CẢNH 3 Nhà Ga Weehawken.-Thứ Tư, Ngày 9 Tháng 9-11 Giờ 58 Tối
Phòng chờ của Đường sắt Bờ Tây ở nhà ga Weehawken có kết cấu hai tầng cũ kỹ nhưng thông thoáng, to rộng như một nhà đậu xe điện của xứ sở Brobdingnag (33)*. Trần nhà phơi bộ khung bằng sắt, những thanh xà bắt chéo qua lại trông khá rối mắt. Phía trên cao và bám chắc vào các vách tường tầng hai là một sàn lửng, có lan can chấn song. Từ sàn lửng này là các hành lang dẫn đến những văn phòng nhỏ. Mọi thứ đều được sơn một màu trắng xám đơn điệu đầy bụi bặm.
Cái xác sũng nước của người nhân viên bán vé xe điện Charles Wood được đưa vào bằng tấm vải bạt, vẫn còn lướt thướt nước sông, đi qua gian phòng chờ bốn bề âm thanh vang vọng, rồi được đưa lên lầu dọc theo sàn lửng đến văn phòng của viên trưởng ga. Bản thân phòng chờ đã được cảnh sát New Jersey trưng dụng và đưa hết khách chờ tàu ra nơi khác, số hành khách từ khoang mạn nam của phà Mohawk thì om sòm huyên náo khi bị xua qua hàng rào cảnh sát vào đến phòng chờ. Tại đây, dưới sự canh giữ họ phải chờ đợi công tác thẩm tra của thanh tra Thumm và công tố viên Bruno.
Riêng chiếc phà Mohawk đã được Thumm ra lệnh nhân viên bến phà buộc xích lại. Lịch chạy phà nhanh chóng được điều chỉnh sau cuộc thảo luận của nhân viên quản lý bến phà; những chiếc phà đến và đi trong sương mù; dịch vụ đường sắt vẫn được phép tiếp tục bình thường, nhưng người ta cho dựng tạm một phòng vé ngay bên trong mái che tàu hỏa, còn khách đi tàu thì phải chịu khó lên tàu qua phòng chờ của khách đi phà. Chiếc phà Mohawk bị bỏ không, vẫn còn sống động với ánh đèn, giờ đây đen kịt những là cảnh sát và thám tử; ngoại trừ nhân viên quản lý và cảnh sát, không ai được phép bước lên phà. Bên trong phòng trưởng ga trên lầu một, nhóm người đứng quanh cái xác đặt ở tư thế nằm nghiêng. Công tố viên Bruno thì tất bật bên chiếc máy điện thoại. Cú đầu tiên ông gọi đến nhà riêng của công tố viên Rennells quản hạt Hudson. Ông trình bày vắn tắt qua dây nói rằng người chết vốn là một nhân chứng ở vụ án mạng Harley Longstreet tại New York - là địa bàn thuộc thẩm quyền của ông, Bruno - đồng thời đề nghị được phép tổ chức điều tra sơ bộ về chính bản thân cái chết của Wood, mặc dù trên nguyên tắc thì ông này bị chết trong địa phận của New Jersey. Rennells ưng thuận, lập tức Bruno thông báo về trụ sở cảnh sát New York. Thanh tra Thumm chộp lấy điện thoại ra lệnh tăng cường thêm thám tử từ New York.
Ngài Drury Lane ngồi im lặng trên một chiếc ghế chăm chú nhìn đôi môi của Bruno, ngắm gương mặt trắng bệch của John DeWitt đang mím chặt môi - đang bị bỏ mặc ở một góc phòng - và quan sát cơn cuồng nộ lạnh giá của thanh tra Thumm.
Chờ Thumm cắt máy, Lane lên tiếng: “Ngài Bruno.”
Vị công tố viên, nãy giờ đã kéo lại cái chân của tử thi và đang trầm tư nhìn xuống cái chiều dài kinh khủng của nó, liền ngoái cổ về phía Lane; mắt lóe lên một tia hy vọng lạ lùng.
“Này ngài Bruno,” Drury Lane nói, “ngài đã xem xét cẩn thận chữ ký của Wood chưa - chữ ký trên tấm thẻ của ông ta ấy?”
“Ý ngài là sao?”
