Chương 2
“Cậu là một trong những người bình tĩnh nhất mà tôi từng gặp đấy.”
“Sự bình tĩnh này là do cái tính yếm thế của tôi mà ra đấy, trên đời này hiếm có thứ gì khiến tôi để ý lắm.”
“Nói gì thì nói, tôi chưa gặp người nào có thể bình tĩnh như vậy trong hoàn cảnh này đâu. Đừng để ý những thứ tôi nói lúc trước, con người tôi ấy mà, cũng chỉ biết lấy người khác ra tìm trò vui như thế thôi.”
“Anh muốn tìm một sự việc nào đấy để khóa chặt sự chú ý của tôi vào đó, hòng thuận lợi hoàn thành sứ mệnh của mình.”
“Nếu đã khiến cậu nghĩ ngợi lung tung thì cho tôi xin lỗi.”
“Vậy anh nói xem, giờ tôi nên nghĩ theo chiều hướng nào?
“Theo kinh nghiệm của tôi, theo hướng nào cũng lệch lạc cả, giờ chỉ nên ngủ thôi.”
Sử Cường đã đi khỏi, sau khi cánh cửa đóng lại, chỉ một ngọn đèn nhỏ màu đỏ trên đầu giường là còn sáng, căn phòng trở nên tối om. Âm thanh nền là tiếng động cơ ù ù bây giờ mới nổi rõ, tràn lan khắp mọi nơi, tựa hồ bầu trời đêm vô tận chỉ cách gian phòng này có một bức vách đang ngâm nga vậy.
Sau đó, La Tập cảm thấy đây không phải là ảo giác, hình như thực sự có một phần trong âm thanh này đến từ nơi nào đó rất xa xôi bên ngoài. Anh tháo móc túi ngủ ra, bò dậy, đẩy mở tấm che ô cửa phía trên đầu giường. Phía ngoài, biển mây thấm đẫm ánh trăng, trắng bạc một mảng. La Tập nhanh chóng nhận ra, bên trên biển mây, vẫn còn thứ gì đó cũng đang tỏa ra ánh bạc, đó là bốn đường thẳng tắp, trông cực kỳ nổi bật trên nền trời đêm. Chúng đang vươn dài với tốc độ ngang bằng vận tốc máy bay chở anh, phần đuôi nhạt dần đến khi tan vào màn đêm, trông như bốn thanh kiếm bạc đang bay phía trên biển mây. La Tập lại nhìn phần đầu bốn tia sáng bạc ấy, phát hiện bốn vật thể lấp lóa ánh kim loại, vệt màu bạc chính là do chúng tuôn ra… đó là bốn chiếc máy bay tiêm kích, có thể tưởng tượng, phía bên kia máy bay này cũng có bốn chiếc nữa.
La Tập đóng tấm che lại, chui vào túi ngủ, nhắm chặt hai mắt, cố gắng thả lỏng tinh thần, không phải muốn ngủ, mà là tìm cách tỉnh lại khỏi cơn mộng này.
Đêm khuya, buổi họp công tác của không gian quân vẫn đang tiếp diễn. Chương Bắc Hải đẩy cuốn sổ công tác và tập hồ sơ trên mặt bàn ra, nhổm người đứng dậy, đảo mắt quan sát một lượt các sĩ quan đã lộ vẻ mệt mỏi trong hội trường, đoạn quay sang phía Thường Vĩ Tư.
“Thủ trưởng, trước khi báo cáo công tác, tôi muốn trình bày ý kiến của mình một chút. Tôi cho rằng lãnh đạo quân chủng vẫn chưa coi trọng đúng mức công tác chính trị tư tưởng đối với quân nhân, ví dụ như trong buổi họp này, trong sáu cơ quan đã thành lập, cơ quan chính trị được xếp báo cáo công tác sau cùng.”
“Ý kiến này tôi tiếp thu.” Thường Vĩ Tư gật đầu, “Chính ủy quân chủng vẫn chưa nhậm chức, tôi phải kiêm nhiệm quản lý cả hai mặt chính trị và công tác, hiện giờ, các công việc đều vừa mới triển khai, về phương diện này quả thực khó mà chú ý nhiều, công việc chủ yếu vẫn phải nhờ các đồng chí - những người trực tiếp phụ trách.”
“Thủ trưởng, tôi cho rằng tình trạng này rất nguy hiểm.” Câu nói này thu hút sự chú ý của mấy vị sĩ quan khác, Chương Bắc Hải nói tiếp, “Tôi nói hơi thẳng, mong thủ trưởng bỏ quá cho, một là vì đã họp cả ngày trời, giờ mọi người đều đã mệt, không nói vậy thì chẳng ai nghe cả.” Có mấy người bật cười lên, những người dự họp khác vẫn chìm trong cảm giác mệt mỏi. “Quan trọng hơn là, giờ trong lòng tôi quả thực rất sốt ruột. Trận chiến mà chúng ta đang phải đối mặt đây, sự chênh lệch về lực lượng giữa ta và địch là lớn chưa từng có trong lịch sử chiến tranh của loài người, bởi vậy, tôi cho rằng, trong một khoảng thời gian tương đối dài, nguy cơ lớn nhất đe dọa không gian quân chính là chủ nghĩa thất bại. Nguy cơ này có nhấn mạnh đến đâu cũng chưa đủ, hậu quả gây ra nếu chủ nghĩa thất bại lan tràn, tuyệt đối không chỉ dừng ở lòng quân không ổn định, mà có thể sẽ dẫn đến sụp đổ toàn diện lực lượng vũ trang không gian của chúng ta đó.”
“Đồng ý.” Thường Vĩ Tư lại gật đầu, “Chủ nghĩa thất bại là kẻ địch lớn nhất hiện nay, quân ủy cũng đã có nhận thức sâu sắc về điểm này, vì vậy công tác chính trị tư tưởng trong quân chủng phải gánh vác một sứ mệnh lớn lao, mà một khi đội ngũ cơ sở của không gian quân được hình thành, công tác sẽ càng thêm phức tạp, độ khó cũng lớn hơn bội phần.”
Chương Bắc Hải mở sổ công tác ra. “Tiếp theo tôi xin báo cáo công tác. Quân chủng không gian mới được thành lập, về phương diện công tác chính trị tư tưởng trong quân, công việc chủ yếu mà chúng ta đã làm là điều tra tìm hiểu tình trạng tư tưởng chung của các chỉ huy và chiến sĩ. Do trước mắt, số lượng cán bộ nhân viên của quân chủng mới còn tương đối ít, các cấp hành chính ít, cơ cấu đơn giản, nên việc điều tra chủ yếu thông qua tọa đàm và giao lưu cá nhân, đồng thời xây dựng diễn đàn tương ứng trên mạng nội bộ. Kết quả điều tra rất đáng lo ngại, tư tưởng thất bại chủ nghĩa đang tồn tại khá phổ biến trong quân nhân, vả lại còn có xu thế lan rộng nhanh chóng. Sợ địch như sợ hổ, thiếu lòng tin đối với tương lai cuộc chiến, đó là tâm thái của một số không ít các đồng chí.
“Nguồn gốc tư tưởng của chủ nghĩa thất bại, chủ yếu là sự sùng bái công nghệ một cách mù quáng, coi nhẹ hoặc bỏ qua tác dụng của tinh thần và tính tích cực chủ động của con người trong chiến tranh, đây cũng là do trào lưu tư tưởng dùng công nghệ để chiến thắng và lý thuyết suy tôn vũ khí mới xuất hiện mấy năm gần đây trong quân đội, hiện đang lan rộng và phát triển trong nội bộ không gian quân, trào lưu tư tưởng này thể hiện đặc biệt nổi bật ở các sĩ quan có học thức cao. Chủ nghĩa thất bại trong quân chủ yếu được biểu hiện dưới các hình thức sau đây:
“Một, coi sứ mệnh của mình trong không gian quân như một nghề nghiệp bình thường, trong công việc tuy có tận tâm tận sức, nghiêm túc chịu trách nhiệm, nhưng thiếu lòng nhiệt tình và cảm giác sứ mệnh, nghi ngờ ý nghĩa tối hậu của công việc mình đang làm.
