← Quay lại trang sách

Kỷ nguyên Phát sóng năm thứ 7, truyện cổ tích của Vân Thiên Minh

Buổi họp đầu tiên của ủy ban giải mã tình báo (IDC) cũng được triệu tập trong phòng chắn Hạt trí tuệ. Tuy hầu hết mọi người có khuynh hướng cho rằng Hạt trí tuệ đã biến mất, cả Hệ Mặt trời và Trái đất đều đã “sạch sẽ” rồi, nhưng rốt cuộc vẫn áp dụng biện pháp bảo mật này, chủ yếu là vì nghĩ rằng, ngộ nhỡ Hạt trí tuệ vẫn còn đây thì sẽ đe dọa đến sự an toàn của Vân Thiên Minh.

Trước mắt, những gì công bố với công chúng chỉ là cuộc đối thoại giữa Trình Tâm và Vân Thiên Minh, còn phần chính của thông tin tình báo mà Vân Thiên Minh cung cấp - ba câu chuyện cổ tích - thì vẫn ở trong trạng thái bảo mật tuyệt đối. Trong xã hội hiện đại nơi mà mọi thứ đều trong suốt này, giữ bí mật một thông tin quan trọng như vậy với toàn thế giới là một việc cực kỳ khó khăn đối với Hạm đội và Liên Hiệp Quốc, nhưng các nước vẫn nhanh chóng đạt được sự đồng thuận. Nếu phần chính của thông tin tình báo này được công bố, có thể sẽ xuất hiện một làn sóng giải mã trên toàn thế giới, điều này có khả năng gây nguy hại cho sự an toàn của Vân Thiên Minh. Sự an toàn của Vân Thiên Minh quan trọng như vậy, không chỉ vì bản thân anh. Hiện nay, anh vẫn là người duy nhất thâm nhập được vào xã hội của người ngoài hành tinh, bởi vậy, trong tương lai, anh vẫn có tầm quan trọng không thể thay thế được.

Đồng thời, việc bảo mật và giải mã thông tin tình báo của Vân Thiên Minh cũng chứng tỏ quyền lực và khả năng hành động của Liên Hiệp Quốc được tăng cường thêm một mức độ, để nó tiến thêm một bước trên con đường trở thành chính phủ thế giới thực sự.

Căn phòng chắn Hạt trí tuệ này rộng rãi hơn căn mà Trình Tâm sử dụng trên không gian một chút, nhưng để làm phòng họp thì vẫn rất chật chội. Lực trường chắn Hạt trí tuệ mà con người tạo ra hiện nay chỉ có thể duy trì cân bằng trong một thể tích không gian có hạn, khi thể tích ấy tăng lên, lực trường sẽ sinh ra nhiễu, mất đi tác dụng chắn.

Có hơn ba mươi người tham dự hội nghị, ngoài Trình Tâm, còn có hai người khác đến từ thời kỳ Công nguyên, họ từng là hai ứng cử viên cho vị trí Người Giữ Gươm: kỹ sư máy gia tốc Tất Vân Phong và nhà vật lý Tào Bân.

Tất cả mọi người đều mặc đồ phòng hộ điện cao thế trùm kín người, vì vách tường kim loại trong phòng chắn đều có điện, dễ vô ý chạm phải. Ban tổ chức đặc biệt yêu cầu mọi người phải đeo găng tay bảo hộ, đề phòng có người gõ lên vách tường kích hoạt cửa sổ thông tin theo thói quen. Trong lực trường này, mọi thiết bị điện tử đều không thể vận hành, vì vậy sẽ không có cửa sổ thông tin nào. Để đảm bảo lực trường được cân bằng, bài trí trong phòng giảm thiểu hết cỡ, chủ yếu toàn là ghế ngồi của mọi người, ngay cả bàn họp cũng không có. Trang phục phòng hộ cho những người dự họp vốn là đồ của công nhân ngành điện làm việc với điện cao thế, trong gian phòng kim loại sơ sài này, cả đám người bọn họ trông như thể đang họp giao ban trước giờ làm việc ở một công xưởng cổ đại vậy.

Không đại biểu nào cằn nhằn về sự thô sơ chật chội của căn phòng, cũng như mùi cay mũi và cảm giác khó chịu trên da do tĩnh điện trong không khí gây ra. Sau gần ba trăm năm sống trong sự giám sát của Hạt trí tuệ, giờ đột nhiên thoát khỏi được sự dòm ngó từ thế giới xa lạ kia, mọi người trong phòng chắn đều có một thứ cảm giác giải thoát xưa nay chưa từng có. Công nghệ chắn Hạt trí tuệ được thực hiện không lâu sau khi cuộc Đại Di Dân kết thúc, nghe nói nhóm người đầu tiên vào phòng chắn này đều mắc phải “Hội chứng bình phong”, họ nói nhiều như thể bị say rượu, chẳng kiêng dè gì dốc hết mọi chuyện riêng tư của mình với người bên cạnh. Một phóng viên đã dùng ngôn ngữ đầy chất thơ để miêu tả như sau: “Trong cõi thiên đường chật chội này, mọi người mở rộng cõi lòng, ánh mắt chúng ta nhìn nhau không còn ẩn ý nữa rồi.”

IDC là tổ chức do hạm đội và Hội đồng phòng ngự toàn cầu của Liên Hiệp Quốc cùng thành lập với sứ mệnh giải mã thông tin tình báo mà Vân Thiên Minh truyền về. Dựa theo các ngành học và chuyên môn khác nhau, tổ chức này được chia làm hai mươi lăm nhóm nhỏ, những người tham dự cuộc họp lần này không phải các nhà khoa học thuộc các chuyên ngành khác nhau đó, mà là người phụ trách của các nhóm, cũng chính là các ủy viên của IDC.

Trước tiên, chủ tịch IDC thay mặt hạm đội và Liên Hiệp Quốc bày tỏ lòng kính trọng với Vân Thiên Minh và Trình Tâm, ông ta gọi Vân Thiên Minh là chiến sĩ anh dũng nhất trong lịch sử nhân loại, nói anh là người đầu tiên sinh tồn thành công ở thế giới của người ngoài hành tinh - trong lòng kẻ thù, trong hoàn cảnh khó thể nào hình dung ấy, anh đã một mình chiến đấu, đem lại cho văn minh Trái đất trong lúc nguy nan một tia hy vọng; Trình Tâm thì đã nhờ lòng dũng cảm và trí tuệ, liều mạng mang tin tình báo của Vân Thiên Minh trở về.

Lúc này, Trình Tâm khẽ cất tiếng yêu cầu chủ tịch cho mình được nói. Cô đứng lên, nhìn quanh một vòng hội trường, rồi nói: “Các vị, mọi thứ trước mắt đều là thành quả cuối cùng của dự án Bậc Thang. Dự án này không thể tách rời khỏi một cá nhân, vào ba thế kỷ trước, chính vì sự kiên trì cùng với năng lực lãnh đạo quả cảm và sức sáng tạo xuất chúng của ông ấy mà dự án Bậc Thang mới khắc phục vô số khó khăn để được thực hiện. Người này chính là Cục trưởng Cục tình báo chiến lược của Hội đồng phòng ngự toàn cầu lúc bấy giờ, Thomas Wade, tôi cho rằng chúng ta cũng cần phải bày tỏ sự kính trọng đối với ông ấy.”

Cả hội trường đều im lặng, không ai tỏ ý tán đồng với đề nghị của Trình Tâm. Trong mắt hầu hết mọi người ở đây, Wade tượng trưng cho phần đen tối trong bản tính con người của thời đại Công nguyên, là mặt trái của người phụ nữ xinh đẹp suýt chút nữa bị ông ta sát hại này, nghĩ đến ông ta, họ chỉ thấy không rét mà run.

Chủ tịch (vốn là cục trưởng đương nhiệm của PIA, là người kế nhiệm Wade sau ba thế kỷ) cũng không hồi đáp đề nghị của Trình Tâm, mà chỉ tiếp tục theo nghị trình: “Về vấn đề giải mã thông tin tình báo, ủy ban có một nguyên tắc và kỳ vọng cơ bản, thông tin đó không thể cung cấp bất cứ hiểu biết cụ thể nào về công nghệ, nhưng lại có khả năng chỉ ra phương hướng nghiên cứu, đưa ra một khái niệm lý thuyết chính xác về các công nghệ mà chúng ta chưa biết đến, bao gồm cả phi hành trong vũ trụ bằng tốc độ ánh sáng và phát đi tuyên bố an toàn trong vũ trụ. Nếu làm được điều này, chúng ta có thể mang đến hy vọng lớn lao cho thế giới của loài người.

