyria và Kalah sặc sỡ với những hình thêu khác thường - quà của vua Tiglath-Pileazar; những bức khảm tinh xảo từ Nineveh, Nimrud và Sargon; những súc vải hoa kì lạ từ Hatuara; những chiếc bình đúc bằng vàng xứ Tyre; từ Sidon có kính màu; còn từ Punta ở cạnh eo biển Bab el Mandeb có các loại hương liệu quý - hiệt thảo, lô hội, kị phù lam, long diên hương, xạ hương; để chiếm được những thứ này các vua chúa Ai Cập đã không chỉ một lần gây nên những cuộc chiến tranh đẫm máu.

Vào thời vua Solomon, bạc thỏi chẳng khác gì những viên sỏi bình thường, còn gỗ hồng sắc không đắt hơn những cây sung mọc ở các vùng đất thấp.

Nhà vua sai dẫn nước từ các mạch khe núi đổ xuống con suối Kidron về, xây các nhà tắm tường ốp tràng thạch, các bể bơi bằng cẩm thạch và các vòi phun lạnh, còn xung quanh cung điện cho trồng nhiều khu vườn và cánh rừng nhỏ cùng một vườn nho ở Baal Gamon. your text here

Vua Solomon có bốn chục nghìn ngăn chuồng la và ngựa kéo xe, mười hai nghìn ngựa chiến; lúa đại mạch và rơm khô dùng để nuôi ngựa được chở từ các tỉnh về hàng ngày. Mười con bò thiến đã được vỗ béo và hai mươi con bắt từ bãi chăn về, ba mươi cor[10] bột mì hảo hạng và sáu mươi cor các loại bột khác, một trăm bát[11] rượu vang đủ loại, ba trăm con cừu, không tính các loại gà, chim béo, hươu nai, linh dương, sơn dương - tất cả nhưng cái đó qua tay mười hai người quản lí hàng ngày được cung cấp cho bàn ăn của vua Solomon, cũng như cho bàn ăn của các triều thần, tùy giá và quân cấm vệ của ngài. Sáu mươi vệ sĩ, trong số năm trăm lính khỏe mạnh và can đảm nhất toàn quân, suốt ngày đêm thay nhau canh gác nội cung của nhà vua. Solomon ra lệnh làm năm trăm chiếc khiên bọc vàng cho các vệ sĩ hộ giá của mình.

Chú thích:

[2] Solomon: Vua thứ ba của người Do Thái, con trai David, trị vì nước Israel - Judea trong thời kì cực thịnh, từ năm 965 đến năm 928 trước Công nguyên, nổi tiếng thông thái, giàu có, theo truyền thuyết là tác giả của nhiều cuốn sách trong Kinh Thánh.

[3] Palestin: Một vùng đất lịch sử ở Tây Á nằm giữa Địa Trung Hải và bờ sông Jordan, bao gồm cả Nhà nước cổ đại Israel - Judea, nơi theo truyền thuyết sinh ra chúa Jesu và đạo Thiên Chúa.

[4] Theo Kinh Thánh, một thời dân Israel sống nhờ xứ Ai Cập bị khốn khổ, được Đức Chúa Trời cứu dẫn ra khỏi xứ này. Đạo Do Thái và đạo Thiên Chúa kỉ niệm ngày này bằng lễ Vượt qua (tiếng Hi Lạp: Pascha).

[5] Tháng Zife: Tức tháng hai, theo lịch người Do Thái cổ đại.

[6] Jerusalem: Thành phố ở Palestin, kinh đô của nước Judea, đất thánh của đạo Do Thái, đạo Thiên Chúa và đạo Hồi.

[7] Tháng Bul: Tháng Tám.

[8] Shekel: Đơn vị đo lường (khối lượng và tiền tệ) ở các nước phương Đông cổ đại, mỗi nước có một giá trị khác nhau (ở Judea vào thế kỉ II TCN một shekel bằng 14,25g).

[9] Talent (tiếng Latin: talentum): Đơn vị đo lường và tiền tệ lớn nhất thời cổ đại, ở mỗi nước có giá trị khác nhau.

[10] Cor: đơn vị đo lường cổ đại, chừng 200 - 240 lít.

[11] Một bát chừng 20 lít.