“Hai, tiêu cực chờ đợi, cho rằng thắng bại của cuộc chiến tranh này là do các kỹ sư và nhà khoa học quyết định, rằng trước khi các nghiên cứu cơ sở và nghiên cứu công nghệ mấu chốt có được đột phá quan trọng, quân chủng không gian chỉ là lâu đài trên cát, vì vậy không nắm rõ được trọng điểm công việc trước mắt, thỏa mẫn với các công tác mang tính sự vụ trong việc xây dựng quân chủng, thiếu sự sáng tạo.
“Ba, có ảo tưởng không thực tế, yêu cầu được áp dụng công nghệ ngủ đông cho mình để vượt qua bốn thế kỷ, trực tiếp tham gia vào trận quyết chiến cuối cùng. Trước mắt, đã có mấy đồng chí trẻ bày tỏ nguyện vọng này, có người đã chính thức đệ đơn. Nhìn bề ngoài, đây là tâm thái tích cực khao khát lao lên tuyến đầu cuộc chiến, nhưng thực chất lại là một biểu hiện khác của chủ nghĩa thất bại, thiếu lòng tin vào thắng lợi, ngờ vực ý nghĩa của các công tác trong hiện tại, bởi vậy mà danh dự quân nhân liền trở thành cột trụ duy nhất cho công việc và cuộc đời họ.
“Bốn, trái ngược với biểu hiện trên, là nảy sinh ngờ vực cả với danh dự người lính, cho rằng chuẩn mực đạo đức truyền thống của quân đội đã không còn thích hợp với cuộc chiến này nữa, chiến đấu đến cùng là vô nghĩa, cho rằng tiền đề để có danh dự người lính là phải có người chứng kiến, mà một khi trận chiến này thất bại, trong vũ trụ sẽ không còn nhân loại nữa, vậy thì bản thân danh dự ấy cũng mất đi ý nghĩa rồi. Tuy rằng chỉ một số ít người có suy nghĩ này, nhưng tư tưởng phủ nhận sạch trơn giá trị tối hậu của lực lượng vũ trang không gian này là vô cùng có hại.”
Nói tới đây, Chương Bắc Hải đưa mắt nhìn quanh hội trường, nhận ra những lời này đã thu hút được chú ý của một vài người, nhưng vẫn không quét sạch được bầu không khí mệt mỏi bao trùm cả gian phòng. Tuy vậy, anh có lòng tin những lời tiếp theo sẽ thay đổi tình trạng này.
“Sau đây, tôi muốn lấy một ví dụ cụ thể, ở đồng chí này, chủ nghĩa thất bại có biểu hiện rất điển hình, tôi muốn nói đến thượng tá Ngô Nhạc.” Chương Bắc Hải đưa tay chỉ về phía Ngô Nhạc ở phía đối diện bàn họp.
Sự mệt mỏi trong hội trường lập tức bị quét bay, tất cả những người có mặt đều kích động, họ căng thẳng nhìn Chương Bắc Hải, rồi lại nhìn Ngô Nhạc, Ngô Nhạc tỏ ra rất bình tĩnh, nhìn Chương Bắc Hải với ánh mắt tĩnh lặng.
“Tôi và đồng chí Ngô Nhạc là cộng sự với nhau một thời gian dài trong hải quân, hiểu nhau rất rõ. Anh ấy rất say mê công nghệ, là một thuyền trưởng kiểu công nghệ, hoặc có thể nói là một thuyền trưởng kỹ sư cũng không ngoa. Đây vốn không phải là chuyện xấu, nhưng thật đáng tiếc, trong tư tưởng quân sự, anh ấy lại quá ỷ lại vào công nghệ. Tuy không nói rõ, nhưng trong tiềm thức anh ấy vẫn luôn cho rằng công nghệ tiên tiến là yếu tố chủ yếu, thậm chí duy nhất quyết định sức chiến đấu của quân đội, đồng thời coi nhẹ vai trò của yếu tố con người trong chiến tranh, đặc biệt là chưa nhận thức đầy đủ được ưu thế riêng có mà quân đội ta đã hình thành trong điều kiện lịch sử gian khổ. Khi biết được nguy cơ Tam Thể, anh ấy đã mất đi niềm tin với tương lai, sau khi gia nhập không gian quân, nỗi tuyệt vọng này lại càng lộ rõ hơn. Tư tưởng thất bại chủ nghĩa của đồng chí Ngô Nhạc đã nặng như vậy, thâm căn cố đế như vậy, chúng ta không còn hy vọng khiến anh ấy phấn chấn trở lại được nữa. Cần phải sớm thực hiện các biện pháp mạnh mẽ, có hiệu quả để kiềm chế sự phát triển của chủ nghĩa thất bại trong quân, vì vậy, tôi cho rằng đồng chí Ngô Nhạc đã không còn thích hợp để công tác trong quân chủng không gian nữa.”
Mọi người đều dồn ánh mắt về phía Ngô Nhạc, lúc này, gã đang nhìn quân hiệu không gian quân trên chiếc mũ đặt trên bàn họp, vẻ mặt vẫn rất bình tĩnh.
Trong quá trình phát biểu, Chương Bắc Hải từ đầu chí cuối đều không nhìn về phía Ngô Nhạc một lần nào. Anh nói tiếp: “Mong thủ trưởng, đồng chí Ngô Nhạc và mọi người hiểu cho, những lời này của tôi chỉ xuất phát từ nỗi lo lắng đối với tình trạng tư tưởng hiện tại của các chỉ huy và chiến sĩ, đương nhiên, cũng là muốn cùng đồng chí Ngô Nhạc trao đổi mặt đối mặt một cách công khai và thẳng thắn.”
Ngô Nhạc giơ tay xin được lên tiếng, sau khi Thường Vĩ Tư gật đầu, gã nói: “Những gì đồng chí Chương Bắc Hải nói về tình trạng tư tưởng của tôi đều chính xác, tôi thừa nhận kết luận của anh ấy: mình không còn thích hợp phục vụ trong không gian quân nữa, tôi xin được nghe theo sự sắp xếp của tổ chức.”
Bầu không khí trong hội trường bỗng trở nên căng thẳng, có mấy sĩ quan nhìn vào cuốn sổ công tác trước mặt Chương Bắc Hải, bắt đầu suy đoán xem trong đó còn có thông tin gì về người nào nữa không.
Một đại tá không quân đứng dậy nói: “Đồng chí Chương Bắc Hải, đây là buổi họp công tác bình thường, những vấn đề liên quan đến cá nhân như vậy, anh nên thông qua các kênh thông thường để phản ánh với tổ chức, công khai nói ở đây thế này có thích hợp không?”
Lời này của ông ta lập tức nhận được sự phụ họa của đa số sĩ quan.
Chương Bắc Hải nói: “Tôi biết, những phát ngôn vừa rồi của tôi trái với nguyên tắc của tổ chức, bản thân tôi sẵn sàng chịu mọi trách nhiệm, nhưng tôi cho rằng, dù dùng phương thức nào, cũng phải khiến chúng ta ý thức được tính nghiêm trọng của tình hình trước mắt.”
Thường Vĩ Tư giơ tay lên ngăn không cho nhiều người khác lên tiếng: “Trước tiên, cần phải tán dương tinh thần trách nhiệm và ý thức cảnh giác trước nguy cơ mà đồng chí Chương Bắc Hải thể hiện trong công tác. Sự tồn tại của chủ nghĩa thất bại trong quân đội của chúng ta là sự thực, chúng ta cần phải đối diện với nó một cách lý trí, chỉ cần sự chênh lệch một trời một vực về công nghệ giữa quân ta và quân địch vẫn còn tồn tại, thì chủ nghĩa thất bại sẽ không biến mất, chỉ dựa vào phương pháp làm việc đơn giản thì không thể giải quyết vấn đề được. Đây là công việc dài hơi và tỉ mỉ, cần phải trao đổi và giao lưu nhiều hơn nữa. Ngoài ra, tôi cũng đồng ý với ý kiến của một đồng chí vừa đưa ra: các vấn đề liên quan đến tư tưởng cá nhân, chủ yếu nên giải quyết qua trao đổi và giao lưu. Nếu nhất thiết phải phản ánh, thì vẫn nên thông qua các kênh thông thường của tổ chức.”
Rất nhiều sĩ quan trong phòng họp đều thở phào nhẹ nhõm, ít nhất là trong cuộc họp này, Chương Bắc Hải sẽ không nhắc đến họ nữa.
