MỞ ĐẦU CÂU CHUYỆN VỀ HAI TRANG TRẠI
Hai trang trại- Sự sụp đổ, quá khứ và hiện tại- Vườn Eden đã mất?- Khung năm điểm- Kinh doanh và môi trường- Phương pháp so sánh- Bố cục của cuốn sách.
Cách đây vài mùa hè, tôi tới thăm hai trang trại sản xuất bơ sữa là Huls và Gardar. Mặc dù nằm cách nhau hàng ngàn kilômét nhưng chúng vẫn có những điểm chung rõ rệt về lợi thế và bất lợi. Khi đó, cả hai đều là những trang trại lớn nhất, thịnh vượng nhất và tiên tiến nhất trong địa phương của mình. Bao quanh trang trại là khu chăn nuôi, vắt sữa bò hiện đại và rộng lớn. Những dãy chuồng bò được tổ chức gọn gàng, quay mặt vào nhau làm lu mờ các trang trại chăn nuôi khác trong vùng. Mùa hè, cả hai trang trại đều thả bò trên những đồng cỏ bao la, đồng thời trồng cỏ để cuối hè thu hoạch tích trữ cho bò ăn trong suốt mùa đông, và tăng sản lượng trồng cỏ trong mùa hè và cỏ khô cho mùa đông bằng cách tưới tiêu cho các cánh đồng. Với diện tích (khoảng vài kilômét vuông) và quy mô chuồng trại như nhau, nhưng số lượng bò của trang trại Huls nhỉnh hơn trang trại Gardar một chút (một trang trại có 200 con và trang trại kia là 165 con). Chủ của hai trang trại đều là những người có uy tín ở địa phương và là những người mộ đạo. Hai trang trại đều nằm trong khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp thu hút du khách ngay từ xa, trên nền những đỉnh núi cao đầy tuyết phủ với những dòng suối đầy cá đổ ra một con sông nổi tiếng (bên dưới trang trại Huls) hay một chiếc vịnh nhỏ (dưới trang trại Gardar).
Đó là những lợi thế chung của hai trang trại. Còn những bất lợi chung của chúng là cả hai đều nằm ở các địa phương có điều kiện trồng trọt không thuận lợi cho sản xuất bơ sữa, bởi chúng nằm tại vị trí vĩ độ Bắc cao nên vụ hè trồng và sản xuất cỏ khô cho gia súc rất ngắn ngủi. Bởi khí hậu không thuận lợi, kể cả trong những năm ôn hòa nhất, so với những trang trại bơ sữa ở vĩ độ thấp hơn nên cả hai trang trại rất dễ bị thiệt hại mỗi khi thay đổi thời tiết; hạn hán và giá rét là những vấn đề lớn đối với cả Huls và Gardar. Về tiêu thụ sản phẩm, cả hai vùng đều nằm xa các trung tâm dân cư nên chi phí vận tải và những khó khăn trên đây trở thành điểm bất lợi của họ trong cạnh tranh với các địa phương ở gần trung tâm hơn. Bên cạnh đó, còn có những biến động nằm ngoài tầm kiểm soát của các chủ trang trại, như biến động về số dân địa phương hay khẩu vị của khách hàng và sự thay đổi của các khu vực lân cận gây ảnh hưởng tới kết quả hoạt động của trang trại. Xét trên quy mô lớn, nền kinh tế của hai quốc gia nơi có hai trang trại này có thể phát triển hay suy sụp tùy thuộc vào mức độ của các hiểm họa từ những đất nước thù địch xa xôi.
Sự khác biệt lớn nhất giữa trang trại Huls và trang trại Gardar chính là hiện trạng của chúng. Trang trại Huls, một doanh nghiệp gia đình thuộc sở hữu của năm cặp vợ chồng là anh em ruột tại thung lũng Bitterroot thuộc bang Montana, phía Tây nước Mỹ, hiện đang rất thịnh vượng, trong khi quận Ravalli của trang trại Huls lại là một trong những quận có tỷ lệ tăng dân số cao nhất nước Mỹ. Tim, Trudy và Dan Huls, ba trong số những chủ sở hữu của trang trại Huls, đã đích thân đưa tôi đi thăm một khu chuồng trại công nghệ cao mới xây và kiên nhẫn giải thích cho tôi những hấp dẫn và khó khăn của ngành sản xuất bơ sữa Montana. Khó có thể tưởng tượng được rằng nước Mỹ nói chung, và trang trại Huls nói riêng sẽ sụp đổ trong một tương lai không xa. Còn trang trại Gardar, nguyên là trang viên của một cha xứ vùng Norse, nằm ở phía tây nam Greenland, từng bị bỏ hoang cách đây hơn 500 năm. Khi đó, xã hội Norse của Greenland đã sụp đổ hoàn toàn: hàng ngàn cư dân bị chết đói, bị giết trong những cuộc nội chiến hoặc trong những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm, hay đã di cư cho tới khi không còn ai sống ở đó nữa. Trong khi đó, những bức tường đá vững chãi của trang trại Gardar và nhà thờ Gardar ở gần đó vẫn đứng sừng sững, nhờ vậy tôi có thể đếm được từng cái chuồng bò, tuy nhiên giờ đây không một ai nói với tôi về những điểm hấp dẫn và thăng trầm trước kia của trang trại Gardar. Nhưng khi trang trại Gardar và xứ Norse của Greenland đang trong thời kỳ cực thịnh thì dường như không ai có thể tưởng tượng được rằng nó sẽ bị suy tàn cũng như sự suy tàn sau này của trang trại Huls và nước Mỹ ngày nay.
Hãy để tôi giải thích rõ hơn: Khi so sánh hai trang trại Huls và Gardar, tôi không cho rằng trang trại Huls và xã hội Mỹ sẽ phải chịu số phận bi đát suy tàn. Hiện tại, sự thực tương đối trái ngược: trang trại Huls đang trong quá trình mở rộng, công nghệ tân tiến của nó hiện đang được nghiên cứu để áp dụng cho những trang trại lân cận, và nước Mỹ hiện cũng là nước mạnh nhất thế giới. Nhưng tôi cũng không cho rằng các trang trại hay các xã hội nói chung dễ bị sụp đổ: trong khi thực tế một số đã sụp đổ như trang trại Gardar, số khác vẫn tồn tại liên tục trong hàng ngàn năm. Thực ra, hai chuyến đi của tôi tới trang trại Huls và trang trại Gardar diễn ra trong cùng một mùa hè, dù chúng cách nhau hàng ngàn cây số, đã thành công mỹ mãn khiến tôi đi đến kết luận rằng thậm chí ngay cả những xã hội giàu nhất, hiện đại nhất hiện cũng đang phải đối mặt với những vấn đề kinh tế và môi trường ngày càng nghiêm trọng và không thể coi thường. Nhiều vấn đề của chúng ta hiện nay rất giống với những gì đã tàn phá trang trại Gardar và xứ Norse của Greenland, và cũng là những vấn đề mà nhiều xã hội trước đây từng phải vật lộn tháo gỡ. Một số xã hội trước đây đã sụp đổ (như xứ Norse của Greenland) còn số khác thì thành công (như người Nhật và người Tikopia). Quá khứ đem lại cho chúng ta một cơ sở dữ liệu phong phú để chúng ta có thể học tập và tiếp tục thành công.