“Thông tin tình báo mà chúng ta có được chia làm hai phần chính, một phần là cuộc đối thoại giữa Vân Thiên Minh và tiến sĩ Trình Tâm, phần còn lại là ba câu chuyện mà anh ấy kể. Các phân tích sơ bộ cho rằng, thông tin quan trọng đều ẩn giấu trong ba câu chuyện đó, những thứ có thể giải mã ra từ phần đối thoại không nhiều, vì sau này chúng ta sẽ không tập trung vào phần đối thoại nữa, nên ở đây tôi xin tổng kết lại những thông tin đã đúc rút ra được từ cuộc đối thoại này.

“Trước tiên chúng ta biết được, Vân Thiên Minh đã chuẩn bị kỹ lưỡng trong thời gian dài cho lần truyền tin này, anh ấy đã sáng tác ra hơn một trăm câu chuyện cổ tích, ba câu chuyện ẩn chứa thông tin tình báo trộn lẫn vào trong những câu chuyện ấy. Bằng cách kể chuyện và xuất bản tuyển tập, anh ấy đã khiến thế giới Tam Thể quen thuộc với những câu chuyện này, đây là một quá trình dài đằng đẵng, không hề dễ dàng chút nào, nếu trong quá trình này ba câu chuyện ẩn giấu thông tin kia không bị phát hiện, sau này kẻ địch cũng sẽ cho rằng những câu chuyện đó an toàn. Nhưng dù vậy, anh ấy vẫn thêm vào cho ba câu chuyện này một chốt an toàn nữa.”

Chủ tịch quay sang Trình Tâm, “Tôi muốn đặt một câu hỏi: Có đúng như Vân Thiên Minh đã nói, hai người quen nhau từ thời thơ ấu hay không?”

Trình Tâm lắc đầu, “Không, chúng tôi chỉ là bạn học cùng lớp đại học, quả thực tôi và anh ấy đều đến từ cùng một thành phố, nhưng cả tiểu học và trung học chúng tôi đều không học cùng trường, trước khi vào đại học, chắc chắn là chúng tôi không quen nhau.”

“Cái tên khốn kiếp này! Anh ta nói dối như thế, là muốn Trình Tâm mất mạng chắc?!” Ngải AA ngồi bên cạnh Trình Tâm kêu toáng lên, dẫn đến những cái liếc nhìn bất bình của mọi người. Cô không phải thành viên IDC, mà chỉ tham gia hội nghị với tư cách là trợ lý và cố vấn của Trình Tâm, đây cũng là do Trình Tâm một mực yêu cầu như vậy. Ngải AA từng có thành tích trong lĩnh vực thiên văn học, nhưng ở nơi này, kinh nghiệm và sự từng trải của cô vẫn còn quá ít ỏi, nên bị mọi người coi nhẹ, tất cả đều cho rằng Trình Tâm cần có một cố vấn kỹ thuật xứng đáng hơn, thậm chí ngay chính bản thân Trình Tâm cũng thường hay quên mất AA từng là một nhà khoa học.

Một quan chức PIA lên tiếng: “Làm như vậy cũng không quá nguy hiểm. Thời thơ ấu của họ từ trước kỷ nguyên Khủng hoảng, khi ấy Hạt trí tuệ vẫn chưa đến Trái đất, vả lại, vào thời điểm đó, họ cũng không thể nào là mục tiêu thăm dò của Hạt trí tuệ được.”

“Nhưng sau này bọn họ sẽ điều tra các tài liệu từ thời Công nguyên còn lưu lại!”

“Bây giờ mà muốn tra được thông tin về hai đứa trẻ sống trước kỷ nguyên Khủng hoảng, cô tưởng dễ à? Kể cả có tra được hộ khẩu và học bạ gì đấy thời đó, biết bọn họ không học chung trường tiểu học và trung học thì cũng không thể chứng minh được lúc đó họ không quen nhau. Còn một điều nữa cô không nghĩ tới,” viên quan chức PIA không hề che giấu vẻ khinh miệt đối với sự thiếu chuyên nghiệp của Ngải AA, “Vân Thiên Minh có thể sử dụng Hạt trí tuệ, chắc chắn trước đó anh ấy đã thử điều tra rồi.”

Chủ tịch nói tiếp: “Việc mạo hiểm này là cần thiết, Vân Thiên Minh cho Trình Tâm làm tác giả ba câu chuyện này, khiến kẻ địch càng thêm tin tưởng vào tính an toàn của các câu chuyện. Trong hơn một tiếng đồng hồ anh ấy kể chuyện, đèn vàng không sáng lên lần nào, sau đó chúng ta còn phát hiện ra rằng, kỳ thực, khi anh ấy kể hết ba câu chuyện, đã quá mất bốn phút so với thời gian mà Hạt trí tuệ định ra, nhưng để cho Vân Thiên Minh kể hết câu chuyện cuối cùng, người giám sát đã rất chiều lòng mà kéo dài thời gian gặp mặt ra tổng cộng sáu phút, điều này chứng tỏ bọn họ không nghi ngờ gì những câu chuyện này. Vân Thiên Minh làm như vậy còn có một mục đích quan trọng nữa, anh ấy muốn qua đây truyền đạt một thông tin rõ ràng: trong ba câu chuyện này ẩn giấu thông tin tình báo.

“Những thông tin khác giải mã được từ nội dung đối thoại không nhiều lắm, chúng tôi nhất trí cho rằng câu nói cuối cùng của Vân Thiên Minh khá quan trọng...” Chủ tịch vừa nói, vừa khua khoắng tay phải trong không trung. Đây là một động tác quen tay, như thể muốn mở ra cửa sổ thông tin, sau khi phát hiện không thể làm được, ông ta bèn nói tiếp: “ ‘Vậy chúng mình hẹn nhau một địa điểm gặp mặt đi, ngoài Trái đất, hẹn ở một nơi nào đó khác, một nơi nào đó trong hệ Ngân hà.’ Câu nói này có thể mang hai hàm nghĩa, thứ nhất, anh ấy muốn ám chỉ rằng mình không thể nào quay lại Hệ Mặt trời được nữa; thứ hai...” Chủ tịch ngập ngừng giây lát, lại khua khua tay, lần này như thể ông ta muốn xua thứ gì đó đi, “thực ra cũng không quan trọng, chúng ta tiếp tục nội dung tiếp theo thôi.”

Bầu không khí trong phòng hội nghị trở nên nặng nề, mọi người đều hiểu rõ hàm nghĩa thứ hai của câu nói này: Vân Thiên Minh không có lòng tin rằng Trái đất có thể tránh được tấn công mà tiếp tục sống sót.

Các nhân viên bắt đầu phân phát tài liệu, tài liệu có bìa ngoài màu xanh lam, chỉ có số hiệu chứ không có tiêu đề, ở thời đại này, tài liệu in trên giấy đã cực kỳ hiếm gặp.

“Mong các vị chú ý, tài liệu chỉ có thể đọc ở đây, không được mang ra khỏi phòng hội nghị, cũng không thể ghi chép lại. Hầu hết mọi người có mặt trong buổi họp này đều lần đầu tiên tiếp xúc với nội dung của nó, giờ chúng ta hãy cùng đọc một lần trước đã.”

Cả phòng hội nghị trở nên tĩnh lặng, mọi người bắt đầu cẩn thận đọc ba câu chuyện cổ tích có thể sẽ cứu vớt nền văn minh nhân loại ấy.

CÂU CHUYỆN THỨ NHẤT CỦA VÂN THIÊN MINH: HỌA SĨ MỚI CỦA VƯƠNG QUỐC

Ngày xửa ngày xưa, có một vương quốc tên là Vương quốc Không Chuyện Kể. Vương quốc này không có câu chuyện nào cả. Thực ra, đối với một vương quốc, không có chuyện kể là điều tốt nhất, dân chúng ở vương quốc không có chuyện kể là những người hạnh phúc nhất, bởi lẽ các câu chuyện đồng nghĩa với sự lắt léo và tai họa.

Vương quốc Không Chuyện Kể có một vị quốc vương thông thái và sáng suốt, một hoàng hậu nhân từ và những vị đại thần chính trực, giỏi giang, còn có cả những người dân cần cù, trung hậu. Cuộc sống ở vương quốc bình lặng như mặt gương, ngày hôm qua giống ngày hôm nay, ngày hôm nay giống ngày mai, năm ngoái giống năm nay, năm nay giống sang năm, không hề có một câu chuyện nào.