La Tập tưởng tượng ra đêm tối vô tận phía trên tầng mây bên ngoài, khó nhọc sắp xếp lại các dòng suy nghĩ trong đầu. Bất giác, suy nghĩ của anh tập trung vào cô, tiếng nói nụ cười của cô xuất hiện trong bóng tối mịt mùng, một nỗi bi thương trước nay chưa từng có ào ạt tấn công vào tâm trí La Tập, tiếp theo cảm giác khinh bỉ chính mình ập đến, kiểu khinh ghét bản thân này trước đây đã nhiều lần xuất hiện, nhưng chưa bao giờ mãnh liệt như lần này. Tại sao đến giờ mày mới nghĩ đến cô ấy? Từ đầu, trước cái chết của cô ấy, ngoài kinh ngạc và sợ hãi ra, mày chỉ nghĩ đến cách thoát thân cho mình, cho tới giờ khi phát hiện toàn bộ sự việc này không liên can nhiều đến cô ấy, mày mới sẻ chút lòng thương hại còn quý hơn cả vàng kia cho cô ấy, mày là cái thứ gì vậy?
Nhưng chẳng còn cách nào khác, mình chính là loại người như vậy đấy.
Máy bay khẽ trồi lên hụp xuống trong dòng khí lưu, La Tập nằm trên giường mà có cảm giác như đang nằm trong nôi. Anh biết, hồi mới lọt lòng mình đã từng nằm nôi, hôm ấy, ở trong căn phòng dưới tầng hầm nhà bố mẹ, anh trông thấy một chiếc giường trẻ con phủ đầy bụi, bên dưới giường là khung gỗ cong có lắp chiếc nôi sơ sinh. Lúc này, anh nhắm nghiền mắt lại tưởng tượng ra hai con người đang khẽ khàng đưa nôi cho mình, đồng thời tự vấn: từ lúc mày ra khỏi cái nôi ấy đến bây giờ, ngoại trừ hai con người đó, mày đã thực sự quan tâm đến ai chưa? Trong tâm hồn mày đã bao giờ thực sự dành ra một vị trí nhỏ bé, nhưng vĩnh hằng cho một ai đó hay chưa?
Có rồi, đã từng có. Một lần, cõi lòng La Tập đã bị tình yêu hoàn toàn chiếm cứ, nhưng đó lại là một trải nghiệm không thể nào tưởng tượng nổi.
Mọi thứ đều do Bạch Dung khơi ra, cô là một tác giả viết tiểu thuyết dành cho giới trẻ, tuy chỉ nghiệp dư nhưng đã có một chút danh tiếng, ít nhất thì tiền nhuận bút cũng nhiều hơn tiền lương. Trong tất cả những người khác giới mà anh quen biết, thời gian qua lại với Bạch Dung là dài nhất, cuối cùng thậm chí đã suy tính đến hôn nhân. Tình cảm giữa hai người họ thuộc loại tương đối bình thường và hay gặp, không đến mức khắc cốt ghi tâm, nhưng họ cho rằng người kia thích hợp với mình, ở bên nhau rất thoải mái vui vẻ, mặc dù cả hai đều có cảm giác sợ hãi hôn nhân, nhưng họ cũng cho rằng, phải thử một lần mới gọi là có trách nhiệm.
Theo yêu cầu của Bạch Dung, La Tập đã đọc hết tất cả tác phẩm của cô. Tuy rằng không thể nói là thưởng thức, nhưng anh thấy cũng không đến nỗi hành hạ người đọc như các tiểu thuyết cùng loại mà anh từng liếc qua mấy lần. Văn phong của Bạch Dung rất hay, trong nét thanh lệ lại có một sự giản dị và chín chắn mà những tác giả nữ giống như cô không có được. Nhưng nội dung những tiểu thuyết đó không tương xứng với giọng văn, đọc chúng, La Tập cảm tưởng như đang nhìn những giọt sương trong lùm cỏ, đơn thuần và trong veo, chỉ nhờ phản xạ và khúc xạ ánh sáng rực rỡ xung quanh mới thể hiện được cá tính của mình, chúng lăn qua lăn lại trên lá cỏ, khi đụng phải nhau thì hòa làm một, rồi lại tách ra khi không may rơi xuống, Mặt trời lên, chỉ nháy mắt những hạt sương ấy sẽ biến mất. Mỗi lần đọc hết một cuốn sách của Bạch Dung, ngoài ấn tượng đối với giọng văn đẹp đẽ của cô, trong đầu La Tập chỉ còn lại một câu hỏi: đám người mỗi ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ yêu đương này sống bằng cái gì nhỉ?
“Em thật sự tin trong đời thực có kiểu tình yêu mà em viết ra đấy hả?” Có một lần, La Tập hỏi.
“Có chứ.”
“Em từng trông thấy, hay là đã từng gặp?”
Bạch Dung ôm cổ La Tập, ra vẻ thần bí nói vào tai anh: “Dù sao cũng là có, em nói cho anh biết, có đấy!”
Có lần, La Tập đưa ra ý kiến với tiểu thuyết mà Bạch Dung đang viết, thậm chí còn tự mình giúp cô sửa lại.
“Hình như anh còn có tài viết văn hơn cả em ấy, anh không sửa giúp em tình tiết, mà sửa nhân vật, sửa nhân vật là khó nhất đấy, hơn nữa mỗi lần chỉnh sửa, anh đều như ‘vẽ rồng điểm mắt’ cho những hình tượng đó vậy, khả năng sáng tạo hình tượng văn học của anh thuộc loại hàng đầu đó.”
“Đùa cái gì chứ, anh xuất thân ngành thiên văn học đó.”
“Vương Tiểu Ba[19] cũng học toán vậy.”
Sinh nhật Bạch Dung năm ngoái, cô yêu cầu La Tập một món quà sinh nhật.
“Anh có thể viết cho em một cuốn tiểu thuyết được không?”
“Một cuốn?”
“Ừ… Ít nhất năm mươi nghìn chữ nhé.”
“Lấy em làm nhân vật chính hả?”
“Không, em từng xem một triển lãm tranh rất thú vị, toàn là tác phẩm của họa sĩ nam, vẽ người phụ nữ đẹp nhất trong tưởng tượng của họ. Nhân vật chính cuốn tiểu thuyết này của anh chính là cô gái đẹp nhất trong lòng anh, anh cần phải hoàn toàn thoát ly hiện thực để sáng tạo ra một thiên sứ như thế, điểm duy nhất có thể dựa vào chính là tưởng tượng hoàn mỹ nhất của anh về phái nữ.”
Cho đến tận bây giờ, La Tập cũng không biết yêu cầu này của Bạch Dung rốt cuộc có ý đồ gì, có lẽ chính bản thân cô cũng không biết, giờ nhớ lại, vẻ mặt cô lúc ấy trông hơi ranh mãnh, lại có nét gì đó giống như do dự.
Vậy là, La Tập bắt đầu cấu tứ ra nhân vật ấy. Trước tiên, anh tưởng tượng ra dung mạo của cô, sau đó thiết kế trang phục cho cô, kế đó tưởng tượng ra môi trường nơi cô sống và những người ở xung quanh cô, cuối cùng thì đặt cô vào trong môi trường ấy, để cô hoạt động và nói năng. Để cô sống trong đó. Rất nhanh, việc này trở nên nhạt nhẽo vô vị, anh kể với Bạch Dung về khó khăn minh gặp phải.
“Cô ấy giống như một con rối, mỗi động tác, mỗi câu nói đều là tưởng tượng của anh, thiếu sức sống.”