Xứ Norse của Greenland chỉ là một trong nhiều xã hội trước đây đã sụp đổ hoặc biến mất, để lại những tàn tích vĩ đại như nhà thơ Shelley đã hình dung trong bài thơ Ozymandias. Dùng từ sụp đổ, tôi muốn nói tới sự suy thoái mạnh mẽ về quy mô dân số, về tiến bộ xã hội, kinh tế và chính trị trong một khu vực rộng lớn và trong một thời gian dài. Vì vậy, hiện tượng sụp đổ là đỉnh điểm của một số hình thái suy tàn nhẹ, và nó là tiêu chuẩn để xác định một xã hội bị suy thoái mạnh tới mức nào trước khi bị coi là sụp đổ. Một số hình thái suy tàn nhẹ hơn này bao gồm sự tăng trưởng và suy thoái nhẹ của nền kinh tế, những hoạt động nhỏ nhằm tái cơ cấu nền kinh tế, chính trị và xã hội của bất kỳ xã hội nào; một cuộc xâm lược của nước láng giềng, hay sự suy tàn của nó có liên quan tới sự phát triển của một nước láng giềng khác mà không làm thay đổi quy mô dân số tổng thể hay sự phát triển của cả vùng; và sự thay thế hay lật đổ một chế độ bằng một chế độ khác. Dựa trên những tiêu chuẩn này, đa phần mọi người sẽ cho rằng những xã hội sau đây bị sụp đổ hoàn toàn chứ không phải chỉ là suy tàn nhẹ, đó là: Anasaki và Cahokia trong lãnh thổ nước Mỹ hiện nay, các thành phố Maya ở Trung Mỹ, Moche và các xã hội Tiwanaku ở Nam Mỹ, nền văn minh Mycenae của Hy Lạp và Minoan của đảo Crete ở châu Âu, vùng Đại Zimbabwe ở châu Phi, Angkor Wat và các thành phố Harappan ở lưu vực sông Ấn ở châu Á và đảo Phục Sinh ở Thái Bình Dương (xem hình 1 và 2).
Những tàn tích vĩ đại mà các xã hội đó để lại có sức cuốn hút lạ kỳ đối với tất cả chúng ta. Lúc bé, khi lần đầu nhìn thấy chúng qua các bức ảnh, chúng đã khiến ta kinh ngạc. Lớn lên, nhiều người trong chúng ta mong muốn trở thành du khách tới tận nơi để thám hiểm. Chúng ta bị cuốn hút không chỉ bởi vẻ đẹp lạ kỳ và ma quái mà còn bởi những bí ẩn của chúng. Quy mô của những tàn tích chứng tỏ sức mạnh và sự thịnh vượng trước đây của những người dựng lên chúng, như câu thơ “Hãy nhìn những công trình của tôi, bạn sẽ thấy sức mạnh và sự tuyệt vọng” của nhà thơ Shelley. Nhưng những chủ nhân đã biến mất, bỏ lại các kiến trúc vĩ đại mà họ đã gắng sức dựng lên. Tại sao một xã hội từng hùng mạnh như vậy lại có thể kết thúc trong đổ nát? Số phận mỗi công dân của nó như thế nào? Họ đã di cư, và (nếu đúng vậy) thì tại sao, hay họ đã chết trong đau khổ? Đằng sau những bí ẩn lãng mạn này là ý nghĩ luôn ám ảnh: Liệu xã hội tốt đẹp mà chúng ta đang sống có phải chịu chung số phận với những xã hội này không? Liệu rồi một ngày nào đó các du khách có tò mò nhìn ngắm những khối nhà chọc trời mốc thếch của New York giống như chúng ta ngày nay đang nhìn ngắm tàn tích của các thành phố Maya trong những cánh rừng già không?
Từ lâu đã có những ý kiến ngờ rằng nguyên nhân của những kết thúc bí ẩn đó ít nhất một phần là do vấn đề sinh thái: Con người vô tình tàn phá các nguồn tài nguyên môi trường mà xã hội của họ phụ thuộc. Những nghi ngờ về hiện tượng tự sát sinh thái không lường trước được - gọi là ecocide - đã được các nhà khảo cổ học, khí tượng học, lịch sử, cổ sinh vật học và các nhà khoa học nghiên cứu phấn hoa khẳng định qua những khám phá trong các thập kỷ gần đây. Các quá trình tự hủy hoại mà các xã hội trước đây đã trải qua khi tàn phá môi trường được chia làm tám loại, với tầm quan trọng khác nhau tùy từng trường hợp cụ thể, đó là: phá rừng và môi trường sống, các vấn đề về đất đai (xói mòn, mặn hóa và bạc màu), các vấn đề về quản lý nguồn nước, săn bắn quá nhiều, đánh cá vô độ, ảnh hưởng từ các loài sinh vật ngoại lai tới các loài sinh vật bản địa, tăng trưởng dân số và mức độ tác động tới thiên nhiên của mỗi người dân ngày càng tăng.
Sự sụp đổ của các xã hội trước đây dường như tuân theo một quy trình nào đó tương tự những biến tấu trên một bản nhạc. Tăng trưởng dân số buộc con người phải sử dụng các biện pháp nâng cao sản lượng nông nghiệp (như làm thủy lợi, tăng vụ hay làm ruộng bậc thang), và mở rộng canh tác từ các vùng đất tốt đã chọn lúc đầu sang cả các vùng đất khó trồng trọt hơn nhằm đáp ứng đủ lương thực cho số miệng ăn đang ngày càng tăng. Những hoạt động sản xuất không bền vững khiến môi trường bị tàn phá dưới một hay nhiều hình thức trong số tám loại vừa nêu, khiến những vùng đất khó trồng các loại cây nông nghiệp lại một lần nữa bị bỏ hoang. Hậu quả là xã hội phải đối mặt với tình trạng thiếu lương thực, nạn đói, chiến tranh xảy ra liên miên do quá nhiều người giành giật nguồn tài nguyên ít ỏi và các vụ lật đổ chính quyền do những đám đông vô vọng gây ra. Cuối cùng, số dân sẽ giảm sau những thảm họa đói kém, chiến tranh hay dịch bệnh và xã hội cũng mất đi một số tiến bộ về văn hóa, kinh tế và chính trị mà nó đã đạt được ở giai đoạn cực thịnh. Các học giả rất muốn chỉ ra những điểm tương đồng giữa quỹ đạo phát triển của xã hội với cuộc sống của con người, rằng xã hội cũng sinh ra, lớn lên, đạt tới sung mãn, già yếu rồi chết - để giả thiết rằng giai đoạn già yếu kéo dài mà đa số chúng ta phải trải qua trong thời kỳ từ sung mãn cho tới khi qua đời cũng áp dụng với xã hội. Nhưng phép ẩn dụ này chứng tỏ những sai lầm của nhiều xã hội trước đây (và hệt như Liên bang Xô Viết hiện đại): chúng suy tàn nhanh chóng sau khi đạt tới tột đỉnh về số lượng và sức mạnh, sự suy tàn này nhanh tới mức khiến người dân kinh ngạc và bàng hoàng. Trường hợp tồi tệ nhất là sụp đổ hoàn toàn, tất cả cư dân trong xã hội sẽ phải di cư hay bị tuyệt diệt. Dù vậy, hiển nhiên hành trình tàn nhẫn này không phải là hành trình mà tất cả các xã hội trước đây đều trải qua giống nhau tới khi kết thúc: Những xã hội khác nhau sụp đổ ở những mức độ khác nhau và theo những hình thức khác nhau, trong khi nhiều xã hội không hề sụp đổ.