Cho tới khi hoàng tử và công chúa trưởng thành.

Quốc vương có hai cậu con trai, hoàng tử Nước Sâu và hoàng tử Cát Băng, còn có một cô con gái, công chúa Hạt Sương.

Hoàng tử Nước Sâu từ nhỏ đã đi đến đảo Mộ ở biển Thao Thiết, chưa bao giờ quay lại, nguyên nhân sẽ kể sau.

Hoàng tử Cát Băng lớn lên bên cạnh phụ vương và mẫu hậu, nhưng lại khiến họ vô cùng lo lắng. Đứa trẻ này rất thông minh, nhưng từ nhỏ đã thể hiện rõ bản tính bạo ngược. Nó bảo đám người hầu ra ngoài hoàng cung thu thập về rất nhiều muông thú nhỏ, rồi chơi trò đế quốc với lũ thú nhỏ ấy, nó tự phong mình làm hoàng đế, còn lũ thú nhỏ là thần dân, thần dân đều là nô lệ, hễ không nghe lời là lập tức chặt đầu, lần nào cũng thế, khi trò chơi kết thúc thì lũ thú nhỏ đều bị giết hết, còn hoàng tử Cát Băng thì đứng giữa bãi đất vương vãi máu tươi mà cười như điền... Khi trưởng thành, tính cách hoàng tử cũng bớt cuồng dại một chút, trở nên trầm lặng ít nói, ánh mắt u ám. Quốc vương hiểu rõ, đấy chỉ là con sói đang giấu đi nanh vuốt, trong nội tâm hoàng tử Cát Băng có một ổ rắn độc đang ngủ đông, chờ cơ hội thức tỉnh. Cuối cùng quốc vương quyết định không cho hoàng tử Cát Băng kế thừa ngôi báu, để công chúa Hạt Sương nối ngôi, trong tương lai vương quốc Không Chuyện Kể sẽ có một vị nữ hoàng.

Giả sử như những đức tính tốt đẹp mà phụ vương và mẫu hậu truyền lại cho các con là một đại lượng không đổi, vậy thì phần mà hoàng tử Cát Băng bị thiếu kia chắc chắn đã chuyển hết cho công chúa Hạt Sương. Công chúa thông minh và tốt bụng, lại còn xinh đẹp tuyệt trần. Khi nàng ra ngoài lúc han ngày, Mặt trời sẽ thu bớt ánh sáng, khi nàng tản bộ vào ban đêm, Mặt trăng sẽ mở mắt to hết cỡ, mỗi khi nàng cất tiếng, tất cả chim chóc đều ngừng hót, những bãi đất hoang nơi nàng đặt chân qua sẽ mọc lên những đóa hoa tươi đẹp. Công chúa Hạt Sương trở thành nữ hoàng chắc chắn sẽ được dân chúng ủng hộ và yêu mến, các vị đại thần cũng sẽ dốc hết sức lực phò trợ nàng, ngay cả hoàng tử Cát Băng cũng không phản đối gì, chỉ có ánh mắt là trở nên u ám hơn.

Thế là, vương quốc Không Chuyện Kể đã có chuyện để kể.

Quốc vương chính thức tuyên bố quyết định này vắo lễ mừng thọ lần thứ sáu mươi của ngài. Vào đêm lễ mừng ấy, bầu trời đêm được pháo hoa tô điểm thành một vườn hoa đầy ánh sáng và màu sắc, ánh đèn rực rỡ dường như biến hoàng cung thành một cung điện bằng pha lê trong suốt, trong tiếng ca hát nói cười, rượu ngon chảy tràn như sông suối...

Mỗi người đều đắm chìm trong hạnh phúc và hoan lạc, đến cả trái tim bâng giá của hoàng tử Cát Băng cũng dường như tan chảy, y bỏ đi bộ mặt âm u thường ngày, cung kính chúc thọ phụ vương, chúc ánh sáng sự sống của ngài mãi mãi chiếu rọi vương quốc giống như Mặt trời. Y còn ca ngợi quyết định của phụ vương, nói rằng công chúa Hạt Sương quả thực thích hợp với ngôi báu hơn mình. Y chúc mừng em gái, hy vọng nàng học tập phép trị quốc từ phụ vương, chuẩn bị sau này còn đảm nhiệm trọng trách. Sự chân thành và thiện ỷ của hoàng tử khiến tất cả mọi người đều cảm động.

“Con của ta, thấy con như vậy ta thực sự rất vui lòng” Quốc vương xoa đầu hoàng tử, nói: “Ta thực sự muốn lưu giữ mãi khoảnh khắc tươi đẹp này”

Vậy là có vị đại thần đưa ra ý kiến, nên vẽ một bức tranh sơn dầu khổng lồ, họa lại toàn bộ cảnh tượng buổi lễ, treo trong cung điện để làm kỷ niệm.

Quốc vương lắc đầu, “Họa sĩ của ta đã già rồi, trong đôi mắt mờ đục của ông ấy, thế giới này đã bao phủ trong một màn sương mù, đôi tay run rẩy của ông ấy không thể vẽ lại được nụ cười hạnh phúc của chúng ta nữa.”

“Con đang định nói chuyện này đây.” Hoàng tử Cát Băng khom người thật thấp trước quốc vương, “Thưa phụ vương, con đang định tiến cử lên người một họa sĩ mới”

Hoàng tử nói xong liền ngoảnh lại phía sau ra hiệu, người họa sĩ mới lập tức bước vào. Đó là một thiếu niên thì đúng hơn, trông chỉ khoảng mười bốn, mười lăm tuổi. Cậu ta bọc mình trong áo choàng trùm đầu màu xám của tu sĩ, nom như một con chuột nhỏ sợ hãi giữa cung điện rực rỡ huy hoàng vả đám khách khứa ăn mặc lộng lẫy. Lúc bước đi, thân hình vốn dĩ đã rất gầy guộc của cậu ta co lại như một cành cây khẳng khiu, như thể lúc nào cũng phải né tránh những gai nhọn vô hình ở xung quanh vậy.

Quốc vương có vẻ hơi thất vọng với họa sĩ mới, “Cậu ta còn trẻ vậy, liệu có thể nắm được những kỹ xảo cao siêu hay không?”

Hoàng từ lại khom người: “Thưa phụ vương, cậu ấy tên là Lỗ Kim, đến từ He'ershingenmosiken, là học trò giỏi nhất của đại họa sĩ Hồn Không. Từ năm tuổi cậu ấy đã đi theo đại họa sĩ học vẽ tranh, đến nay đã được mười năm, có thể coi là đệ tử chân truyền của họa sĩ Hồn Không rồi. Đối với màu sắc và hình dạng của thế giới này, cậu ấy cũng nhạy cảm như chúng ta đối với miếng sắt nàng đỏ vậy, thông qua ngòi bút như thần của cậu ấy, cảm giác này được ngưng đọng lại trên tấm vải. Ngoài đại họa sĩ Hồn Không ra, cậu ấy là độc nhất vô nhị.” Hoàng tử quay sang họa sĩ Lỗ Kim, “Là một họa sĩ, ngươi có thể nhìn thẳng vào quốc vương, không bị coi là vô lễ.”

Họa sĩ Lỗ Kim ngẩng đầu lên nhìn quốc vương một cái, rồi lại lập tức cúi đầu xuống.

Quốc vương hơi ngạc nhiên: “Cậu bé, ánh mắt của cậu rất sắc bén, như một thanh kiếm sắc rời vỏ bên ngọn lửa hừng hực vậy, hoàn toàn không giống với độ tuổi của cậu chút nào.”

Họa sĩ Lỗ Kim lần đầu tiên cất tiếng: “Thưa quốc vương cao quý tột bậc, xin hãy khoan dung cho sự mạo phạm của một tên họa sĩ hèn mọn. Đây là đôi mắt của một họa sĩ, hắn cần phải vẽ được bức tranh trong tim trước đã, thần đã khắc ghi vào tim hình dáng của người, cùng với sự uy nghiêm và trí tuệ của người, thần sẽ vẽ lại vào trong bức tranh.”

“Ngươi cũng có thể nhìn hoàng hậu.” Hoàng tử nói.