Bạch Dung nói: “Phương pháp của anh không đúng, đó là anh đang làm văn chứ không phải sáng tạo ra hình tượng văn học. Phải biết là, hành vi của một nhân vật văn học trong mười phút, có thể là phản ánh những gì cô ấy trải qua trong mười năm. Anh đừng chỉ giới hạn trong tình tiết tiểu thuyết, phải tưởng tượng ra toàn bộ cuộc đời cô ấy, còn thứ viết thành câu chữ, chẳng qua chỉ là phần ngọn tảng băng chìm mà thôi.” Vậy là La Tập bắt tay làm theo lời Bạch Dung nói, vứt sạch những nội dung mình đã viết, tưởng tượng ra trọn vẹn cuộc đời nhân vật chính, tưởng tượng từng chi tiết trong cuộc đời cô. Anh tưởng tượng ra cô nằm trong vòng tay mẹ uống sữa, cái miệng mút mạnh, phát ra những tiếng chùn chụt thỏa mãn; tưởng tượng ra cô đang chậm rãi bước đi trong mưa, đột nhiên thu ô lại, nhấm nháp cảm giác tiếp xúc với từng sợi mưa mong manh; tưởng tượng cô đuổi theo một quả bóng màu đỏ lăn tròn trên mặt đất, mới chạy được một bước đã ngã nhào, nhìn theo quả bóng lăn xa dần mà khóc òa lên, hoàn toàn không ý thức được rằng vừa rồi mình đã sải chân bước bước đầu tiên trong đời; tưởng tượng ngày đầu tiên cô vào tiểu học, lẻ loi ngồi ở hàng thứ ba trong lớp học xa lạ, nhìn ra cửa ra vào và cửa sổ đều không thấy bố mẹ đâu nữa, đúng lúc sắp sửa khóc òa thì chợt nhận ra bàn bên cạnh là bạn học cùng trường mẫu giáo, liền vui sướng reo lên; tưởng tượng đêm đầu tiên ở trường đại học, cô nằm giường tầng trên trong ký túc xá, nhìn bóng cây mà ánh đèn đường hắt lên trần nhà… La Tập tưởng tượng ra từng món ăn mà cô ưa thích, tưởng tượng ra màu sắc và kiểu dáng từng bộ đồ trong tủ quần áo của cô, tưởng tượng ra món đồ trang trí nhỏ đeo vào điện thoại di động của cô, tưởng tượng cuốn sách cô đọc, những ca khúc trong máy MP4 của cô, những trang web cô hay vào, những bộ phim cô thích xem, nhưng chưa bao giờ tưởng tượng cô dùng đồ trang điểm gì, cô không cần đến đồ trang điểm… La Tập tựa như một người sáng tạo nằm bên ngoài thời gian, cùng lúc dệt nên cuộc đời cô ở những không gian thời gian khác nhau, dần dần, anh bắt đầu hứng thú với sự sáng tạo này, càng làm càng không biết mệt mỏi.
Một hôm trong thư viện, La Tập tưởng tượng cô đang đứng trước dãy giá sách đằng xa đọc sách, anh đã chọn cho cô bộ đồ mà anh thích nhất, chỉ để thân hình mảnh mai của cô thêm rõ nét trong ấn tượng của mình. Đột nhiên, cô ngẩng đầu lên khỏi cuốn sách, từ xa xa nhìn về phía anh, mỉm cười với anh.
La Tập lấy làm ngạc nhiên, mình đâu để cho cô ấy cười? Nhưng nụ cười ấy đã lưu lại trong ký ức, tựa như nước đọng ngấm trên băng, mãi mãi không thể xóa nhòa đi được.
Biến chuyển thật sự xảy ra vào đêm hôm sau. Tối hôm đó, gió tuyết mịt mùng, nhiệt độ giảm xuống đột ngột, trong ký túc xá ấm áp, La Tập nghe tiếng gió gầm thét cuồng nộ bên ngoài át hết mọi âm thanh khác của thành phố, những bông tuyết đập vào ô cửa kính nghe lạo xạo như cát, nhìn ra ngoài cũng chỉ thấy một vùng bụi tuyết mờ mịt. Lúc này, thành phố dường như không còn tồn tại nữa, nhà ký túc của giáo viên tựa như bị cô lập giữa cánh đồng tuyết mênh mông vô tận. La Tập nằm lại xuống giường, trước khi chìm vào mộng mị, đột nhiên một ý nghĩ thoáng qua trong đầu: thời tiết quỷ quái này, nếu cô ấy đang đi bên ngoài thì lạnh chừng nào nhỉ. Kế đó, anh lại tự an ủi: không sao, mày không để cô ấy ở bên ngoài thì cô ấy sẽ không ở bên ngoài. Nhưng lần này, anh lại tưởng tượng thất bại, cô vẫn bước đi trong gió tuyết ngoài kia, tựa như một khóm cỏ nhỏ có thể bị gió lạnh thổi bay bất cứ lúc nào. Cô mặc chiếc áo khoác màu trắng ấy, quấn khăn quàng cổ màu đỏ ấy, trong bụi tuyết tung bay chỉ loáng thoáng trông thấy chiếc khăn đỏ, tựa như ngọn lửa nhỏ đang bập bùng giãy giụa trong gió tuyết.
La Tập không sao ngủ được nữa, anh nhổm dậy, sau đó lại khoác áo ra chỗ xô pha ngồi, vốn định hút thuốc, nhưng chọt nhớ ra cô ghét mùi thuốc lá, anh bèn pha một cốc cà phê chầm chậm nhâm nhi. Anh phải đợi cô, đêm lạnh và gió tuyết bên ngoài làm tim anh cồn cào, đây là lần đầu tiên anh lo lắng cho một người như thế, nhớ nhung một người như thế.
Đúng vào khoảnh khắc nỗi nhớ trong anh bùng cháy lên như ngọn lửa, cô nhẹ nhàng bước vào, thân hình nhỏ nhắn bao bọc trong lớp khí lạnh bên ngoài, trong lạnh lẽo lại có một luồng hơi thở của mùa xuân; hoa tuyết bám trên tóc mái cô nhanh chóng tan thành những hạt nước long lanh. Cô cởi khăn quàng màu đỏ, đưa hai tay lên miệng thổi phù phù. Anh nắm chặt lấy đôi bàn tay mảnh khảnh đó, sưởi ấm bàn tay mềm mại lạnh băng, cô xúc động nhìn anh, nói ra lời hỏi han mà anh vốn định hỏi cô trước:
“Anh vẫn khỏe chứ?”
Anh chỉ biết vụng về gật đầu, giúp cô cởi áo khoác. “Nhanh vào sưởi ấm đi.” Anh đỡ đôi vai mềm mại của cô, dẫn cô đến trước lò sưởi.
“Ấm thật đấy, tốt quá…” Cô ngồi trên tấm thảm trước lò sưởi ầm tường, ngắm nhìn ngọn lửa, mỉm cười hạnh phúc.
…
Mẹ nó chứ, mình bị làm sao vậy? La Tập đứng giữa phòng ký túc xá trống không, tự nói với chính mình. Thực ra, tùy tiện viết bừa năm mươi nghìn chữ, in ra giấy chất lượng cao, dùng photoshop thiết kế một cái bìa ngoài và bìa trong thật hoa lệ, rồi đóng lại bằng máy đóng sách chuyên dụng, cuối cùng mang đến chỗ gói quà ở siêu thị gói lại, đến hôm sinh nhật tặng cho Bạch Dung chẳng phải là xong xuôi rồi sao? Cần gì phải đắm chìm vào sâu đến mức ấy? Lúc này, anh kinh ngạc nhận ra, hai mắt mình đã ướt rượt. Ngay sau đó, anh lại thêm một phen kinh ngạc: lò sưởi âm tường? Mình có lò sưởi âm tường ở chỗ quái quỷ nào vậy? Sao mình lại nghĩ đến lò sưởi âm tường? Nhưng rồi La Tập nhanh chóng hiểu ra, thứ anh muốn không phải là lò sưởi âm tường, mà là ánh lửa trong lò sưởi, người con gái trong ánh lửa ấy là đẹp nhất. Anh hồi tưởng lại cảnh cô ngồi trước lò sưởi lúc nãy…
À không! Đừng nghĩ đến cô ấy nữa, thế này sẽ dẫn đến tai họa mất! Ngủ đi thôi!
Ngoài dự đoán của La Tập, đêm đó anh không mơ thấy cô, anh ngủ rất ngon, cảm giác chiếc giường đơn như một con thuyền nhỏ bồng bềnh trên mặt biển màu hoa hồng. Sáng sớm hôm sau tỉnh dậy, anh thấy như mình vừa có một cuộc sống mới, cảm thấy mình tựa như ngọn nến phủ bụi nhiều năm, tối qua đã được đốm lửa nhỏ trong gió tuyết kia thắp lên. Anh hưng phấn đi trên con đường dẫn tới khu lớp học, bầu trời xám xịt sau trận tuyết, nhưng anh lại thấy còn trong xanh hơn cả lúc trời quang không một gợn mây; hai hàng bạch dương bên đường không có chút tuyết đọng nào, trụi lông lốc chỉ thẳng lên bầu không giá lạnh, nhưng trong cảm giác của anh, chúng còn tràn trề sức sống hơn cả giữa tiết xuân.