Hiện nay, những nguy cơ sụp đổ kiểu này đang trở thành vấn đề ngày càng được quan tâm; thực tế, sụp đổ đã trở thành hiện thực ở Somalia, Rwanda và một vài nước Thế giới thứ ba. Nhiều người lo ngại rằng hiện nguy cơ tự sát sinh thái đang trở thành hiểm họa lớn đối với nền văn minh toàn cầu, tới mức át cả chiến tranh nguyên tử và những loại dịch bệnh mới xuất hiện. Các vấn đề môi trường mà hiện nay chúng ta đang phải đối mặt cũng bao gồm tám loại đã hủy hoại các xã hội trước đây, cộng thêm bốn vấn đề mới là: thay đổi khí hậu do con người gây ra, sự tích tụ các hóa chất độc hại trong môi trường, thiếu năng lượng và sự tận dụng của con người với khả năng quang hợp của Trái đất. Chỉ trong vài thập kỷ tới, phần lớn 12 hiểm họa này sẽ trở thành những vấn đề quan trọng mang tính toàn cầu: hoặc tới lúc đó chúng ta mới tìm cách xử lý, hoặc chúng sẽ hủy hoại không chỉ Somalia mà còn cả Thế giới thứ nhất. So với kịch bản ngày tận thế liên quan tới sự tuyệt chủng của con người hay một sự sụp đổ đã được báo trước của nền văn minh công nghiệp thì nhiều khả năng trong tương lai sẽ chỉ xảy ra sự suy thoái nghiêm trọng về mức sống, những nguy cơ lớn hơn sẽ xuất hiện thường xuyên hơn, và hủy hoại những cái mà hiện chúng ta đang coi là một số giá trị cơ bản. Một sự sụp đổ như vậy có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau như dịch bệnh hay những cuộc chiến lan tràn khắp thế giới chỉ vì lý do duy nhất là thiếu các nguồn tài nguyên môi trường. Nếu lý do này là đúng thì những nỗ lực hiện nay của chúng ta sẽ quyết định tình trạng của thế giới tương lai mà sau này các thế hệ trẻ em và thanh niên của chúng ta sẽ sống.
Nhưng mức độ nghiêm trọng của những vấn đề môi trường hiện nay vẫn đang gây tranh cãi kịch liệt. Liệu những nguy cơ này có bị phóng đại quá không, hay ngược lại có bị đánh giá thấp? Có phải chúng ta, với dân số gần bảy tỷ người hiện nay cùng với nền công nghệ hiện đại hùng mạnh, đang nghiền nát môi trường toàn cầu với tốc độ nhanh hơn nhiều lần so với khi Trái đất mới chỉ có vài triệu người cùng những công cụ thô sơ bằng gỗ và đá nhưng cũng đã làm tổn hại đến môi trường bản địa của họ? Liệu công nghệ hiện đại có giúp chúng ta giải quyết các vấn đề này, hay nó lại gây ra những vấn đề mới còn nhanh hơn là giải quyết các vấn đề cũ? Khi một nguồn tài nguyên (như gỗ, dầu lửa hay cá biển) cạn kiệt, liệu chúng ta có thể trông mong vào các nguồn tài nguyên khác thay thế hay không (như nhựa, gió, năng lượng mặt trời hay cá nuôi)? Chẳng phải tốc độ tăng trưởng dân số thế giới đang giảm đi và chúng ta đã sẵn sàng chấp nhận điều chỉnh để nó giảm xuống tới mức nào đó có thể kiểm soát được đó sao?
Tất cả những câu hỏi này cho thấy rõ tại sao sự sụp đổ của các nền văn minh nổi tiếng trước đây có ý nghĩa hơn nhiều chứ không đơn thuần chỉ là một bí ẩn lãng mạn. Có lẽ chúng ta có thể rút ra một số bài học thực tế từ những xã hội sụp đổ trước đây. Chúng ta biết rằng trước đây, một số xã hội sụp đổ trong khi những xã hội khác thì không; điều gì khiến một số xã hội nhất định đặc biệt dễ bị hủy hoại? Chính xác thì các xã hội trước đây rơi vào tình trạng tự sát sinh thái đã trải qua những giai đoạn nào? Tại sao một số xã hội trước đây không thấy được tình trạng hỗn độn mà họ đang lâm vào, và đó (mọi người sẽ cho rằng đó là sự hồi tưởng quá khứ) có phải là điều hiển nhiên? Những giải pháp nào đã áp dụng thành công trong quá khứ? Nếu trả lời được những câu hỏi này thì chúng ta có thể xác định được hiện những xã hội nào đang có nguy cơ sụp đổ cao nhất và những biện pháp nào có thể giúp đỡ họ một cách tốt nhất để không xảy ra những vụ sụp đổ như trường hợp Somalia.
Nhưng cũng có những khác biệt giữa xã hội hiện đại và các vấn đề của nó với các xã hội trước đây. Chúng ta cũng không nên khờ khạo khi nghĩ rằng nghiên cứu quá khứ sẽ tìm ra các giải pháp đơn giản và có thể áp dụng trực tiếp với xã hội hiện nay của chúng ta. Chúng ta khác các xã hội trước đây ở một số mặt khiến chúng ta có ít nguy cơ hơn họ; như công nghệ cao (với những tác động tích cực của nó), toàn cầu hóa, y học hiện đại và hiểu biết nhiều hơn về các xã hội trước đây cũng như những xã hội hiện đại. Nhưng cũng có một số mặt khiến chúng ta có nhiều nguy cơ hơn họ: vẫn là công nghệ phát triển mạnh mẽ (với những ảnh hưởng tiêu cực không lường trước được), toàn cầu hóa (bởi vậy một vụ sụp đổ ở tận Somalia xa xôi cũng ảnh hưởng tới nước Mỹ và châu Âu), sự phụ thuộc của hàng triệu (và sẽ sớm thành hàng tỷ) người vào y học hiện đại để tồn tại và dân số cũng đông hơn nhiều. Có lẽ chúng ta vẫn có thể học từ quá khứ, nhưng chỉ khi nếu chúng ta suy nghĩ cẩn thận về những bài học đó.
Nỗ lực tìm hiểu những vụ sụp đổ trước đây đang lâm vào một cuộc tranh luận lớn với bốn rắc rối. Cuộc tranh luận diễn ra xung quanh ý kiến cho rằng chính con người trước đây (trong đó một số người được biết là tổ tiên của con người hiện đại) là thủ phạm khiến xã hội của họ suy thoái. So với vài thập kỷ trước đây, hiện chúng ta đã nhận thức rõ hơn nhiều về những tác hại do hủy hoại môi trường. Thậm chí giờ đây, ngay cả trong các khách sạn cũng có những dấu hiệu khơi dậy ý thức bảo vệ môi trường, khiến chúng ta cảm thấy hổ thẹn nếu đòi một chiếc khăn tắm mới hay để nước chảy tràn lan. Phá hoại môi trường hiện bị coi là một hành vi thiếu đạo đức.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi những thổ dân Hawaii và Maoris không muốn nghe các nhà cổ sinh vật học nói rằng tổ tiên họ đã tàn sát một nửa số các loài chim sinh sống tại Hawaii và New Zealand, cũng như thổ dân châu Mỹ không thích khi các nhà khảo cổ học nói rằng người Anasazi đã tàn phá những cánh rừng ở phía tây nam nước Mỹ. Đối với một số người, những điều được cho là phát hiện của các nhà cổ sinh vật học và khảo cổ học nghe như một lý lẽ phân biệt chủng tộc do người da trắng viện ra để giành giật đất đai của dân bản địa. Nó giống như các nhà khoa học khẳng định: “Tổ tiên của các ông làm chủ không tốt mảnh đất của họ nên họ đáng bị tước quyền sở hữu.” Thực tế, một số người Mỹ và người Australia da trắng, bất mãn với việc chính phủ trả tiền và cấp lại đất cho thổ dân châu Mỹ và Australia, đã lợi dụng những phát hiện này để đẩy chúng thành cuộc tranh cãi gay gắt ngày nay. Không chỉ thổ dân mà cả một số nhà nhân chủng học và khảo cổ học nghiên cứu về họ và đồng cảm với họ cũng coi những phát hiện giả tưởng này là những điều dối trá mang tính phân biệt chủng tộc.
Một số thổ dân cùng các nhà nhân chủng học đồng cảm với họ cực lực phản đối ý kiến này. Họ khẳng định những thổ dân trước đây (và cả những thổ dân hiện đại ngày nay) là những con người thông minh và thân thiện với môi trường, biết rõ và tôn trọng thiên nhiên, sinh sống vô tư trong Vườn địa đàng Eden và có thể chưa bao giờ làm điều gì xấu. Như một thợ săn người New Guinea từng nói với tôi: “Nếu một ngày tôi bắn phải một con chim cu lớn bay ra từ phía làng tôi, tôi sẽ nghỉ một tuần trước đợt đi săn chim tiếp theo, và khi đó tôi sẽ đi về hướng khác.” Chỉ có những cư dân thuộc Thế giới thứ nhất hiện đại và xấu xa đang phớt lờ thiên nhiên, không tôn trọng môi trường và phá hủy nó.