Lỗ Kim đưa mắt nhìn hoàng hậu, đoạn cúi đầu nói: “Thưa hoàng hậu tôn kính nhất trên đời, xin hãy khoan dung cho sự mạo phạm của một tên họa sĩ hèn mọn. Thần đã khắc ghi vào tim hình dáng của người, cùng với sự cao quý và thanh nhã của người, thần sẽ vẽ lại vào trong bức tranh.”

“Hãy nhìn cả công chúa, nữ hoàng trong tương lai, ngươi cũng sẽ phải vẽ công chúa.”

Lỗ Kim nhìn công chúa Hạt Sương còn nhanh hơn, cậu ta liếc qua một cái như ánh chớp rồi tức khắc cúi đầu nói: “Thưa công chúa được mọi người mến mộ nhất trần đời, xin hãy khoan dung cho sự mạo phạm của một tên họa sĩ hèn mọn. Vẻ đẹp của người như ánh Mặt trời buổi ban trưa làm mắt thần đau rát, lần đầu tiên trong đời thần cảm nhận được ngòi bút của mình bất lực, nhưng thần đã khắc ghi vào tim hình dáng của người, cùng với sắc đẹp không gì sánh nổi của người, thân sẽ vẽ lại vào trong bức tranh.”

Sau đó hoàng tử lại bảo Lỗ Kim nhìn các vị đại thần. Cậu ta nhìn từng người một, ánh mắt chỉ dừng lại ở mỗi người trong giây lát, cuối cùng cậu ta cúi đầu nói: “Thưa các vị đại thần rất mực tôn kính, xin hãy khoan dung cho sự mạo phạm của tên họa sĩ hèn mọn này. Tôi đã khắc ghi vào tim hình dáng các ngài, cùng với tài năng và trí tuệ của các ngài, tôi sẽ vẽ lại vào trong bức tranh.”

Buổi yến tiệc tiếp tục diễn ra, hoàng tử Cát Băng kéo họa sĩ Lỗ Kim vào một góc cung điện, khẽ hỏi: “Đã ghi nhớ hết rồi chứ?”

Đầu họa sĩ Lỗ Kim cúi rất thấp, cả khuôn mặt giấu trong bóng mờ của mũ áo choàng, khiến cái áo đó trống như trống rỗng, bên trong chỉ có bóng đen chứ không có thể xác. “Đã ghi nhớ, thưa bệ hạ.”

“Ghi nhớ toàn bộ rồi chứ?”

“Thưa bệ hạ, thần đã ghi nhớ toàn bộ rồi, cho dù vẽ đặc tả từng cọng tóc hay từng sợi lông tơ của từng người bọn họ, thần cũng có thể vẽ chính xác không sai một ly.”

Yến tiệc kéo dài đến quá nửa đêm mới kết thúc, ánh đèn trong hoàng cung dần dần tắt hết. Đây chính là thời điểm tối tăm nhất trước lúc binh minh, Mặt trăng đã lặn ở trời Tây, mây đen bay từ Tây sang Đông, tựa như một tấm màn che phủ bầu trời đêm, mặt đất như thể ngâm trong mực đen vậy. Một cơn gió lạnh âm u thổi tới, lũ chim trong tổ run rẩy, hoa cũng kinh hãi khép hết cánh lại.

Hai con ngựa phóng ra khỏi hoàng cung như hai bóng ma, lao vút về phía Tây, trên lưng ngựa là hoàng tử Cát Băng và họa sĩ Lỗ Kim. Bọn họ đến một căn hầm tĩnh mịch dưới lòng đất cách hoàng cung chừng hơn mười dặm. Nơi này dường như nằm ở chốn sâu nhất của biển đêm thăm thẳm, ẩm thấp, âm u như khoang bụng một con quái thú khổng lồ máu lạnh đang say ngủ. Bóng hai người đang đưa trong ánh đuốc, thân hình bọn họ chỉ là hai chấm đen nằm ở chân cái bóng dài thượt ấy. Lỗ Kim mở một cuộn tranh ra, bức tranh nọ cao bằng người, sau khi gỡ lớp túi vải bọc bên ngoài, cậu ta giơ lên cho hoàng tử Cát Băng xem. Đây là tranh vẽ một ông già, mái tóc và bộ râu bạc tựa như ngọn lửa màu bạc bao quanh gương mặt ông ta. Ánh mắt ông già rất giống với ánh mắt Lỗ Kim, nhưng trong vẻ sắc bén lại thêm một chút thâm trầm, bức tranh này thể hiện tài nghệ cao siêu của họa sĩ, rõ đến từng chân tơ kẽ tóc, sống động như thật.

“Thưa bệ hạ, đây là sư phụ của thần, đại họa sĩ Hồn Không?

Hoàng tử ngắm bức tranh, gật đầu nói: “Ngươi vẽ lão ta trước là sáng suốt đấy?

“Đúng thế, thưa bệ hạ, để lão khỏi vẽ thần trước.” Họa sĩ Lỗ Kim nói, hết sức cẩn trọng treo tranh lên bức tường ẩm thấp, “Được rồi, giờ thần có thể vẽ các bức tranh mới cho người rồi ạ.”

Lỗ Kim lấy từ trong góc tối hầm ra một cuộn đồ trắng như tuyết, “Thưa bệ hạ, đây là thân cây Sóng Tuyết ở He'ershingenmosiken, loại cây này sau khi được một trăm năm tuổi thì thân cây trở thành như một cuộn giấy lớn, loại giấy vẽ tranh thượng hạng! Tranh của thần chỉ khi vẽ trên giấy làm từ thân cây Sóng Tuyết mới có ma lực.” Lỗ Kim đặt cuộn giấy lên mặt bàn dá, mở ra một đoạn, lấy một phiến đá vỏ chai đè lên, rồi đưa một con dao găm sắc nhọn men theo mép phiến đá, cắt phần giấy đó ra. Khi nhấc phiến đá lên, tờ giấy đã nằm phẳng phiu trên mặt bàn đá, trắng phau, cứ như tự nó phát sáng vậy. Kế đó, họa sĩ lấy trong túi vải ra các thứ dụng cụ để vẽ khác: “Thưa bệ hạ, hãy nhìn những cây bút này, chúng được làm từ lông tai loài sói sông ở He'ershingenmosiken. Những lọ màu này cũng đều cổ nguồn gốc từ He'ershingenmosiken, màu đỏ này, là máu của loài dơi khổng lồ ở đó, màu đen này, là mực lấy từ con mực dưới biển sâu ở đó; màu xanh lam và vàng này, đều được lấy từ những viên vẫn thạch cổ xưa ở đó... Tất cả những màu sắc này đều phải dùng nước mắt của một loài chim lớn tên là Thảm Mặt Trăng để điều chế.”

“Mau vẽ tranh đi.” Hoàng tử sốt ruột nói.

“Vâng, thưa bệ hạ, vẽ ai trước tiên ạ?”

“Quốc vương.”

Lỗ Kim cầm bút lên bắt đầu vẽ tranh. Cậu ta vẽ rất tùy ý, dùng các màu sắc khác nhau chấm chỗ này một chấm, vạch chỗ kia một vạch, các màu sắc trên giấy dần dần nhiều lên, nhưng không thể nhìn ra hình dạng gì, chỉ giống như đặt giấy vẽ ra dưới một cơn mưa màu sắc thôi vậy, những giọt nước mưa nhiều màu không ngừng rơi xuống mặt giấy. Bề mặt tranh dần dần được sắc màu phủ kín, một mảng màu sắc phức tạp rối rắm, trông như vườn hoa vừa bị đàn ngựa giẫm đạp. Ngọn bút tiếp tục lướt đi trong mê cung màu sắc ấy, tựa hồ không phải họa sĩ đang vung bút, mà là ngọn bút đang dắt theo bàn tay cậu ta di chuyển. Hoàng tử đứng bên cạnh quan sát với ánh mắt nghi hoặc, y muốn đặt câu hỏi, nhưng màu sắc tràn trề tụ hội trong tranh dường như có tác dụng thôi miên, khiển y mê mẩn tâm thần. Đột nhiên, dường như trong chớp mắt, như thể mặt nước gợn sóng lăn tăn bỗng đông cứng lại, tất cả các khối màu đều kết nối với nhau, tất cả màu sắc đều có ý nghĩa, hình ảnh dần hiện lên, rồi nhanh chóng trở nên rõ ràng sắc nét.