La Tập bước lên bục giảng, đúng như anh mong muốn, cô lại xuất hiện, ngồi ở hàng cuối giảng đường bậc thang, cả khu vực ấy trống trơn chỉ có mình cô, cách những sinh viên ngồi trước một khoảng khá xa. Chiếc áo khoác màu trắng tinh khiết và khăn quàng cổ màu đỏ đặt trên chỗ ngồi bên cạnh, cô chỉ mặc áo len cổ lọ màu vàng nhạt. Cô không cúi đầu lật giở giáo trình giống các sinh viên khác, mà lại hướng về phía anh nở nụ cười tựa như vầng dương mới mọc sau trận tuyết.
La Tập trở nên căng thẳng, nhịp tim đập nhanh, buộc phải đi ra ngoài qua cửa ngách của giảng đường, đứng giữa bầu không khí lạnh ngoài ban công để trấn tĩnh lại. Anh chỉ mới gặp phải trạng thái này đúng hai lần bảo vệ luận án tiến sĩ. Kế đó, La Tập gắng hết sức thể hiện mình lúc giảng bài, viện dẫn kinh sử, lời giảng hùng hồn, khiến cho giảng đường rộ lên tiếng vỗ tay hiếm có. Cô không vỗ tay hùa theo, mà chỉ mỉm cười nhìn anh gật đầu.
Hết giờ học, La Tập và cô sánh vai đi trên con đường phủ bóng cây mà chẳng có bóng cây kia, anh có thể nghe thấy tiếng lạo xạo khi đôi giày màu xanh của cô giẫm lên nền tuyết. Hai hàng bạch dương mùa đông lặng lẽ lắng nghe cuộc chuyện trò trong lòng của họ.
“Anh giảng bài hay quá, nhưng em chẳng hiểu mấy.”
“Em không học ngành này đúng không?”
“Ừm, không.”
“Em hay đi nghe bài giảng của ngành khác thế này à?”
“Chỉ mấy hôm nay thôi, thường tùy ý vào một giảng đường nào đấy ngồi một lúc. Em vừa tốt nghiệp, sắp phải rời khỏi nơi này rồi, đột nhiên cảm thấy nơi này thật tốt, em rất sợ bên ngoài…”
Ba bốn ngày sau đó, La Tập ngày nào cũng dành hầu hết thời gian ở bên cô. Trong mắt người khác, thời gian anh ở một mình lại nhiều hơn, thích đi bộ một mình, chuyện này cũng dễ giải thích với Bạch Dung: anh đang cấu tứ món quà sinh nhật cho cô, mà thực sự, đấy cũng hoàn toàn là sự thực.
Đêm giao thừa, La Tập mua một chai rượu vang mà trước nay anh chưa từng uống, sau khi về ký túc xá, anh tắt đèn điện đi, châm lên mấy ngọn nến trên bàn uống trà trước ghế xô pha, khi ba ngọn nến đều sáng lên, cô liền lặng lẽ xuất hiện, ngồi bên cạnh anh.
“Ồ, anh xem…” Cô chỉ vào chai rượu vang, vui như trẻ con.
“Sao hả?”
“Anh sang bên này nhìn đi, ngọn nến chiếu từ phía đối diện lại, trông rượu này đẹp thật.”
Rượu vang thấm đẫm ánh nến, hiện lên một thứ sắc đỏ sậm long lanh chỉ có ở trong cảnh mộng.
“Trông như vầng Mặt trời đã chết.” La Tập nói.
“Đừng nghĩ thế mà,” cô lại lộ ra vẻ chân thành, tha thiết khiến La Tập phải rung động, “em cảm thấy nó giống như là… như là đôi mắt của ráng chiều vậy.”
“Sao em không nói là đôi mắt của ban mai?”
“Em thích ráng chiều hơn.”
“Tại sao?”
“Khi ráng chiều biến mất có thể ngắm sao, sau khi bình minh tan biến, chỉ còn lại…”
“Chỉ còn lại hiện thực trần trụi dưới ánh mặt trời.”
“Đúng, đúng vậy.”
…
Họ nói rất nhiều chuyện, chuyện gì cũng nói, những chủ đề vụn vặt nhất họ cũng có tiếng nói chung, cho đến khi La Tập uống hết cả chai “đôi mắt của ráng chiều” kia mới thôi.
La Tập váng vất nằm trên giường, nhìn mấy ngọn nến sắp cháy hết trên bàn trà, cô gái trong ánh nến đã biến mất, nhưng La Tập không lo lắng, chỉ cần anh muốn, cô sẽ xuất hiện bất cứ lúc nào.
Đúng lúc này, tiếng gõ cửa vang lên, La Tập biết đó là tiếng gõ cửa trong hiện thực, không liên can gì đến cô, bèn mặc kệ. Cánh cửa bị đẩy bật ra, người đi vào là Bạch Dung. Cô bật đèn điện lên, như thể vừa mở tung thế giới hiện thực xám xịt. Cô nhìn cái bàn trà cắm nến, rồi ngồi xuống đầu giường La Tập, khẽ thở dài: “Vẫn còn đỡ.”
“Đỡ cái gì?” La Tập giơ tay lên chắn ánh đèn điện chói mắt.
“Anh vẫn chưa nhập tâm đến mức chuẩn bị cho cô ấy một ly rượu nữa.”
La Tập che mắt, không nói gì, Bạch Dung gạt tay anh ra, nhìn anh chăm chú, hỏi: “Cô ấy sống rồi, đúng không?”
La Tập gật đầu, trở mình ngồi dậy: “Dung, lúc trước anh luôn cho rằng, nhân vật trong tiểu thuyết bị tác giả điều khiển, tác giả khiến cô ấy như thế nào thì cô ấy sẽ như thế đó, tác giả bảo cô ấy làm gì thì cô ấy sẽ làm điều đó, giống như Thượng Đế với chúng ta vậy.”
“Sai rồi!” Bạch Dung cũng đứng dậy, đi qua đi lại trong phòng. “Giờ anh đã biết mình sai rồi, đây chính là sự khác nhau giữa một tay viết bình thường và một nhà văn. Quá trình tạo ra hình tượng văn học khi lên đến trạng thái tối cao, trong tâm tưởng của nhà văn, nhân vật trong tiểu thuyết đã có sự sống, nhà văn không thể nào khống chế được nhân vật ấy, thậm chí còn không thể dự đoán được hành vi tiếp theo của họ, mà chỉ biết tò mò đi theo, quan sát những phần nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống của họ, giống như kẻ cuồng nhìn trộm, rồi ghi chép lại, vậy là trở thành kinh điển.”
“Thì ra sáng tác văn học là một công việc biến thái như thế.”
“Ít nhất thì từ Shakespeare đến Balzac đến Tolstoy đều là như vậy, những hình tượng kinh điển mà họ sáng tạo cũng được sinh ra từ tử cung tư tưởng của họ như thế đấy. Nhưng ngày nay nhà văn đã mất đi khả năng sáng tạo này, thứ sinh ra trong tâm tưởng họ toàn là những mảnh vỡ tàn khuyết và quái thai, sinh mệnh ngắn ngủi của chúng chỉ biểu hiện qua những cơn co giật tối nghĩa khó hiểu, bọn họ đem những mảnh vỡ đó gom lại, bỏ vào trong túi, dán lên những cái nhãn kiểu như hậu hiện đại này, giải cấu trúc này, tượng trưng này, phi lý này… rồi bán ra ngoài.”
“Ý em là, anh đã trở thành nhà văn kinh điển?”
“Cái đó thì không phải, tâm trí anh chỉ hoài thai ra một hình tượng, mà còn là loại dễ nhất; còn những nhà văn kinh điển kia, trong tâm trí họ có thể sinh ra hàng trăm hàng nghìn hình tượng như vậy, để hình thành nên một bức tranh thời đại, nhưng đó là việc chỉ có siêu nhân mới làm được thôi. Có điều, anh làm được đến mức này cũng không dễ dàng gì rồi, em vốn tưởng là anh không làm được cơ.”