Trên thực tế, cả hai quan điểm cực đoan trong cuộc tranh luận này - những người phân biệt chủng tộc và những người tin vào một Eden trong quá khứ - đang phạm phải những sai lầm khi coi thổ dân trước đây hoàn toàn khác biệt với con người của các nước thuộc Thế giới thứ nhất (cho dù họ kém hơn hay giỏi hơn). Quản lý bền vững nguồn tài nguyên môi trường luôn là một điều rất khó khăn, thậm chí ngay từ khi những Người tinh khôn (Homo sapiens) phát triển các kỹ năng săn bắn sáng tạo và hiệu quả vào khoảng 50.000 năm trước đây. Bắt đầu với cuộc xâm lấn đầu tiên của con người lên lục địa Australia khoảng 46.000 năm trước, và kéo theo hậu quả là sự tuyệt chủng của phần lớn các loài thú lớn có túi và các loài động vật lớn khác. Rồi kế đó là Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Madagascar, các đảo Địa Trung Hải hay Hawaii, New Zealand và hàng chục đảo khác ở Thái Bình Dương - mỗi cuộc xâm lấn của con người tới một vùng đất trước đây chưa hề có dấu chân người đều kéo theo một làn sóng tuyệt diệt các loài thú lớn trước đó chưa hề biết đến con người, nên chúng dễ bị giết hay bị chết do môi trường sống bị con người thay đổi, hoặc do sự xuất hiện của các loài sinh vật có hại và bệnh dịch. Bất cứ dân tộc nào cũng có thể bị rơi vào chiếc bẫy khai thác cạn kiệt các nguồn tài nguyên môi trường, do các vấn đề tồn tại ở khắp nơi mà chúng ta sẽ xem xét ở phần sau của cuốn sách: đó là các nguồn tài nguyên ban đầu dường như vô tận; những dấu hiệu của giai đoạn mới bắt đầu cạn kiệt dễ bị nhầm lẫn là những dao động bình thường của tài nguyên giữa các năm hay các thập kỷ; rất khó buộc mọi người chấp thuận áp dụng các biện pháp hạn chế khai thác một nguồn tài nguyên chung (cái gọi là thảm họa của tài nguyên chung sẽ được thảo luận trong các chương sau); và các hệ sinh thái rất phức tạp nên thường gây ra những hậu quả không thể lường trước, khiến con người, kể cả chuyên gia sinh thái học phải lo lắng. Các vấn đề môi trường hiện đang khó kiểm soát chắc chắn trước đây còn khó kiểm soát hơn nữa. Đặc biệt, những dân tộc không có chữ viết không thể hiểu rằng những vụ sụp đổ xã hội, hủy hoại sinh thái đã gây ra những hậu quả bi thảm, không thể lường trước chứ không chỉ là một sai lầm về mặt đạo đức do mù quáng hay sự cố tình, ích kỷ gây ra. Các xã hội chấm dứt trong sụp đổ (như Maya) khi đó đang ở giữa thời kỳ thành công, tiên tiến và sáng tạo nhất của họ chứ không phải là trong giai đoạn mông muội và nguyên thủy.
Những dân tộc trước đây không phải là những người quản lý kém cỏi và dốt nát đáng bị tuyệt diệt hay bị truất quyền sở hữu nhưng họ cũng không phải là những nhà bảo vệ môi trường tận tâm, thông thái để có thể giải quyết mọi vấn đề mà hiện chúng ta không thể giải quyết được. Họ cũng là những người như chúng ta, phải đối mặt với những vấn đề giống như những gì chúng ta đang phải đối mặt. Họ cũng rất dễ thành công hay thất bại tùy từng tình huống cụ thể như chúng ta ngày nay. Tuy nhiên, vẫn có những điểm khác biệt giữa những vấn đề mà chúng ta đang phải đối mặt với những vấn đề mà những dân tộc trước kia gặp phải, nhưng đồng thời cũng vẫn có những điểm tương đồng đủ để chúng ta có thể học hỏi từ quá khứ.
Trước hết, dường như tôi là kẻ bướng bỉnh và nguy hiểm khi đưa ra các giả thiết mang tính lịch sử về thực tế môi trường của những thổ dân những mong chúng được xem xét một cách công bằng. Các sử gia và các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra nhiều bằng chứng chứng minh giả thuyết về chủ nghĩa môi trường như Eden là sai. Bằng việc viện dẫn giả thuyết này để mong những thổ dân được đối xử công bằng, chúng tôi cũng ngụ ý rằng sẽ không có gì sai khi các dân tộc này lâm vào hoàn cảnh khó khăn nếu giả thiết trên bị bác bỏ. Thực tế, ý kiến phản bác rằng các dân tộc này đáng bị tuyệt diệt không dựa trên bất kỳ giả thiết lịch sử nào về thực tiễn môi trường của họ: nó dựa trên một nguyên tắc đạo đức, rằng sẽ là một hành vi vô đạo đức nếu một dân tộc tước quyền sở hữu, nô dịch hay hủy diệt một dân tộc khác.
Đó là cuộc tranh luận về những vụ sụp đổ trước đây do hệ sinh thái bị hủy hoại. Còn về mức độ phức tạp, tất nhiên không phải tất cả mọi xã hội đều phải chịu chung số phận bi đát là sụp đổ chỉ bởi những tổn hại môi trường. Trước đây, một số xã hội đã sụp đổ trong khi những xã hội khác thì không. Vấn đề thực sự ở đây là tại sao chỉ một số xã hội rõ ràng rất dễ bị đổ vỡ và khác biệt giữa những xã hội này với những xã hội khác là gì? Một số xã hội mà tôi sẽ thảo luận, như người Iceland và người Tikopia, giải quyết thành công những vấn đề môi trường cực kỳ khó khăn nên họ đã tồn tại trong một thời gian dài và hiện vẫn đang phát triển mạnh mẽ. Ví dụ, khi những người Na Uy tới chiếm Iceland, lúc đầu họ thấy môi trường nơi đây rất giống với môi trường Na Uy nhưng thực tế chúng rất khác nhau. Bởi vậy họ đã vô tình tàn phá phần lớn lớp đất mặt và diện tích rừng của Iceland. Trong một thời gian dài, Iceland đã từng bị coi là nước nghèo nhất và môi trường sinh thái bị hủy hoại nặng nề nhất châu Âu. Tuy nhiên, người Iceland đã rút ra những kinh nghiệm, áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường nghiêm ngặt nhất nên Iceland hiện đang là một trong những nước có mức thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới. Cư dân đảo Tikopia sống trên một đảo nhỏ, cách xa các láng giềng nên họ buộc phải tự lập hầu như mọi thứ. Nhờ quản lý chặt chẽ các nguồn tài nguyên và kiểm soát nghiêm ngặt dân số nên hiện hòn đảo của họ vẫn rất màu mỡ dù con người đã đặt chân lên đây từ 3.000 năm nay. Bởi vậy, cuốn sách này không phải tập hợp một chuỗi không dứt những câu chuyện đau buồn về sự sụp đổ, mà còn cả những câu chuyện thành công thôi thúc sự học tập và làm tăng niềm lạc quan của con người.