Lúc này, hoàng tử nhìn thấy quả đúng là Lỗ Kim đã vẽ quốc vương, quốc vương trong tranh ăn mặc giống hệt như y thấy trong buổi yến tiệc, đầu đội vương miện vàng, trên người vận lễ phục sang trọng, nhưng nét mặt thì khác hẳn, trong ánh mắt quốc vương không còn sự uy nghiêm và trí tuệ nữa, thay vào đó lại toát lên một thứ gì đó cực kỳ phức tạp, nửa mơ nửa tỉnh, mê hoặc, kinh hãi, bi thương - đằng sau tất cả những thứ đó là nỗi sợ hãi khủng khiếp chưa kịp hiện ra trên nét mặt, tựa như khoảnh khắc trông thấy người thân thiết nhất với mình đột nhiên rút kiếm đâm tới vậy.

“Thưa bệ hạ, tranh đã vẽ xong, thần đã vẽ quốc vương vào trong tranh rồi” Lỗ Kim nói.

“Ngươi đã vẽ ông ta vào trong tranh rồi, tốt lắm.”Hoàng tử nhìn bức tranh quốc vương, hài lòng gật đầu, mắt y phản chiếu ánh lửa từ ngọn đuốc, tựa như linh hồn đang bốc cháy trong giếng sâu.

***

Ở hoàng cung cách đó mười mấy dặm, trong phòng ngủ của quốc vương, quốc vương đã biến mất. Trên chiếc giường có bốn chân là bốn bức tượng thiên thần, tấm chăn vẫn còn hơi ấm cơ thể của ngài, trên khăn trải vẫn còn vết lõm mà ngài nắm đè xuống, nhưng thể xác ngài thì đã biến mất không còn tăm tích.

Hoàng tử cầm bức tranh đã hoàn thành trên mặt bàn đá lên, ném xuống đất: “Ta sẽ đóng khung bức tranh này lại, treo lên tường ở đây, lúc nào rảnh rỗi sẽ thường đến đây ngắm. Sau đây hãy vẽ hoàng hậu đi.”

Lỗ Kim lại dùng phiến đá vỏ chai đè phẳng một tờ giấy Sóng Tuyết, bắt đầu vẽ chân dung hoàng hậu. Lần này hoàng tử không đứng bên cạnh quan sát nữa, mà đi đi lại lại, trong căn hầm trống trải vang vọng tiếng bước chân đơn điệu. Lần này tốc độ vẽ tranh của Lỗ Kim nhanh hơn nhiều, chỉ cần nửa thời gian vẽ bức đầu tiên đã hoàn thành.

“Thưa bệ hạ, đã vẽ xong, thần đã vẽ hoàng hậu vào trong tranh rồi.”

“Ngươi đã vẽ bà ta vào trong tranh, tốt lắm.”

Ở hoàng cung, trong phòng ngủ của hoàng hậu, hoàng hậu đã biến mất. Trên chiếc giường có bốn chân là bốn bức tượng thiên thần, tấm chăn vẫn còn hơi ấm cơ thể của bà, trên khăn trải vẫn còn vết lõm mà bà nằm đè xuống, nhưng thể xác bà thì đã biến mất không còn tăm tích.

Trong khu vườn bên ngoài cung điện, một con chó lai sói dường như phát giác ra điều gì đó, tru lên mấy tiếng, nhưng tiếng tru của nó lập tức bị bóng đêm vô tận nuốt chửng, chính nó cũng im bặt trong nỗi sợ hãi xưa nay chưa từng có, co mình vào trong góc không ngừng run rẩy, cơ thể như hòa làm một với bóng đêm.

“Giờ vẽ công chúa ạ?” Lỗ Kim hỏi.

“Không, vẽ hết các đại thần rồi hãy vẽ nó, các đại thần nguy hiểm hơn công chúa. Đương nhiên, chỉ vẽ những đại thần trung thành với quốc vương thôi, hẳn ngươi đã nhờ dáng vẻ của bọn chúng?”

“Đương nhiên, thưa bệ hạ, thần đã ghi nhớ hết, cho dù vẽ đặc tả từng cọng tóc hay từng sợi lông tơ của từng người bọn họ...”

“Được rồi, mau vẽ đi, vẽ xong trước khi trời sáng.”

“Vâng, thưa bệ hạ, trước khi trời sáng thần sẽ vẽ hết vào trong tranh các vị đại thần trung thành với quốc vương, và cả công chúa nữa.”

Lỗ Kim đè phẳng mấy tờ giấy Sóng Tuyết một lúc, bắt đầu vẽ như điên cuồng. Mỗi lần cậu ta vẽ xong một bức tranh, người trong tranh liền biến mất khỏi giường ngủ của mình. Bóng đêm lui dần, những người hoàng tử Cát Băng muốn tiêu diệt lần lượt biến thành những bức tranh treo trên tường căn hầm.

Công chúa Hạt Sương đang say ngủ thì bị tiếng gõ cửa làm giật mình tỉnh giấc, tiếng gõ vừa vang vừa gấp gấp, chưa bao giờ có ai dám gõ cửa phòng nàng như vậy. Nàng nhổm dậy, khi nàng bước tới trước cửa thì bà Rộng đã mở cửa ra rồi.

Bà Rộng là bà vú của Hạt Sương, đã chăm sóc nàng từ nhỏ tới lớn, tình cảm của công chúa với bà còn thân thiết hơn cả hoàng hậu mẹ đẻ nàng. Bà Rộng thấy người đứng ngoài cửa là đội trưởng đội cấm vệ của hoàng cung, trên bộ giáp còn mang theo làn hơi lạnh của đêm tối bên ngoài.

“Nhà ngươi vô lễ quá! Dám làm công chúa thức giấc! Mấy ngày nay công chúa đều mất ngủ đấy!”

Đội trưởng đội cấm vệ không để ý đến lời trách móc của bà Rộng, chỉ vội vàng cúi chào công chúa, “Thưa công chúa, có kẻ muốn gặp người!” Sau đó, anh ta lách sang một bền, để lộ ra người đứng sau lưng mình, đó là một ông già, mái tóc và hàm râu bạc trắng như ngọn lửa màu bạc bao quanh gương mặt, ánh mắt ông sắc bén mà thâm trầm, ông chính là người trong bức tranh đầu tiên Lỗ Kim cho hoàng tử Cát Băng xem. Mặt và áo choàng ông phủ toàn bụi đất, giày bám đầy bùn, rõ ràng là đã lặn lội đường xa để đến đây. Ông đeo một cái túi vải bạt rất to, cắm một chiếc ô trông rất kỳ lạ, cách cầm ô lại còn kỳ lạ hơn: ông không ngừng xoay tít chiếc ô. Nhìn kỹ chiếc ô sẽ biết được vì sao ông làm thể: mặt ô và cán ô đều màu đen tuyền, ở đầu mỗi nan ô đều gắn một quả cầu nhỏ, làm bằng một loại đá trong mờ nào đó, có vẻ nặng. Có thể thấy được, có mấy thanh chống đã bị gãy, không giữ cho ô mở ra được, chỉ còn cách không ngừng xoay khiến những quả câu đá nhỏ gắn ở cuối nan ô vàng lên, thì chiếc ô mới không bị gập lại.

“Sao ngươi lại để người ngoài vào đây bừa bãi như thế, còn là một lão già kỳ quái thế này nữa?!” Bà Rộng chỉ vào ông già quát hỏi.

“Lính gác tất nhiên không để ông ta vào hoàng cung, nhưng ông ta nói...” Đội trưởng đội cấm vệ lo lắng đưa mắt nhìn công chúa, “ông ta nói quốc vương đã mất rồi.”

“Ngươi đang nói gì đấy?! Ngươi điên rồi chắc?” Bà Rộng hét lớn, công chúa vẫn không lên tiếng, hai bàn tay chỉ tóm chặt lấy vạt áo ngủ trước ngực.

“Nhưng quả thực là quốc vương đã biến mất, hoàng hậu cũng biến mất, tôi cho người đi kiểm tra, phòng ngủ của hai vị đều trống rỗng!”

Công chúa kêu lên một tiếng kinh hãi, phải vịn vào bà Rộng mới đứng vững được.

Ông già cất tiếng: “Thưa công chúa tôn kính, xin hãy để tôi nói rõ chuyện này.”

“Xin mời cụ vào trong, ngươi hãy canh gác ngoài cửa.” Công chúa nói với đội trưởng cấm vệ.

Ông già xoay ô, khom người trước công chúa, dường như bày tỏ sự kính trọng vì công chúa có thể nhanh chóng bình tĩnh lại như vậy.

“Ông cứ xoay cái ô thế để làm gì? Ông là tên hề trong đoàn xiếc chắc?" Bà Rộng hỏi.