“Em đã làm được chưa?”
“Cũng chỉ có một lần.” Bạch Dung trả lời ngắn gọn, sau đó mau chóng chuyển chủ đề câu chuyện, ôm lấy cổ La Tập nói: “Thôi bỏ đi, em không cần món quà sinh nhật đó nữa, anh cũng quay lại với cuộc sống bình thường đi, được không?”
“Nếu tất cả những thứ này cứ tiếp diễn thì sẽ như thế nào?
Bạch Dung nhìn chằm chằm vào La Tập săm soi mấy giây, đoạn buông anh ra, mỉm cười lắc đầu: “Em biết là muộn rồi mà.” Nói xong, cô liền cầm túi xách để trên giường bỏ đi.
Lúc này, anh nghe thấy bên ngoài có người đang đếm ngược “bốn, ba, hai, một”, kế đó, bên phía khu giảng đường bấy giờ vẫn văng vẳng tiếng nhạc chợt bùng lên một trận cười vui vẻ, trên sân vận động có người đang đốt pháo hoa, liếc nhìn đồng hồ, La Tập biết giây cuối cùng của năm ấy vừa mới trôi qua.
“Ngày mai được nghỉ, chúng mình đi chơi không?” La Tập nằm ngửa trên giường hỏi, anh biết cô đã xuất hiện bên cái lò sưởi âm tường không hề tồn tại kia.
“Không dẫn chị ấy đi cùng à?” Cô chỉ vào cánh cửa vẫn đang mở hé, ngây thơ hỏi.
“Không, chỉ hai chúng ta thôi. Em muốn đi đầu?”
Cô thẫn thờ nhìn ngọn lửa nhảy nhót trong lò sưởi, nói: “Đi đâu cũng chẳng quan trọng, em thấy lúc đi ở trên đường, cảm giác rất thích.”
“Vậy thì chúng ta cứ đi loăng quăng, đi tới đâu thì tới đó nhé?”
“Hay lắm.”
Sáng sớm hôm sau, La Tập lái chiếc Accord của anh ra khỏi sân trường, đi về phía Tây, anh chọn hướng này đơn giản chỉ vì không muốn phiền phức đi xuyên qua cả thành phố. Lần đầu tiên trong đời, anh cảm nhận được sự tự do tuyệt diệu của chuyến đi không có điểm đích. Khi nhà cửa ngoài cửa xe dần thưa thớt, đồng ruộng bắt đầu xuất hiện, La Tập mở hé cửa sổ xe, để gió lạnh mùa đông len vào một chút, anh cảm thấy mái tóc dài của cô bị gió thổi bay lên, từng sợi từng sợi cọ vào má bên phải mình, thấy ngưa ngứa.
“Nhìn kìa, bên kia có núi…” Cô chỉ tay về phía xa xa.
“Hôm nay tầm nhìn xa rất tốt, đấy là núi Thái Hàng, chạy song song với đường quốc lộ này, sau đó vòng ra mé này, chặn ở hướng Tây, lúc đó đường chạy thẳng vào trong núi, anh nghĩ bây giờ chúng ta đang ở…”
“Không, đừng nói là ở đâu! Một khi biết mình đang ở đâu, thế giới liền trở nên nhỏ như một tấm bản đồ mất rồi; không biết mình ở đâu, cảm giác thế giới này mới thật rộng lớn ấy.”
“Được thôi, vậy chúng ta sẽ cố gắng lạc đường nhé.” La Tập nói, rẽ vào một đường nhánh vắng xe hơn, đi chưa được bao xa thì lại rẽ bừa vào một con đường khác. Lúc này, hai bên đường chỉ còn cánh đồng mênh mông trải dài ngút tầm mắt, có những mảng tuyết đọng lớn, diện tích khu vực có tuyết và không có tuyết gần như tương đương nhau, chẳng thấy chút màu xanh nào, nhưng ánh mặt trời rất rực rỡ.
“Cảnh sắc miền Bắc chính cống đấy.” La Tập nói.
“Lần đầu tiên em cảm thấy, mặt đất không có màu xanh cũng có thể rất đẹp.”
“Màu xanh đang vùi trong đồng ruộng kia kìa, đến lúc đầu xuân, trời vẫn còn rất lạnh, tiểu mạch sẽ nảy mầm, khi ấy ở đây sẽ thành một vùng xanh mướt, em thử tưởng tượng mà xem, cả một vùng rộng lớn thế này…”
“Không cần màu xanh nữa, giờ đã đẹp lắm rồi, thật đấy, anh nhìn xem, mặt đất có giống một con bò sữa lớn đang nằm ngủ dưới ánh mặt trời không?”
“Gì hả?” La Tập ngạc nhiên nhìn cô, rồi lại nhìn mặt đất lốm đốm những khoang tuyết đọng ở hai bên xe, “Ồ, đúng là hơi giống… anh bảo này, em thích nhất là mùa nào?”
“Mùa thu.” “Sao không phải là mùa xuân?”
“Mùa xuân… quá nhiều cảm giác chen chúc dồn dập, mệt mỏi lắm, mùa thu thích biết bao nhiêu.”
La Tập dừng xe, cùng cô bước tới mép ruộng, ngắm nhìn mấy con chim sẻ đang kiếm ăn dưới đất, đến khi họ bước lại thật gần chúng mới bay lên ngọn cây ở phía xa xa. Kế đó, họ đi xuống một lòng sông gần như đã cạn khô, chỉ còn một dòng chảy nhỏ ở chính giữa lòng sông, nhưng xét cho cùng vẫn là một con sông phương Bắc, họ nhặt những hòn sỏi lạnh như băng trong lòng sông ném vào dòng nước, nhìn thứ nước màu vàng đục bắn từ những hố bị ném thủng hiện ra trên lớp băng mỏng. Họ ghé qua một thị trấn nhỏ, loanh quanh một lúc lâu trong chợ phiên, cô ngồi xổm trước một sạp bán cá vàng không đi nữa, dưới ánh mặt trời, những con cá vàng trong bể cá thủy tinh hình tròn trông như đốm lửa đang chuyển động, La Tập mua cho cô hai con, đựng trong túi nylon đầy nước đặt ở ghế sau xe. Họ đi vào một ngôi làng, nhưng không có cảm giác tìm về làng quê lắm, nhà cửa đều rất mới, có mấy nhà trước cửa còn có ô tô đậu, đường chính trải xi măng rộng rãi, quần áo mọi người cũng không khác gì trên thành phố, có mấy cô gái còn ăn mặc rất thời thượng, đến cả lũ chó trên đường cũng đều là loại ký sinh trùng lông dài chân ngắn, hệt như trong thành phố. Nhưng sân khấu kịch lớn ở đầu làng lại rất thú vị, họ lấy làm ngạc nhiên sao một ngôi làng nhỏ thế này lại dựng sân khấu kịch cao như thế. Sân khấu trống không, La Tập tốn khá nhiều công sức mới leo lên được, đứng đối diện với khán giả duy nhất ở bên dưới là cô, hát bài “Cây thùy dương”. Buổi trưa, họ ăn cơm ở một thị trấn nhỏ khác, mùi vị thức ăn ở đây cũng không khác trong thành phố cho lắm, chỉ là phần ăn nhiều gần gấp đôi. Sau bữa cơm, trên một chiếc ghế băng phía trước tòa nhà ủy ban nhân dân thị trấn, họ ngồi gật gà gật gù trong ánh nắng ấm áp một lát, rồi lại lái xe đi lang thang.