Hơn nữa, tôi cũng không thấy trường hợp xã hội nào sụp đổ chỉ bởi những tổn hại môi trường, mà luôn phải có tác động từ những yếu tố khác. Khi dự kiến viết cuốn sách này, tôi không đánh giá hết những phức tạp đó, tôi ngây thơ nghĩ rằng cuốn sách sẽ chỉ viết về những tổn hại môi trường. Cuối cùng, tôi đã vạch ra được một khung gồm năm yếu tố có thể khiến một xã hội sụp đổ và tôi đang cố tìm hiểu bất kỳ sự sụp đổ nào do môi trường. Bốn yếu tố đầu là tổn hại môi trường, thay đổi khí hậu, láng giềng thù địch và các đối tác thương mại thân thiện. Trong một xã hội cụ thể, những yếu tố này có hoặc không thể đóng vai trò quan trọng. Nhưng yếu tố thứ năm - cách đối phó của xã hội đối với các vấn đề môi trường - luôn được xem là yếu tố quan trọng. Thứ tự sắp xếp các yếu tố này không phải theo tầm quan trọng của chúng, mà chỉ để thuận tiện cho trình bày mà thôi, chúng ta sẽ lần lượt xem xét cả năm yếu tố này.
Như đã thảo luận, những yếu tố đầu tiên liên quan tới những tổn hại mà con người vô tình gây ra cho môi trường. Quy mô và khả năng đảo ngược những tổn hại này phụ thuộc một phần vào những đặc tính của con người (ví dụ mỗi năm họ chặt bao nhiêu cây trên một mẫu), và một phần vào các đặc tính của môi trường (như các đặc tính quyết định số hạt giống nảy mầm trên mỗi mẫu và tốc độ phát triển hằng năm của số cây non). Những đặc tính môi trường này sẽ được coi hoặc là mong manh (dễ bị tổn hại) hoặc là mau phục hồi (khả năng phục hồi sau khi bị tổn hại), và chúng ta có thể thảo luận riêng về khả năng dễ bị tổn hại hay mau phục hồi của các cánh rừng, đất đai, của các loài cá và những nguồn tài nguyên khác trong một khu vực. Bởi vậy, lý do vì sao chỉ một số xã hội nhất định bị sụp đổ vì môi trường, về cơ bản, đó là do cư dân trong xã hội quá bất cẩn hoặc do một số đặc tính môi trường của họ quá mong manh, hoặc cả hai lý do này.
Nghiên cứu tiếp theo trong khung năm điểm của tôi là yếu tố thay đổi khí hậu, một khái niệm mà hiện nay chúng ta đang có khuynh hướng gắn với hiện tượng khí hậu toàn cầu nóng lên do con người gây ra. Thực tế, khí hậu có thể nóng lên hay lạnh đi, ẩm ướt hay hanh khô hơn, hoặc ít nhiều biến động giữa các tháng hay các năm, do thay đổi của các lực lượng tự nhiên ảnh hưởng tới khí hậu mà con người không thể làm gì được. Ví dụ như những thay đổi về sức nóng do Mặt trời tỏa ra, núi lửa hoạt động phun tro bụi vào không khí, hướng của trục Trái đất thay đổi so với quỹ đạo của nó và những thay đổi trong phân bố lục địa và đại dương trên bề mặt Trái đất. Những trường hợp thay đổi khí hậu tự nhiên thường được thảo luận nhiều nhất còn do cả hiện tượng các tảng băng lục địa trôi dạt trong Thời kỳ Băng hà bắt đầu từ hơn hai triệu năm trước, thời kỳ được gọi là Tiểu Băng Hà vào khoảng năm 1400 - 1800, và hiện tượng khí hậu toàn cầu lạnh đi do núi lửa Mt. Tambora khổng lồ của Indonesia hoạt động vào ngày 5 tháng Tư năm 1815. Núi lửa này đã phun tro bụi vào khí quyển nhiều tới mức làm giảm ánh sáng mặt trời chiếu xuống Trái đất, cho tới khi tro bụi được dọn sạch. Mùa hè năm 1816, hiện tượng này đã gây ra nạn đói lan tràn tới tận Bắc Mỹ và châu Âu do thời tiết lạnh giá và sản lượng hoa màu bị giảm sút. (Do vậy, năm đó còn gọi là năm không mùa hè).
Đối với các xã hội trước kia, thay đổi khí hậu thậm chí còn ảnh hưởng nghiêm trọng hơn khi tuổi thọ của con người thời đó thấp và không có ghi chép về những thay đổi đó như hiện nay, do khí hậu ở nhiều nơi trên Trái đất có khuynh hướng thay đổi không chỉ hằng năm mà còn trong hàng thập kỷ, chẳng hạn, sau khoảng thời gian nửa thế kỷ khô hanh là vài thập kỷ khí hậu ẩm ướt. Trong nhiều xã hội tiền sử, khoảng cách giữa các thế hệ - trung bình năm giữa năm sinh của cha mẹ với con cái - chỉ kéo dài vài chục năm. Bởi vậy, vào cuối những thập kỷ khí hậu ẩm ướt hầu như số người sống sót không còn nhớ gì về những gì đã diễn ra trong giai đoạn khí hậu hanh khô trước đó. Thậm chí ngày nay, con người vẫn có xu hướng tăng sản lượng và dân số trong những năm khí hậu thuận lợi mà quên mất (hay như trong quá khứ là không nhận ra) rằng giai đoạn này sẽ không kéo dài. Bởi vậy khi giai đoạn khí hậu thuận lợi chấm dứt, xã hội mới thấy rằng dân số đã vượt quá khả năng chu cấp của mình, hay những thói quen thâm căn cố đế không còn thích hợp với những điều kiện khí hậu mới. (Điển hình là miền Tây hanh khô của nước Mỹ với chính sách sử dụng nước thoải mái ở đô thị và nông thôn thường được đưa ra trong những thập kỷ khí hậu ẩm ướt). Cùng với những khó khăn do hiện tượng thay đổi khí hậu gây ra, nhiều xã hội trước đây còn không có các cơ chế “giảm nhẹ tai họa” để nhập khẩu lượng lương thực dư thừa từ các vùng có khí hậu khác vào các vùng đang thiếu lương thực. Tất cả những nghiên cứu này cho thấy các xã hội trước đây có nhiều nguy cơ chịu tác động tiêu cực từ hiện tượng thay đổi khí hậu.
Khí hậu tự nhiên thay đổi có thể tạo ra những điều kiện tốt hơn hoặc xấu hơn cho bất kỳ xã hội cụ thể nào của con người, và cũng có thể tạo thuận lợi cho xã hội này nhưng lại gây tổn hại tới xã hội khác. (Ví dụ, chúng ta sẽ thấy rằng khí hậu thời kỳ Tiểu Băng Hà bất lợi cho xứ Norse nhưng lại thuận lợi cho xứ Inuit cũng của Greenland). Trong lịch sử có nhiều trường hợp, một xã hội đang bị cạn kiệt tài nguyên môi trường vẫn có thể chịu đựng tổn hại chừng nào khí hậu vẫn còn thuận lợi, nhưng sau đó bị đẩy tới bờ vực sụp đổ khi khí hậu trở nên hanh khô hơn, lạnh giá hơn, nóng hơn, ẩm ướt hơn hay thay đổi nhiều hơn. Lúc đó liệu có thể kết luận rằng xã hội đó sụp đổ là do tác động môi trường mà con người gây ra hay do thay đổi khí hậu gây ra? Hai kết luận đơn giản này chẳng có cái nào đúng cả. Thay vào đó, nếu xã hội đó không tự làm cạn kiệt một phần nguồn tài nguyên môi trường của mình, thì nó đã có thể vượt qua sự cạn kiệt tài nguyên do thay đổi khí hậu gây ra. Ngược lại, cho dù chính xã hội đó đã làm cạn kiệt nguồn tài nguyên, nhưng nó vẫn có thể tồn tại cho tới khi hiện tượng thay đổi khí hậu khiến nguồn tài nguyên cạn kiệt hơn nữa. Không thể tách riêng một yếu tố nào, sự kết hợp giữa thay đổi khí hậu và tác động môi trường rõ ràng là một đòn quyết định.