“Tôi cần phải luôn mờ chiếc ô này, bằng không tôi cũng sẽ biến mất giống như quốc vương và hoàng hậu vậy?

“Thế thì mang ô vào đây đi.” Công chúa nói. Bà Rộng mở rộng cửa để ông già có thể cầm ô đi qua.

Ông già vào phòng, đặt túi vải bạt trên vai xuống thảm, mệt mỏi thở hắt ra một hơi dài, nhưng vẫn xoay chiếc ô màu đen, những quả cầu đá ở mép ô lấp lánh trong ánh nến, hắt một quầng sáng xoay tròn lên mấy bức tường xung quanh.

“Tôi là họa sĩ Hồn Không đến từ vùng đất He'ershingenmosiken, tên họa sĩ Lỗ Kim mới đến hoàng cung là học trò của tôi.” Ông già nói.

“Tôi đã gặp cậu ấy.” Công chúa gật đầu.

“Vậy nó đã gặp công chúa chưa? Nó đã nhìn thấy công chúa chưa?” Họa sĩ Hồn Không căng thẳng hỏi.

“Rồi, tất nhiên cậu ấy đã nhìn thấy tôi.”

“Hỏng bét rồi, công chúa của tôi, hỏng bét rồi!” Họa sĩ Hồn Không thở dài, “Nó là ác quỷ, nó sở hữu tài vẽ tranh của ma quỷ, nó có thể vẽ người ta vào trong tranh.”

“Đúng là vớ vẩn!” Bà Rộng nói, “Không thể vẽ người ta vào trong tranh thì làm sao gọi là họa sĩ được.”

Họa sĩ Hồn Không lắc đầu, “Ý tôi không phải như thể, sau khi nó vẽ người ta vào trong tranh, người đó sẽ biến mất, biến thành bức tranh chết.”

“Vậy còn không mau mau sai người đi tìm hắn mà giết đi!”

Đội trưởng đội cấm vệ từ ngoài cửa thò đầu vào nói: “Tôi đã phái toàn bộ đội cấm vệ đi tìm rồi, nhưng không thấy đâu. Tôi vốn định đi tìm thượng thư bộ Binh, ngài có thể điều động quân cấm vệ bên ngoài hoàng cung đi lục soát, nhưng ông già này nói thượng thư bộ Binh lúc này chắc cũng đã biến mất rồi.”

Họa sĩ Hồn Không lại lắc đầu, “Quân cấm vệ không có tác dụng đâu, có lẽ hoàng tử Cát Băng và Lỗ Kim không ở trong hoàng cung, Lỗ Kim có thể giết hại người trong hoàng cung bằng cách vẽ tranh ở bất cứ nơi nào trên thế giới này.”

“Ông nói là hoàng tử Cát Băng?” Bà Rộng hỏi.

“Đúng thể, hoàng tử muốn dùng Lỗ Kim làm vũ khí để tiêu diệt quốc vương và những người trung thành với ngài, hòng đoạt lấy ngôi báu.”

Họa sĩ Hồn Không nhận thấy, công chúa, bà Rộng và cả đội trưởng đội cấm vệ dường như đều không ngạc nhiên trước những gì ông nói.

“Hãy cứ xét đến chuyện sống chết trước mắt đã! Lỗ Kim có thể vẽ công chúa bất cứ lúc nào, có khi nó đang vẽ rồi cũng nên.”

Bà Rộng tái mét mặt, ôm chặt lấy công chúa, như thể làm vậy có thể bảo vệ được nàng.

Họa sĩ Hồn Không nói tiếp: “Chỉ có tôi mới diệt trừ được Lỗ Kim, giờ nó đã vẽ tôi rồi, nhưng chiếc ô này có thể bảo vệ cho tôi không biến mất, chỉ cần tôi vẽ nó ra, nó sẽ biến mất?

“Vậy ông vẽ ngay ở đây đi!” Bà Rộng nói, “Để tôi che ô cho ông!”

Họa sĩ Hồn Không lại lắc đầu, “Không được, tranh của tôi chỉ vẽ trên giấy Sóng Tuyết mới có ma lực, giấy mà tôi mang theo vẫn chưa đè phẳng, không thể vẽ được.”

Bà Rộng ngay lập tức mở túi vải bạt của họa sĩ, lấy ra một đoạn thân cây Sóng Tuyết, thân cây đã được bóc lớp vỏ bên ngoài, để lộ ra cuộn giấy trắng tinh. Bà Rộng và công chúa mở một phần cuộn giấy ra, mặt giấy trắng bóc như tuyết, làm căn phòng sáng hẳn lên. Họ tìm cách đè phẳng tờ giấy trên sàn nhà, nhưng dù cố gắng thế nào, hễ cứ buông tay ra là tờ giấy lại cuộn về trạng thái ban đầu.

Họa sĩ nói: “Không được đâu, chỉ có phiến đá làm bằng loại đá vỏ chai ở He'ershingenmosiken mời làm phẳng được giấy Sóng Tuyết, loại đá ấy rất hiếm, tôi chỉ có một phiến thôi, đã bị Lỗ Kim trộm đi mất rồi!”

“Dùng thứ khác không thể đè phẳng được loại giấy này à?”

“Không được, chỉ có đá vỏ chai ở He'ershingenmosiken mới đè phẳng được, tôi vốn hy vọng có thể cướp lại được nó từ chỗ Lỗ Kim.”

“He’ershingenmosiken, đá vỏ chai?” Bà Rộng vỗ trán, “Tôi có một cái bàn là, chỉ dùng khi là bộ lễ phục đẹp nhất của công chúa, cái bàn là ấy được làm ở vùng He'ershingenmosiken, chính là làm bằng đá vỏ chai đấy!”

“Có lẽ dùng được.” Họa sĩ Hồn Không gật đầu.

Bà Rộng xoay người chạy đi, lát sau đã cầm một cái bàn là đen bóng trở lại. Bà và công chúa lại mở cuộn giấy ra một đoạn, dùng bàn là đè một góc cuộn giấy xuống sàn, mấy giây sau bỏ ra, góc cuộn giấy quả nhiên đã được đè phẳng.

“Bà che ô cho tôi, để tôi đè phẳng giấy cho!” Họa sĩ Hồn Không nói với bà Rộng. Lúc đưa ô cho bà, ông dặn dò: “Cái ô này phải xoay liên tục để mở ra, hễ gập lại là tôi biến mất luôn!” Thấy bà Rộng cầm ô tiếp tục xoay tròn, mở ra che trên đầu mình, ông mới yên tâm ngồi xổm xuống dùng bàn là đè phẳng cuộn giấy, chỉ có thể làm từng khoảnh, từng khoảnh nhỏ một.

“Không thể làm thêm thanh chống để đỡ cho cái ố này mở ra à?” Công chúa nhìn cái ở xoay tròn hỏi.

“Thưa công chúa, lúc trước cũng có thanh chống đấy chứ.” Họa sĩ Hồn Không vừa cắm cúi dùng bàn là đè phẳng giấy vẽ vừa nói, “Cái ô đen này có lai lịch rất không tầm thường. Trước đây, những họa sĩ khác ở He’ershingenmosiken cũng có kỹ thuật vẽ này, ngoài con người ra, họ cũng có thể vẽ động vật và thực vật vào trong tranh. Nhưng một ngày nọ, có một con rồng từ trong vực sâu bay ra, con rồng đó toàn thân đen như mực, vừa có thể bơi lội dưới biển sâu lại có thể bay lượn trên bầu trời, lần lượt đã có ba vị đại họa sĩ vẽ nó, nhưng nó vẫn có thể bơi lội và bay lượn bên ngoài bức tranh. Về sau, các họa sĩ đã gom tiền thuê một võ sĩ có phép thuật, võ sĩ này dùng một thanh kiếm lửa giết chết con rồng, cuộc chiến đó đã khiến biển ở He’ershingenmosiken sôi trào lên sùng sục. Thi thể con rồng bị thiêu cháy gần hết, tôi thu nhặt được một ít xương cốt từ đống tro tàn ấy, làm ra cái ô này. Mặt ô làm bằng màng cánh của con rồng, nan ô, cán ô và thanh chống đều làm từ xương đen của nó, những viên bảo thạch gắn ở mép ô thực ra là sỏi thận lấy từ quả thận đã cháy đen của con rồng ấy. Cái ô này có thể bảo vệ người ở bên dưới nó không bị vẽ vào trong tranh. Về sau, nan ô bị gãy, tôi từng dùng vài thanh tre để thay vào, nhưng phép thuật của cái ô liền biến mất, sau khi gỡ thanh nan mới đi, phép thuật lại khôi phục. Sau đấy, thử dùng tay đỡ bên trong để ô mở ra cũng không được, bên trong chiếc ô này không thể thêm vào bất cứ vật lạ nào khác, mà giờ thì tôi đã hết mất xương rồng rồi, đành phải xoay thế này để mở ô...”