Bất giác, họ phát hiện con đường đang chạy vào trong núi, hình dạng núi ở đây chẳng có gì đặc biệt, không có khe sâu vực thẳm, thảm thực vật cũng cằn cỗi, chỉ có cỏ khô xác mọc ra trong những kẽ đá màu xám và những bụi cây gai. Mấy trăm triệu năm trước, những ngọn núi đứng đến mệt nhoài này đã nằm xuống, lặng lẽ đắm chìm vào trong ánh mặt trời và thời gian, đồng thời khiến cho ai đi bên trong cũng cảm thấy mình trở nên lờ đờ uể oải hệt như ngọn núi này vậy. “Núi ở đây giống như mấy ông bà già ngồi ở đầu làng phơi nắng ấy.” Cô nói, nhưng họ đi qua mấy ngôi làng rồi mà không gặp ông bà già nào, chẳng có ai thong dong và nhàn nhã hơn ngọn núi này cả. Không chỉ một lần, chiếc xe bị chặn lại khi có đàn cừu đi ngang qua đường cái, bên đường cũng đã xuất hiện ngôi làng giống như họ tưởng tượng… Có nhà hầm, và cây hồng, cây hạch đào, trên nóc những ngôi nhà bằng đá chất đống lõi ngô đã tách hạt, cả lũ chó cũng vừa to vừa hung dữ.
Ở trong vùng núi đó, họ đi rồi lại dừng, dừng rồi lại đi, bất giác đã mất cả buổi chiều, mặt trời ngả về Tây, con đường cái sớm đã ẩn vào bóng tối. La Tập lái xe theo con đường đất gập ghềnh leo lên một triền núi cao vẫn còn ánh tịch dương rọi chiếu, họ quyết định coi đây là điểm cuối chuyến du hành, sau khi ngắm Mặt trời lặn xong sẽ trở về. Mái tóc dài của cô khẽ tung bay trong gió chiều, tựa hồ đang ra sức tóm lấy tia sáng rực rỡ cuối cùng của vầng dương.
Xe vừa trở lại đường quốc lộ thì phải dừng, trục sau hỏng, anh đành phải gọi cho dịch vụ cứu hộ. La Tập đợi một lúc lâu, mới hỏi thăm được tài xế một chiếc xe tải nhỏ ngang qua xem đây là nơi nào, may là chỗ này còn có sóng điện thoại di động, người ở trạm cứu hộ nghe anh nói địa danh xong, bảo rằng xe cứu hộ ít nhất phải bốn năm tiếng đồng hồ nữa mới đến được.
Mặt trời lặn, nhiệt độ vùng núi nhanh chóng giảm xuống, khi xung quanh bắt đầu mờ nhạt trong sắc trời nhá nhem, La Tập gom một ôm thân cây ngô ở ruộng gần đó lại, đốt lên đống lửa.
“Ấm thật đấy, thích quá!” Cô nhìn đống lửa, vui vẻ như lúc ở trước lò sưởi âm tường đêm hôm nọ. La Tập lại một lần nữa ngây ngẩn trước dáng vẻ của cô trong ánh lửa, anh bị nhấn chìm trong một thứ cảm xúc dịu dàng bao lâu nay chưa từng có, cảm giác mình cũng giống như đống lửa kia, sống chỉ với một mục đích duy nhất là đem lại hơi ấm cho cô.
“Ở đây có sói không nhỉ?” Cô nhìn bóng tối càng lúc càng dày đặc xung quanh, hỏi.
“Không có đâu, đây là vùng Hoa Bắc, trong nội địa, nhìn hoang lương thế này thôi chứ thực ra là một trong những khu vực mật độ dân số cao nhất đấy, em nhìn con đường này mà xem, cứ bình quân hai phút lại có một chiếc xe chạy qua.”
“Em hy vọng anh sẽ nói là có sói đấy.” Cô nhoẻn miệng cười ngọt ngào, nhìn những tia lửa bắn lên phía các vì sao trên bầu trời đêm.
“Được thôi, có sói đấy, nhưng có anh ở đây rồi.”
Sau đó, họ không nói chuyện gì thêm nữa, chỉ lặng lẽ ngồi bên đống lửa, thỉnh thoảng lại bỏ thêm một ôm thân ngô vào để giữ cho lửa cháy tiếp.
Không biết bao lâu sau, điện thoại La Tập đổ chuông, là Bạch Dung gọi tới.
“Ở bên cạnh cô ấy à?” Bạch Dung khẽ hỏi.
“Không, có một mình anh thôi.” La Tập vừa nói vừa ngẩng đầu lên, anh không nói dối. Đúng là anh đang ở một mình, bên một đống lửa ven đường quốc lộ trong núi Thái Hàng, xung quanh chỉ có đá núi lúc ẩn lúc hiện trong ánh lửa, trên đầu chỉ có bầu trời chi chít sao.
“Em biết anh chỉ có một mình, nhưng anh đang ở bên cô ấy.”
“… Ừ.” La Tập thấp giọng nói, nhìn sang bên cạnh. Cô đang cầm thân cây ngô bỏ vào đống lửa, nụ cười của cô cùng ngọn lửa vừa bốc lên soi sáng bừng không gian xung quanh.
“Giờ hẳn là anh đã tin, thứ tình yêu mà em viết trong tiểu thuyết có tồn tại đúng không?”
“Đúng, anh tin rồi.”
La Tập nói dứt bốn chữ đó, lập tức ý thức được khoảng cách giữa mình và Bạch Dung cũng xa xôi như hiện thực này vậy, họ trầm mặc một lúc lâu, trong lúc đó, những làn sóng điện mỏng mảnh vẫn xuyên qua rặng núi trập trùng trong đêm, duy trì mối liên hệ cuối cùng giữa hai người.
“Em cũng có một anh ấy như thế, phải không?” La Tập hỏi.
“Vâng, từ lâu lắm rồi.”
“Giờ anh ấy ở đâu?”
La Tập nghe thấy Bạch Dung cười khẽ một tiếng: “Còn có thể ở đâu được nữa?”
La Tập cũng bật cười: “Đúng vậy, còn có thể ở đâu được nữa…”
“Được rồi, ngủ sớm nhé, tạm biệt.” Bạch Dung nói dứt lời bèn dập máy, sợi dây mong manh vượt qua đêm đen thăm thẳm kia đã đứt lìa, hai người ở hai đầu sợi dây đều thoáng chút ngậm ngùi, song cũng chỉ có vậy mà thôi.
“Bên ngoài lạnh quá, vào xe ngủ một lúc được không?”
La Tập nói với cô.
Cô lắc đầu nhè nhẹ, “Em muốn ở đây với anh, anh thích nhìn em dưới ánh lửa, phải không?”
Nửa đêm, xe cứu hộ từ Thạch Gia Trang mới đến nơi, hai người thợ trông thấy La Tập ngồi bên đống lửa đều hết sức ngạc nhiên: “Anh à, anh giỏi chịu lạnh thật đấy, động cơ không bị hỏng, ngồi trong xe bật máy sưởi lên không phải ấm hơn hay sao?”
Sửa xe xong, La Tập lập tức chạy hết tốc lực trở về, lao ra khỏi vùng núi trong màn đêm, trở lại với đồng bằng mênh mông. Anh đến Thạch Gia Trang vào tờ mờ sáng, lúc về Bắc Kinh đã là mười giờ sáng rồi.
La Tập không về trường, mà lái xe đi thẳng đến khám bác sĩ tâm lý.
“Có lẽ anh cần điều chỉnh lại một chút, nhưng không phải chuyện to tát gì.” Nghe hết câu chuyện dài của La Tập, bác sĩ bảo.
“Không phải chuyện to tát?” La Tập trợn đôi mắt vằn đầy tia máu lên, “Tôi yêu điên cuồng một nhân vật hư cấu trong cuốn tiểu thuyết mà mình đang cấu tứ ra, sống cùng cô ấy, đi du lịch cùng cô ấy, thậm chí còn vì cô ấy mà chia tay với bạn gái thực sự của mình, anh còn bảo là không có chuyện gì to tát?”
Bác sĩ mỉm cười độ lượng.
“Anh biết không? Tôi đã trao tình yêu sâu đậm nhất của mình cho một ảo ảnh.”
“Có phải anh cho rằng, đối tượng mà người khác yêu đều thực sự tồn tại hay không?”
“Chuyện này còn phải nghi vấn sao?”
“Không, đối tượng yêu của hầu hết mọi người cũng chỉ tồn tại trong tưởng tượng của chính họ thôi. Người mà họ yêu không phải là anh ấy (cô ấy) trong hiện thực, mà chỉ là một anh ấy (cô ấy) nào đó trong tâm tưởng, anh ấy (cô ấy) trong hiện thực chỉ là một phiên bản mô phỏng của người tình trong mộng, sớm muộn họ cũng sẽ phát hiện ra người tình trong mộng ấy và phiên bản mô phỏng kia có sự khác biệt, nếu thích ứng được với sự khác biệt này, họ sẽ đến được với nhau, trường hợp không thể thích ứng thì sẽ chia tay, đơn giản vậy đó. Anh khác với hầu hết những người còn lại ở chỗ: anh không cần phiên bản mô phỏng.”