Nghiên cứu thứ ba là mối quan hệ với các láng giềng thù địch. Hầu như rất ít xã hội lịch sử có vị trí địa lý gần với các xã hội khác để có thể quan hệ với nhau. Quan hệ với các xã hội láng giềng có thể trong tình trạng thù địch thường xuyên hoặc tạm thời. Một xã hội có thể kiềm chế kẻ thù khi xã hội ấy còn hùng mạnh và chỉ chịu thất bại khi bị suy yếu vì bất kỳ lý do nào, kể cả những tổn hại môi trường. Lý do sát nhất của sự sụp đổ là do bị xâm lược vũ trang, nhưng lý do chính – yếu tố mà khi nó thay đổi sẽ dẫn tới sự sụp đổ - phải là yếu tố đã khiến cho xã hội đó suy yếu. Bởi vậy, những sụp đổ vì lý do sinh thái hay vì các lý do khác thường bị che đậy dưới lý do thất bại quân sự.
Minh chứng rõ ràng nhất về sự che đậy này chính là sự sụp đổ của Đế chế La Mã phương Tây. Do La Mã thường xuyên bị những tộc người dã man tấn công nên đã sụp đổ vào khoảng năm 476, năm vị vua cuối cùng của phương Tây bị phế truất. Tuy nhiên, thậm chí trước khi Đế chế La Mã xuất hiện đã có những tộc người “dã man” sống ở Bắc Âu và Trung Á, ngoài biên giới của châu Âu Địa Trung Hải “văn minh”, và thi thoảng tấn công châu Âu “văn minh” (cũng như Trung Quốc và Ấn Độ “văn minh”). Trong thời gian hơn một ngàn năm, La Mã đã khống chế thành công những tộc người dã man, như đánh tan một đạo quân xâm lược lớn của người Cimbri và người Teutone khi chúng tấn công miền Bắc Italy trong trận chiến tại Campi Raudii vào năm 101 TrCN.
Cuối cùng, chính những tộc người dã man chứ không phải là người La Mã đã chiến thắng trong cuộc chiến này. Vậy nguyên nhân chính dẫn tới sự thay đổi vận mệnh này là gì? Có phải do những tộc người dã man đã tự thay đổi, như binh lính đông hơn và được tổ chức tốt hơn? Hay họ có nhiều ngựa hơn, nhiều vũ khí tốt hơn? Hay do hiện tượng thay đổi khí hậu đã tạo điều kiện phát triển thuận lợi cho những thảo nguyên Trung Á? Trong trường hợp này, chúng ta sẽ cho rằng những tộc người dã man chính là nguyên nhân khiến La Mã sụp đổ. Hay phải chăng những tộc người dã man vẫn cũ kỹ và không hề đổi mới luôn rình rập ngoài biên giới Đế quốc La Mã, và chỉ chiến thắng khi La Mã bị suy yếu bởi sự kết hợp của hàng loạt khó khăn về chính trị, kinh tế, môi trường và các vấn đề khác? Trong trường hợp này, chúng ta thấy rằng La Mã bị sụp đổ bởi chính những vấn đề của bản thân nó, cùng với đòn kết liễu của những tộc người dã man. Vấn đề này hiện vẫn còn gây tranh cãi và về cơ bản cũng được thảo luận khi bàn về sự sụp đổ của một số xã hội khác như Đế chế Khmer, định đô tại Angkor Wat với những cuộc xâm lược của những láng giềng người Thái, sự suy tàn của nền văn minh Harappan ở lưu vực sông Ấn với những cuộc xâm lăng của người Aryan, và sự sụp đổ văn minh Mycenae của người Hy Lạp và những xã hội Địa Trung Hải thời kỳ đồ Đồng với những cuộc xâm lăng của hải tặc.
Yếu tố thứ tư trái ngược với yếu tố thứ ba: sự hỗ trợ của những láng giềng hữu nghị bị suy thoái, hoàn toàn trái ngược với những cuộc tấn công liên tiếp của các láng giềng thù địch. Trong lịch sử, hầu như chỉ một vài xã hội có cả đối tác thương mại hữu nghị và cả những kẻ thù ở ngay bên cạnh mình. Thông thường, kẻ thù và đối tác đều là một và chính là nước láng giềng với quan hệ lúc tốt, lúc xấu tùy thuộc vào sự hữu nghị hay thù địch. Hầu hết các xã hội đều phụ thuộc vào các nước láng giềng hữu nghị ở một mức độ nào đó, hoặc để nhập khẩu các loại hàng hóa thương mại thiết yếu (như ngày nay Mỹ nhập khẩu dầu lửa, Nhật Bản nhập khẩu dầu lửa, gỗ và hải sản), hoặc có những ràng buộc văn hóa gắn liền với xã hội (như Australia “nhập khẩu” bản sắc văn hóa từ Anh cho mãi tới gần đây mới chấm dứt). Bởi vậy xuất hiện nguy cơ, nếu đối tác thương mại của bạn bị suy yếu bởi bất kỳ lý do nào (kể cả những tổn hại môi trường) và không còn tiếp tục cung cấp các mặt hàng thiết yếu hay quan hệ văn hóa, thì chắc chắn xã hội của bạn cũng sẽ suy yếu theo. Đây là một vấn đề quen thuộc với thế giới ngày nay bởi Thế giới thứ nhất phụ thuộc vào nhập khẩu dầu lửa từ Thế giới thứ ba, nơi bất ổn về chính trị và sinh thái, dễ bị tác động và từng áp dụng lệnh cấm vận dầu lửa đối với Mỹ vào năm 1973. Những vấn đề tương tự cũng từng xuất hiện trong các xã hội trước đây như xứ Norse của Greenland, Pitcairn của Iceland và những xã hội khác.
Yếu tố cuối cùng trong khung năm điểm của tôi chính là cách đối phó của xã hội với các vấn đề của mình, cho dù đó có phải là vấn đề môi trường hay không. Cùng một vấn đề nhưng các xã hội khác nhau có những cách đối phó khác nhau. Ví dụ, phá rừng xuất hiện trong nhiều xã hội trước đây, trong khi New Guinea Cao nguyên, Nhật Bản, Tikopia và Tonga quản lý rừng thành công và tiếp tục phát triển thịnh vượng thì đảo Phục Sinh, Mangareva và xứ Norse Greenland lại thất bại và sụp đổ. Chúng ta có thể hiểu những hậu quả trái ngược này như thế nào? Cách đối phó của một xã hội phụ thuộc vào thể chế chính trị, kinh tế, xã hội và những giá trị văn hóa của nó. Những thể chế và giá trị này ảnh hưởng tới cách xã hội xử lý (hay thậm chí cố gắng xử lý) vấn đề của mình như thế nào. Trong cuốn sách, chúng tôi sẽ áp dụng khung năm điểm này khi thảo luận về các xã hội trước đây đã sụp đổ hay tiếp tục phát triển.
Tất nhiên, tôi cũng muốn nói thêm rằng, cũng như các yếu tố thay đổi khí hậu, xã hội láng giềng thù địch và các đối tác thương mại có thể hoặc không thể góp phần làm một xã hội sụp đổ, thì yếu tố tổn hại môi trường cũng có thể hay không thể góp phần làm nên điều đó. Sẽ là ngớ ngẩn khi cho rằng tổn hại môi trường phải là yếu tố chủ chốt trong mọi vụ sụp đổ, như sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết là một minh chứng mới và việc La Mã hủy diệt Carthage vào năm 146 TrCN là một minh chứng cũ. Nhưng hiển nhiên rằng chỉ riêng các yếu tố quân sự hay kinh tế là có thể khiến xã hội sụp đổ. Bởi vậy, tiêu đề đầy đủ của cuốn sách này phải là “Sự sụp đổ của xã hội có liên quan tới yếu tố môi trường, và trong một số trường hợp còn có sự góp phần của hiện tượng thay đổi khí hậu, xã hội thù địch và các đối tác thương mại, cộng với những vấn đề về sự đối phó của xã hội”. Giới hạn này vẫn mang lại cho chúng ta nhiều bằng chứng mới và cũ để nghiên cứu.