Lúc này, chiếc đồng hồ ở góc phòng đổ chuông, họa sĩ Hồn Không ngẩng đầu lên nhìn, đã hừng đông, trời sắp sáng tới nơi rồi. Ông cúi nhìn cuộn giấy, phần giấy được đè phẳng thò ra khỏi cuộn giấy, trải phẳng phiu trên sàn nhà không cuộn lại nữa, nhưng chỉ rộng bằng một bàn tay, còn lâu mới đủ vẽ một bức tranh. Ông buông cái bàn là xuống, thở dài.

“Không kịp nữa rồi, tôi còn phải tốn khá nhiêu thời gian để vẽ được xong bức tranh, không kịp nữa rồi, Lỗ Kim có thể vẽ xong bức tranh công chúa bất cứ lúc nào, các người...” Họa sĩ Hồn Không chỉ vào bà Rộng và đội trưởng đội cấm vệ, “Lỗ Kim đã gặp các người chưa?”

“Chắc chắn hắn ta chưa trông thấy tôi đâu.” Bà Rộng nói.

“Lúc hắn vào cung tôi đứng ở đằng xa trông thấy hắn, nhưng tôi nghĩ là hắn chưa, nhìn thấy tôi.” Đội trưởng nói.

“Tốt lắm,” Họa sĩ Hồn Không đứng lên, “Hai người hãy bảo vệ công chúa đến biển Thao Thiết, đi đảo Mộ để tìm hoàng tử Nước Sâu!”

“Nhưng... dù đến được biển Thao Thiết, chúng tôi cũng không thể đặt chân lên đảo Mộ được, ông biết là dưới biển có...”

“Đến đó rồi nghĩ cách sau, chỉ còn một con đường sông này thôi. Trời vừa sáng, tất cả các vị đại thần trung thành với quốc vương sẽ bị vẽ vào trong tranh, quân cấm vệ sẽ bị hoàng tử Cát Băng khống chế, y sẽ soán ngôi, chỉ có hoàng tử Nước Sâu mới ngăn chặn được y.”

“Hoàng tử Nước Sâu trở về hoàng cung, không phải cũng sẽ bị Lỗ Kim vẽ vào trong tranh hay sao?” Công chúa hỏi.

“Yên tâm, không đâu, Lỗ Kim sẽ không vẽ được hoàng tử Nước Sâu. Hoàng tử Nước Sâu là người duy nhất trong vương quốc mà Lỗ Kim không thể vẽ được, may thay, tôi chỉ dạy nó vẽ kiểu phương Tây, chứ không truyền cho nó cách vẽ của phương Đông.”

Công chúa và hai người kia đều không hiểu lời họa sĩ Hồn Không cho lắm, nhưng ông họa sĩ già không giải thích thêm, chỉ nói tiếp: “Mọi người nhất định phải đưa hoàng tử Nước Sâu trở về hoàng cung, giết chết Lỗ Kim, đồng thời tim thấy tranh vẽ công chúa, đốt bức tranh đó đi, công chúa sẽ được an toàn.”

“Nếu cũng tìm được tranh vẽ phụ vương và mẫu hậu...” Công chúa níu lấy họa sĩ Hồn Không, khẩn thiết nói.

Người họa sĩ già chầm chậm lắc đâu, “Thưa công chúa, không kịp nữa rồi, họ đã biến mất, giờ họ chính là hai bức tranh đó đấy, nếu tìm được thì đừng đốt đi, để lại làm tranh thờ.”

Công chúa Hạt Sương choáng váng trước nỗi đau đớn khủng khiếp, nàng ngồi thụp xuống đất, che mặt khóc òa.

“Thưa công chúa, giờ không phải là lúc bi thương, nếu muốn báo thù cho quốc vương và hoàng hậu, thì hãy mau mau lên đường đi thôi!” Người họa sĩ già nói, đoạn quay sang bà Rộng và đội trưởng: “Hai người phải chú ý, trước khi tìm được và thiêu hủy tranh vẽ công chúa, phải luôn che ô cho người, không được rời đi dù chỉ một giây, cũng không được khép ô lại.” Ông cầm lấy chiếc ô từ tay bà Rộng, tiếp tục xoay, “Không thể xoay quá chậm, vì nó sẽ khép lại; cũng không thể xoay quá nhanh, vì cái ố này đã cũ lắm rồi, xoay nhanh quá nó sẽ long ra mất. Cái ô có linh khí, nếu xoay chậm quá nó sẽ phát ra tiếng như tiếng chim hót, hãy nghe thử, là như thế này...” Người họa sĩ già xoay ô chậm lại một chút, trọng lượng của những quả cầu đá gắn ở mép ô kéo mặt ô chầm chậm cụp xuống, phát ra âm thanh như tiếng chim sơn ca, xoay ô càng chậm thì tiếng phát ra càng to. Ông họa sĩ già lại tâng tốc độ xoay ô, tiếng chim kêu nhỏ dần rồi biến mất. “Nếu xoay nhanh quá, nó sẽ phát ra tiếng chuông, giống như thế này...” Ông già tiếp tục tăng tốc độ xoay, có thể nghe thấy một hồi tiếng chuông nhỏ rồi lớn dần, nghe như chuông gió, nhưng gấp gáp hơn, “Được rồi, giờ thì mau che ô cho công chúa.” Ông nói, đoạn đưa chiếc ô cho bà Rộng.

“Ông ơi, chúng ta che chung ô rồi đi khỏi đây nhé.” Công chúa Hạt Sương ngước đôi mắt đẫm lệ lên nói.

“Không được, chiếc ô đen này chỉ có thể bảo vệ một người, nếu hai người bị Lỗ Kim vẽ vào tranh che chung một chiếc ô, họ đều sẽ chết, vả lại còn chết một cách thê thảm hơn: một nửa bị vẽ vào trong tranh, một nửa ở bên ngoài... Mau che ô cho công chúa, kéo dài thêm một giây thì nguy hiểm lại tăng lên một phần, bất cứ lúc nào Lỗ Kim cũng có thể vẽ công chúa vào trong tranh!”

Bà Rộng nhìn công chúa, rồi lại nhìn họa sĩ Hồn Không, do dự.

Ông họa sĩ già nói: “Tôi là người truyền dạy kỹ năng vẽ tranh cho đứa nghiệt chủng ấy, tôi đáng tội chết. Bà còn đợi gì nữa? Muốn nhìn công chúa biến mất trước mắt mình à?”

Câu nói cuối cùng khiến bà Rộng khẽ run rẩy, bà lập tức dời ô sang che phía trên đầu công chúa.

Ông họa sĩ già vuốt chòm râu bạc ung dung cười, nói: “Vậy là đúng rồi, lão đây vẽ tranh cả đời, biến thành một bức tranh cũng coi như là chết xứng đáng. Tôi tin vào tay nghề vẽ tranh của đứa nghiệt chủng ấy, hẳn đó sẽ là một bức tranh đẹp đẽ tinh xảo..”

Cơ thể họa sĩ Hồn Không dần trở nên trong suốt, sau đó biến mất như một làn hơi sương.

Công chúa Hạt Sương nhìn vào khoảng không gian nơi ông họa sĩ già vừa biến mất, lầm bẩm nói: “Được rồi, chúng ta đi thôi, đến biển Thao Thiết.”

Bà Rộng nói với đội trưởng đang đứng ngoài cửa: “Ngươi mau qua đây che ô cho công chúa, để ta đi thu dọn đồ đạc.”

Đội trưởng đón lấy chiếc ô rồi nói: “Phải nhanh lên, giờ bên ngoài toàn là người của hoàng tử Cát Băng, khi trời sáng có thể chúng ta sẽ không ra khỏi hoàng cung được mất.”

“Nhưng cũng phải mang theo chút đồ cho công chúa chứ, công chúa chưa từng đi xa bao giờ, ta phải mang theo áo choàng và giày cho người, còn rất nhiều quần áo, nước uống của người nữa, ít nhất... ít nhất cũng phải mang theo cục xà phòng thơm sản xuất ở vùng He'ershingenmosiken, công chúa không tắm bằng loại xà phòng ấy thì không tài nào ngủ được...” Bà Rộng vừa làu bàu vừa đi ra khỏi căn phòng.