“Lẽ nào đây không phải là một loại bệnh?”
“Chỉ giống như bạn gái anh đã chỉ ra đó thôi, anh có năng khiếu văn chương rất cao, nếu anh coi năng khiếu này như là một dạng bệnh thì cũng được.”
“Nhưng sức tưởng tượng đạt đến mức độ này cũng hơi quá rồi nhỉ?”
“Sức tưởng tượng thì chẳng bao giờ gọi là quá cả, đặc biệt là tưởng tượng về tình yêu.”
“Vậy sau này tôi phải làm thế nào? Phải làm sao mới quên được cô ấy?”
“Không thể nào, anh không thể nào quên được cô ấy, đừng cố làm gì, sẽ gây ra rất nhiều tác dụng phụ, thậm chí dẫn đến rối loạn tâm thần, cứ thuận theo tự nhiên là được. Tôi nhấn mạnh thêm một lần nữa: đừng cố quên cô ấy đi, không có tác dụng gì đâu, nhưng cùng với thời gian, ảnh hưởng của cô ấy lên cuộc sống của anh sẽ càng lúc càng nhỏ. Thực ra, anh rất may mắn đấy, dù cô ấy có tồn tại trong hiện thực hay không, có thể yêu đã là rất may mắn rồi.”
Đây là trải nghiệm tình yêu sâu đậm nhất của La Tập, mà tình yêu này, mỗi người đàn ông chỉ có được một lần trong đời. Sau này, La Tập lại bắt đầu cuộc sống hững hờ chẳng để tâm vào chuyện gì như trước, giống như chiếc Accord mà anh lái lúc họ đi chơi với nhau, đi tới đâu hay tới đó. Đúng như lời bác sĩ tâm lý kia đã nói, ảnh hưởng của cô lên cuộc sống của anh càng ngày càng nhỏ, khi anh ở bên một người phụ nữ trong hiện thực, cô sẽ không xuất hiện, về sau này, dù anh ở một mình, cô cũng rất hiếm khi xuất hiện. Nhưng La Tập biết, mảnh đất tĩnh lặng nhất trong tâm tưởng mình đã thuộc về cô mất rồi, cô sẽ ở đó, bầu bạn với anh suốt đời. Thậm chí, anh còn có thể nhìn được rõ ràng thế giới mà cô đang ở, đó là một cánh đồng tuyết vắng lặng, bầu trời ở đó lúc nào cũng có trăng và sao bàng bạc, nhưng tuyết vẫn không ngừng rơi, cánh đồng tuyết trắng muốt như đường cát trắng, yên tĩnh đến độ dường như nghe được cả tiếng những bông hoa tuyết rơi trên đó. Cô ở trong một căn nhà gỗ nhỏ xinh đẹp giữa cánh đồng tuyết ấy. Nàng Eva mà La Tập đã dùng khúc xương sườn tưởng tượng của mình để tạo ra ngồi trước lò sưởi cổ kính, lặng lẽ nhìn ngọn lửa đang nhảy múa.
Lúc này đây, trên chuyến bay hung hiểm khó lường này, La Tập cảm thấy cô độc, anh muốn cô đến bầu bạn với mình, muốn cùng cô suy đoán xem ở cuối hành trình này sẽ có gì, song cô lại chẳng hề xuất hiện. Ở nơi xa xăm trong thế giới nội tâm kia, La Tập trông thấy cô vẫn yên lặng ngồi trước lò sưởi, cô sẽ không cảm thấy tịch mịch, vì cô biết thế giới của mình ở nơi nào.
La Tập vươn tay lấy lọ thuốc ở đầu giường, định uống một viên an thần ép mình vào giấc ngủ, đúng vào khoảnh khắc trước khi ngón tay anh chạm vào, lọ thuốc đã từ trên tủ đầu giường bay vọt lên, theo đó là cả quần áo La Tập vứt trên ghế, chúng bay thẳng lên trần nhà, ở đó chừng hai giây rồi lại rơi xuống. La Tập cảm thấy cơ thể mình cũng rời khỏi giường, nhưng vì túi ngủ đã buộc cố định nên anh không bay vọt lên. Sau khi lọ thuốc và quần áo rơi xuống, La Tập cũng cảm thấy cơ thể mình rơi mạnh xuống mặt giường, có mấy giây người anh cảm giác như bị vật nặng đè lên, không sao nhúc nhích nổi. Trọng lực hết mất đi lại tăng lên đột ngột khiến anh choáng váng mặt mày, nhưng hiện tượng này chỉ kéo dài chưa đến mười giây, rồi tất cả lại nhanh chóng trở lại bình thường.
La Tập nghe thấy ngoài cửa có tiếng bước chân giẫm lên thảm lạo xạo, mấy người đang đi đi lại lại, cánh cửa mở ra, Sử Cường thò đầu vào:
“La Tập, không sao chứ?” Nghe La Tập trả lời không sao, gã cũng không đi vào mà đóng cửa lại luôn, La Tập nghe thấy ngoài cửa vọng vào tiếng nói chuyện rì rầm.
“Hình như là việc đổi phiên đội bay hộ tống có chút hiểu lầm thôi, không có gì cả đâu.”
“Lúc nãy cấp trên gọi điện lại nói cái gì đấy?” Đây là giọng Sử Cường.
“Bảo là một tiếng rưỡi nữa, đội bay hộ tống cần tiếp xăng trên không, bảo chúng ta đừng hoảng loạn.”
“Trong kế hoạch không có chuyện này à?”
“Chậc, đừng nhắc nữa, vừa nãy mới rối loạn một chút, đã có bảy máy bay hộ tống cắt thùng xăng phụ đi rồi[20].”
“Việc quái gì mà phải cuống hết cả lên thế? Thôi bỏ đi, các cậu đi ngủ một lúc đi, đừng căng thẳng quá như thế.”
“Tình trạng này, ai mà ngủ được chứ!”
“Để một người canh chừng là được rồi, tiêu hao sức lực như vậy có làm được gì đâu? Mặc kệ cấp trên có nhấn mạnh nó quan trọng thế nào, tôi cũng có cách nhìn riêng đối với công tác bảo vệ an toàn: chỉ cần những điều phải nghĩ đến đã nghĩ rồi, những điều phải làm đều đã làm được, trong cả quá trình nếu thật sự có xảy ra chuyện gì thì cũng mặc xác nó, chẳng ai làm được gì đâu, có đúng không? Đừng làm khó mình mái như thế.”
Nghe thấy cụm từ “đổi phiên đội bay hộ tống”, La Tập bèn nhổm người dậy mở tấm chắn cửa sổ máy bay nhìn ra ngoài, vẫn là biển mây mờ mịt, Mặt trăng đã ngả về phía chân bầu trời đêm. Anh trông thấy vệt khói đuôi đội máy bay tiêm kích, lúc này đã tăng lên đến sáu chiếc. La Tập nhìn thật kỹ sáu chiếc máy bay nhỏ ở đầu những vệt khói kia, phát hiện hình dạng chúng không giống bốn chiếc máy bay anh nhìn thấy trước đó.
Cửa phòng ngủ lại mở ra, Sử Cường thò nửa người vào nói: “Thầy giáo La, vấn đề nhỏ thôi, đừng lo lắng, từ giờ sẽ không có gì nữa đâu, ngủ tiếp đi.”
“Vẫn còn thời gian ngủ à? Bay mấy tiếng đồng hồ rồi.”
“Còn phải bay mấy tiếng nữa cơ, cậu cứ ngủ đi.” Sử Cường dứt lời liền đóng cửa lại quay đi.
La Tập trở mình, xuống giường, nhặt lọ thuốc lên, phát hiện tay Đại Sử này cũng thật tinh tế, bên trong chỉ có đúng một viên thuốc. Anh uống thuốc, nhìn ngọn đèn nhỏ màu đỏ bên dưới cửa sổ khoang máy bay, tưởng tượng nó thành ngọn lửa trong lò sưởi âm tường, dần dần ngủ thiếp đi.<