Ngày nay, những vấn đề về tác động tới môi trường của con người đang gây tranh cãi và các ý kiến có khuynh hướng phân hóa thành hai trường phái đối lập. Trường phái thứ nhất, được gọi là “các nhà môi trường” hay “thân môi trường”, cho rằng các vấn đề môi trường của chúng ta hiện đang rất nghiêm trọng và rất cần được chỉ rõ, và rằng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và dân số hiện nay không thể duy trì lâu dài. Trường phái thứ hai thì cho rằng các nhà môi trường lo lắng thái quá, vô căn cứ, tăng trưởng kinh tế và dân số sẽ tiếp tục được duy trì và phát triển. Không thể tìm một cái tên ngắn gọn cho trường phái thứ hai nên tôi gọi đó là trường phái “phi môi trường”. Những quan điểm của họ xuất phát từ giới các tập đoàn tài chính và kinh tế lớn, nhưng công thức “phi môi trường” = “thân kinh doanh” là không chính xác. Nhiều thương nhân tự coi mình là những nhà môi trường và nhiều người chỉ trích các quan điểm của các nhà môi trường lại không thuộc giới các tập đoàn tài chính lớn. Khi viết cuốn sách này, tôi sẽ đặt mình ở đâu giữa hai trường phái này?
Một mặt, từ khi mới bảy tuổi, tôi đã làm công việc theo dõi nhận dạng các loài chim. Chuyên môn của tôi là nghiên cứu sinh vật học, và từ 40 năm nay tôi nghiên cứu các loài chim rừng nhiệt đới ở New Guinea. Tôi quý các loài chim, thích ngắm nhìn chúng và thích được sống trong rừng nhiệt đới. Tôi cũng yêu quý các loài thực vật, động vật và các môi trường sống khác cũng như coi trọng chúng vì những lợi ích của chúng. Tôi cũng đã rất nỗ lực để bảo tồn các loài sinh vật và môi trường thiên nhiên ở New Guinea và những nơi khác. Hơn 10 năm qua, tôi là Giám đốc chi nhánh của tổ chức Động vật Hoang dã Thế giới (WWF) ở Mỹ, một trong những tổ chức môi trường quốc tế lớn nhất thế giới với những mục tiêu môi trường mang tầm thế giới. Tất cả những điều này khiến tôi bị phái phi môi trường chỉ trích là “kẻ gieo rắc hoang mang”, “Diamond chỉ thuyết giảng những điều tối tăm và bất hạnh”, “thổi phồng rủi ro” và “coi trọng cây cối hơn nhu cầu của con người.” Nhưng mặc dù yêu quý các chú chim New Guinea, tôi cũng rất yêu vợ con, bạn bè tôi, yêu người New Guinea và những dân tộc khác. Tôi quan tâm tới các vấn đề môi trường nhiều hơn bởi tôi biết chúng có tầm quan trọng to lớn với con người hơn là với các loài chim.
Mặt khác, tôi cũng có nhiều sự từng trải, mối quan tâm, đã và đang thực hiện nhiều công việc liên quan tới các tập đoàn kinh tế và các tổ chức khác trong xã hội chúng ta hiện đang khai thác các nguồn tài nguyên môi trường và thường bị coi là những người chống môi trường. Khi còn niên thiếu, tôi từng làm việc như một người lớn trong một trang trại chăn nuôi lớn ở Montana. Giờ đây khi đã trưởng thành và làm cha, tôi vẫn thường xuyên đưa vợ con tới nghỉ hè ở đó. Tôi cũng từng làm việc trong một nhóm thợ mỏ khai thác đồng ở Montana trong một mùa hè. Tôi yêu Montana và những người bạn làm việc ở các trang trại, tôi hiểu, ngưỡng mộ và thông cảm với công việc sản xuất nông nghiệp cũng như lối sống của họ và tôi kính tặng họ cuốn sách này. Những năm gần đây, tôi có nhiều cơ hội quan sát và trở nên quen thuộc với các công ty khai thác lớn trong các ngành công nghiệp mỏ, lâm nghiệp, đánh bắt cá, và dầu khí. Bảy năm qua, tôi làm công tác giám sát tác động môi trường tại khu khai thác dầu khí lớn nhất Papua New Guinea bởi các công ty dầu khí cam kết với tổ chức Động vật Hoang dã Thế giới tiến hành đánh giá các tác động môi trường một cách độc lập. Tôi thường xuyên tới thăm những khu khai thác của họ và trò chuyện với rất nhiều nhà quản lý cũng như với các nhân viên, và tôi hiểu quan điểm cũng như những khó khăn riêng của họ.
Trong khi những mối quan hệ chặt chẽ với các tập đoàn kinh tế giúp tôi có cái nhìn rõ hơn về những tổn hại môi trường mà họ gây ra, thì tôi cũng hiểu biết hơn về lợi ích của các tập đoàn khi áp dụng những biện pháp bảo vệ môi trường nghiêm ngặt và hiệu quả hơn cả các công viên quốc gia. Tôi quan tâm tới nguyên nhân tạo ra sự khác biệt trong chính sách môi trường của các ngành kinh doanh. Đặc biệt, việc tôi tham gia làm việc với các công ty dầu lửa lớn khiến một số nhà môi trường lên án tôi với những từ ngữ như: “Diamond đã bán chúng ta cho các tập đoàn”, “ông ta chung chạ với các tập đoàn”, hay “ông ta bán mình cho các công ty dầu lửa”.
Thực tế, tôi không làm việc cho các tập đoàn kinh tế, và tôi mô tả trung thực những gì mình thấy trên đất đai của họ, mặc dù tôi tới thăm với tư cách là một vị khách. Ở một số nơi, tôi đã thấy các công ty dầu lửa và các công ty lâm nghiệp tàn phá môi trường và tôi đã nói đúng như vậy. Ở nơi khác, tôi thấy họ rất thận trọng và tôi cũng đã nói vậy. Quan điểm của tôi là, nếu các nhà môi trường không tự nguyện hợp tác với các tập đoàn, hiện đang là lực lượng mạnh nhất thế giới hiện đại, thì họ sẽ không thể giải quyết các vấn đề môi trường của thế giới. Bởi vậy, tôi viết cuốn sách này trên quan điểm trung dung, với những hiểu biết cả về các vấn đề môi trường lẫn thực tiễn kinh doanh.
Làm thế nào để nghiên cứu “một cách khoa học” về sự sụp đổ của các xã hội? Khoa học thường bị bóp méo là “những tri thức được thu thập qua tiến hành những thí nghiệm có kiểm soát, lặp đi lặp lại trong phòng thí nghiệm”. Thực ra, khoa học là điều gì đó lớn hơn nhiều: nó là sự thu thập các tri thức đáng tin cậy về thế giới. Trong một số lĩnh vực như hóa học và sinh học phân tử, những thí nghiệm có kiểm soát, được lặp đi lặp lại trong phòng thí nghiệm có thể và tới giờ vẫn là các phương tiện đáng tin cậy nhất để thu thập kiến thức. Chuyên môn chính của tôi là hai ngành này, tôi có bằng cử nhân sinh hóa và bằng tiến sĩ sinh lý học. Từ năm 1955 - 2002, tôi chuyên nghiên cứu thực nghiệm sinh lý học trong phòng thí nghiệm, ở Đại học Harvard và sau này ở Đại học California tại Los Angeles.
Năm 1964, khi bắt tay nghiên cứu các loài chim sống trong các khu rừng nhiệt đới tại New Guinea, lập tức tôi vấp phải khó khăn là làm sao thu thập được những kiến thức xác thực mà không cần tiến hành những thí nghiệm có kiểm soát, được lặp đi lặp lại, bất kể là ở trong phòng thí nghiệm hay ở ngoài trời. Sẽ là không khả thi, bất hợp pháp hay vô đạo đức nếu thu thập kiến thức về các loài chim bằng những thí nghiệm tiêu diệt hay làm giảm số chim trong một khu vực trong khi số chim ở khu vực khác không bị ảnh hưởng. Tôi đã phải vận dụng các phương pháp khác nhau. Những vấn đề tương tự về phương pháp luận cũng xuất hiện trong nhiều lĩnh vực khác nhau của ngành sinh học dân số, cũng như trong thiên văn học, dịch tễ học, địa chất học và cổ sinh vật học.