Nửa tiếng sau, trong ánh nắng mai vừa lên, một cỗ xe ngựa gọn nhẹ ra khỏi hoàng cung từ cửa ngách, đội trưởng đội cấm vệ đánh xe, trên xe là công chúa Hạt Sương và bà Rộng đang che ô cho nàng, họ đều đã thay trang phục dân thường. Cỗ xe ngựa nhanh chóng biến mất trong màn sương mù xa xa.

Lúc này, trong hầm ngầm âm u kia, họa sĩ Lỗ Kim vừa hoàn thành xong bức tranh công chúa Hạt Sương, cậu ta nói với hoàng tử Cát Băng, đây là bức tranh đẹp nhất mà cậu ta từng vẽ.

CÂU CHUYỆN THỨ HAI CỦA VÂN THIÊN MINH: BIỂN THAO THIẾT

Sau khi ra khỏi hoàng cung, đội trưởng cấm vệ đánh xe chạy như bay. Ba người đều rất căng thẳng, họ cảm thấy trong màn đêm nhập nhoạng kia, bóng cây cối và đồng ruộng lướt qua đều ẩn chứa nguy hiểm. Trời đã sáng được một chút, cỗ xe chạy lên một ngọn núi nhỏ, đội trưởng đội cấm vệ ghìm cương ngựa lại, họ ngoảnh đầu lại nhìn về phía sau. Mặt đất trải rộng phía bên dưới, con đường đưa họ đến đây tựa như một vạch dài chia thế giới ra làm hai phần tách biệt, ở cuối đường vạch ấy là hoàng cung, đã xa tít chân trời, tựa như một đống đồ chơi xếp gỗ nhỏ bị bỏ quên ở phía đằng xa. Không thấy có truy binh, hiển nhiên là hoàng tử Cát Băng cho rằng công chúa đã không tồn tại trên đời nữa, mà bị vẽ vào trong tranh mất rồi.

Sau đây, họ đã có thể đi thong thả được rồi. Trong khi trời dần sáng, thế giới xung quanh như thể một bức tranh đang được vẽ, thoạt tiên chỉ có những đường nét mông lung và màu sắc mơ hồ, sau đấy, hình dạng đường nét cảnh vật dần trở nên rõ ràng, màu sắc cũng phong phú rực rỡ hơn lên. Vào khoảnh khắc trước khi Mặt trời lên, bức tranh này đã hoàn thành. Công chúa quanh năm sống trong hoàng cung chưa bao giờ thấy được những mảng khối màu sắc tươi sáng rực rõ như thế: từng mảng xanh của thảm cỏ trong rừng và ruộng đồng, từng mảng đỏ tươi và vàng mơn mởn của khóm hoa, mặt hồ phản chiếu sắc bạc của bầu trời buổi sớm mai, màu trắng như tuyết của đàn cừu đi ăn sớm... Lúc Mặt trời lên, cảm giác dường như người họa sĩ vừa bốc lên một nắm bột vàng, hào phóng rải lên khắp bức tranh vậy.

“Bên ngoài đẹp thật, chúng ta cứ như đang ở trong một bức tranh ấy? Công chúa thốt lên.

“Vâng, thưa công chúa, nhưng trong bức tranh này người vẫn sống, còn trong bức tranh kia thì người đã chết rồi? Bà Rộng đang che ô nói.

Câu nói này lại khiến công chúa nhớ đến phụ vương và mẫu hậu đã qua đời, nhưng nàng cố kiềm chế nước mắt rơi, nàng biết giờ đây mình không còn là một cô bé con nữa, nàng cần phải gánh vác lấy trách nhiệm nặng nề của vương quốc rồi.

Họ nói về hoàng tử Nước Sâu.

“Tại sao anh ấy lại bị lưu đày đến đảo Mộ?” Công chúa hỏi.

“Mọi người đều nói hoàng tử là quái vật.” Đội trưởng đội cấm vệ nói.

“Hoàng tử Nước Sâu không phải là quái vật!” Bà Rộng phản bác.

“Mọi người nói ngài là người khổng lồ.”

“Nước Sâu không phải là người khổng lồ! Hồi hoàng tử nhỏ ta còn bế hoàng tử đấy, hoàng tử không phải là người khổng lồ.”

“Đợi chúng ta đến bờ biển bà sẽ thấy, chắc chắn hoàng tử là người khổng lồ, rất nhiều người đều nhìn thấy rồi”

“Cho dù Nước Sâu là người khổng lồ, anh ấy cũng là hoàng tử, tại sao phải bị đày lên đảo?” Công chúa hỏi.

“Hoàng tử không bị đi đày, hồi nhỏ hoàng tử ngồi thuyền lên đảo Mộ câu cá, vừa hay lúc đó lũ cá Thao Thiết xuất hiện ở ngoài biển, hoàng tử không trở về được, đành phải ở trên đảo.”

Sau khi Mặt trời mọc, người và xe ngựa trên đường dần nhiều lên. Vì công chúa trước đây gần như chưa bao giờ ra khỏi hoàng cung, nên mọi người đều không nhận ra nàng, nhưng mặc dù giờ nàng đang đeo mạng che mặt, chỉ lộ ra đôi mắt, những người trông thấy thảy đều trầm trồ kinh ngạc trước sắc đẹp của nàng. Người ta cũng ca ngợi vẻ anh tuấn và uy vũ của chàng trai đánh xe, cười cợt bà lão đang che trên đầu cô con gái xinh đẹp chiếc ô kỳ dị bằng cách thức cũng kỳ dị không kém. Cũng may, không ai nghi ngờ gì về tác dụng của chiếc ô, hôm nay Mặt trời rực rỡ, tất cả đều chỉ nghĩ đây là ô che nắng bình thường.

Bất giác đã đến trưa, đội trưởng đội cấm vệ dùng cung tên bắn hạ hai con thỏ làm bữa trưa. Ba người ngồi trên khoảng đất trông giữa những thân cây ven đường dùng bữa. Công chúa Hạt Sương vuốt ve thảm cỏ mềm mại bên cạnh mình, ngửi mùi thơm mát của cỏ xanh và hoa tươi, ngắm nhìn những đốm nắng len qua kẽ lá gieo trên mặt cỏ, lắng nghe tiếng chim hót trong rừng và tiếng sáo của mục đồng xa xa, nàng hết sức ngạc nhiên và tò mò trước thế giới hoàn toàn mới mẻ này.

Bà Rộng thở dài: “Ôi, công chúa ơi, đi xa khỏi hoàng cung thể này, thật khổ cho công chúa quá.”

“Ta thấy bên ngoài còn tốt hơn trong hoàng cung.” Công chúa nói.

“Công chúa của tôi ơi, bên ngoài làm sao hơn được trong hoàng cung chứ? Công chúa không biết đâu, bên ngoài nhiều khó khăn lắm, giờ đang là mùa xuân, chứ mùa đông ở bên ngoài trời sẽ lạnh, mùa hè sẽ nóng, bên ngoài sẽ có gió có mưa, bên ngoài loại người gì cũng có, bên ngoài..”

“Nhưng trước đây ta chẳng biết gì về thế giới bên ngoài cả. Ta ở trong hoàng cung học âm nhạc, hội họa, thơ ca và toán, lại còn học hai loại ngôn ngữ mà chẳng ai nói cả, nhưng không ai nói cho ta biết bên ngoài là như thế nào, vậy thì ta làm sao có thể trị vì vương quốc đây?”

“Công chúa, các vị đại thần sẽ giúp đỡ người”

“Các đại thần có thể giúp ta đều bị vẽ vào trong tranh hết rồi... Ta vẫn cảm thấy bên ngoài tốt hơn.”

Từ hoàng cung đến bờ biển phải đi mất một ngày đường, nhưng đoàn người của công chúa không dám đi đường lớn, mỗi khi gặp thành thị họ đều đi vòng qua, vì vậy mãi đến nửa đêm mới tới nơi.

Công chúa Hạt Sương chưa từng thấy bầu trời sao mênh mông như thế, cũng là lần đầu tiên cảm nhận được sự tĩnh lặng và tối tăm của ban đêm, ngọn đuốc trên xe ngựa chỉ chiếu sáng được một khoảng nhỏ. Ở phía xa, thế giới là một mảng nhung đen lớn