Giải pháp thông thường là áp dụng cái gọi là “phương pháp so sánh” hay “thí nghiệm tự nhiên”, như so sánh sự khác nhau của các hoàn cảnh tự nhiên với biến số mà bạn quan tâm. Ví dụ, khi tôi là nhà điểu học, tôi quan tâm tới những tác động của loài chim hút mật Melidectes có chỏm lông đầu màu nâu vàng của New Guinea tới số lượng các loài chim hút mật khác. Tôi so sánh các loài chim trên núi và thấy chúng tương đối giống nhau ngoại trừ một số loài có tác động rõ ràng tới số chim hút mật Melidectes, trong khi một số khác thì không. Tương tự, trong các cuốn The Third Chimpanzee: The Evolution and Future of the Human Animal (tạm dịch: Loài tinh tinh thứ ba: Sự tiến hóa và tương lai của loài người) và Why is Sex Fun?: The Evolution of Human Sexuality (tạm dịch: Tại sao tình dục lại thú vị? Cuộc cách mạng giới tính của con người) đã so sánh các loài động vật khác nhau, đặc biệt là các bộ động vật có tay khác nhau, nhằm tìm ra lý do vì sao phụ nữ (không như giống cái của các loài động vật khác) lại trải qua thời kỳ mãn kinh và không có dấu hiệu rõ ràng của sự rụng trứng. Tại sao đàn ông lại có dương vật tương đối lớn (theo tiêu chuẩn động vật), và tại sao con người thường sinh hoạt tình dục ở nơi kín đáo (chứ không công khai như phần lớn các loài động vật khác). Có hẳn một tài liệu khoa học đồ sộ về những khó khăn của phương pháp so sánh này, và cách tốt nhất để khắc phục những khó khăn đó. Đặc biệt là trong các môn khoa học liên quan tới lịch sử (như tiến hóa sinh vật học và lịch sử địa chất học), những môn không thể vận dụng các thí nghiệm về quá khứ, con người không có chọn lựa nào khác ngoại trừ phủ nhận những thí nghiệm trong phòng thí nghiệm để thừa nhận những thí nghiệm tự nhiên.
Cuốn sách này sử dụng phương pháp so sánh để tìm hiểu những xã hội bị sụp đổ phần nào do tác động của các vấn đề môi trường. Cuốn sách trước của tôi (cuốn Guns, Germs, and Steel: The Fates of Human Societies [tạm dịch: Súng, vi trùng và thép: Định mệnh của xã hội loài người]) áp dụng phương pháp so sánh để giải quyết một vấn đề ngược lại hoàn toàn, đó là: khả năng xây dựng các xã hội loài người trên các lục địa khác nhau trong suốt hơn 13.000 năm qua. Còn cuốn này chú trọng vào sự sụp đổ hơn là sự xây dựng của các xã hội, tôi so sánh sự khác nhau giữa nhiều xã hội hiện tại với các xã hội trước đây về mức độ dễ tổn hại của môi trường, quan hệ với các xã hội láng giềng, thể chế chính trị và những biến số “đầu vào” khác, là điều kiện ảnh hưởng tới sự ổn định của một xã hội. Những biến số “đầu ra” giúp tôi xác định xã hội đó sụp đổ hay tồn tại, và hình thái sụp đổ nếu một vụ sụp đổ xảy ra. Bằng việc liên kết các biến số đầu ra với các biến số đầu vào, tôi muốn vạch ra ảnh hưởng của những biến số đầu vào tới các vụ sụp đổ.
Có thể áp dụng phương pháp định lượng này một cách toàn diện và chính xác đối với sự sụp đổ do phá rừng trên các đảo Thái Bình Dương. Cư dân Thái Bình Dương thời kỳ tiền sử tàn phá rừng trên những hòn đảo của mình ở những mức độ khác nhau, từ mức độ nhẹ cho tới chặt phá toàn bộ, gây ra những hậu quả xã hội khác nhau, từ tồn tại trong thời gian dài cho tới bị sụp đổ hoàn toàn, cư dân tuyệt diệt. Tôi và đồng nghiệp Barry Rolett phân loại 81 hòn đảo Thái Bình Dương theo mức độ phá rừng trên quy mô số học. Chúng tôi cũng phân loại giá trị của chín biến số đầu vào (như lượng mưa, sự cô lập và mức độ phục hồi độ màu của đất) là điều kiện ảnh hưởng tới sự phá rừng. Bằng một phân tích thống kê, chúng tôi có thể tính toán được ảnh hưởng của mỗi biến số đầu vào tới hậu quả phá rừng. Một thí nghiệm so sánh khác có thể áp dụng với Bắc Đại Tây Dương, nơi hải tặc Địa Trung Hải từ Na Uy xâm chiếm sáu hòn đảo và lãnh thổ có những ưu thế khác nhau trong sản xuất nông nghiệp, giao thương với Na Uy, và những biến số đầu vào khác. Những hòn đảo này cũng chịu các hậu quả khác nhau, từ nhanh chóng bị bỏ hoang cho tới cư dân tuyệt diệt sau 500 năm hoặc tiếp tục phát triển sau 1.200 năm. Ngoài ra còn có thể đưa ra những so sánh khác giữa các xã hội ở những nơi khác nhau trên thế giới.
Tất cả những so sánh này đều dựa trên nhiều thông tin chi tiết về những xã hội cụ thể, do các nhà khảo cổ học, lịch sử học và các học giả khác kiên trì tích lũy. Phần cuối cuốn sách, tôi liệt kê danh mục những cuốn sách và những tài liệu tham khảo xuất sắc về nền văn minh cổ Maya và Anasazi, về người Rwanda và người Trung Quốc hiện đại, và về các xã hội khác trong quá khứ cũng như hiện tại mà tôi đã so sánh. Những nghiên cứu đơn lẻ này tạo nên cơ sở dữ liệu không thể thiếu được cho cuốn sách của tôi. Có những kết luận bổ sung có thể rút ra từ việc so sánh những xã hội này với nhau nhưng lại không thể rút ra nếu chỉ nghiên cứu một xã hội riêng biệt. Ví dụ, để hiểu được sự sụp đổ của xã hội Maya nổi tiếng cần không chỉ những kiến thức chính xác về lịch sử và môi trường của Maya, mà chúng ta còn có thể đặt Maya trong một khung cảnh rộng hơn, và hiểu sâu hơn bằng việc so sánh Maya với những xã hội khác bị hoặc không bị sụp đổ nhằm tìm ra những điểm giống và khác nhau. Để hiểu rõ hơn đòi hỏi phải sử dụng phương pháp so sánh.
Tôi đã nhấn mạnh sự cần thiết này để có những nghiên cứu riêng biệt xác đáng và những so sánh hợp lí, bởi các học giả khi thực hiện phương pháp nghiên cứu này thường coi nhẹ kết quả của phương pháp nghiên cứu kia. Các chuyên gia nghiên cứu lịch sử của một xã hội có khuynh hướng bỏ qua những phép so sánh và coi chúng là thiển cận, trong khi những người thực hiện phương pháp so sánh lại có khuynh hướng xem thường những nghiên cứu về các xã hội riêng biệt cũng với lý do coi chúng là thiển cận, vô vọng và ít có giá trị trong việc tìm hiểu các xã hội khác. Nhưng để thu thập những kiến thức xác thực, chúng ta cần kết hợp cả hai phương pháp nghiên cứu. Đặc biệt, sẽ rất nguy hiểm nếu khái quát hóa một xã h?