“Tôi trộm nghĩ,” Lane điềm đạm giải thích, “việc chứng minh, một cách dứt khoát rõ ràng, danh tính tác giả nặc danh của lá thư ấy là quan trọng vô cùng. Thanh tra Thumm xem chừng cho đấy là chữ ký của Wood và bút tích trên lá thư cũng giống vậy. Riêng tôi hoàn toàn tôn trọng ý kiến ngài ấy, song thiết nghĩ, sẽ yên tâm chắc chắn hơn nếu một nhà chuyên môn kiểm chứng lại việc này.”
Thumm tươi cười với vẻ xóc xiểm. “Vẫn thế thôi, ngài Lane à. Không nên chuốc phiền làm chi cho khổ thế.” Ông quỳ xuống bên cái xác của Wood và chẳng chút xót thương gì hơn so với một hình nộm nhồi bông, ông thọc tay khắp túi áo túi quần của người đã chết. Cuối cùng ông đứng lên cùng hai mảnh giấy nhăn nheo ẩm ướt. Một là báo cáo tai nạn theo mẫu của đường sắt đại lộ Thứ Ba, mô tả cẩn thận một vụ va quệt nhỏ với một phương tiện lưu thông trên đường chiều hôm ấy, bên dưới có chữ ký. Mảnh giấy kia là một phong thư đã niêm phong có dán tem. Thumm xé thư ra, đọc rồi trao cho Bruno, ông này quét mắt dọc tờ giấy rồi chuyển nó sang cho Lane. Đó là một yêu cầu xin bài vở về khóa hàm thụ khoa công trình giao thông vận tải. Lane nghiên cứu chữ viết và chữ ký ở cả hai tờ giấy.
“Ngài Bruno, ngài có tờ thư không chữ ký đấy không?”
Bruno lục lọi sâu trong các ngăn ví moi ra lá thư. Lane trải cả ba tờ giấy lên bàn, chăm chú dò đi dò lại bằng sự tập trung không chớp mắt, lát sau ông mỉm cười trao hết lại cho Bruno.
“Tôi xin lỗi, thưa ngài thanh tra,” ông nói. “Cả ba được viết bởi cùng một người, không nghi ngờ gì nữa. Và vì ta biết Wood viết báo cáo tai nạn và viết thư gửi trường hàm thụ, ông ấy hẳn cũng là tác giả lá thư nặc danh của chúng ta… Tuy nhiên, thiết nghĩ điều quan trọng nên có một nhà chuyên môn chứng thực ngay cả ý kiến hùng hồn của ngài thanh tra Thumm đây.”
Thumm gầm gừ quỳ thụp xuống lại bên người chết. Công tố viên Bruno đặt lại ba tờ giấy vào ví rồi với tay nhấc điện thoại một lần nữa. “Bác sĩ Schilling… Bác sĩ đấy à? Bruno đây. Ở nhà ga đường sắt Weehawken, phòng trưởng ga. Đúng, sau bến phà… ngay tức khắc… Ồ! À, cứ xong cái đó rồi đi thật nhanh đến đây… Bốn giờ à? Thế thôi vậy. Tôi sẽ cho người đưa đến nhà xác hạt Hudson rồi anh đến đấy đón để khám nghiệm… Đúng thế, đúng thế, nhất thiết anh phải đích thân làm việc này. Đó là xác Charles Wood, nhân viên bán vé trên chiếc xe điện của vụ Longstreet… Thế nhé. Chào.”
“Xin phép gợi ý thêm được chứ, ngài Bruno?” Từ chiếc ghế đang ngồi, Drury Lane đề nghị vọng sang. “Liệu chăng Wood có trò chuyện hay được trông thấy bởi nhân viên trực phà hay đồng nghiệp nào đó của anh ta ngay trước khi lên phà Mohawk không nhỉ?”
“Linh cảm tuyệt lắm, ngài Lane. Có thể họ vẫn còn đâu bên đó.” Bruno lại nhấc điện thoại gọi sang phía bên New York của tuyến phà.
“Bruno, công tố viên hạt New York đây, đang gọi từ nhà ga Weehawken. Đã có một vụ án mạng tại đây. - Ô, các ông cũng nghe nói rồi à? - Vậy tôi cần hợp tác lập tức… Tốt. Hãy gửi sang đây bất cứ nhân viên trực phà nào có thể đã trông thấy hay trò chuyện với nhân viên bán vé xe điện Charles Wood, số hiệu 2101, hãng Đường sắt đại lộ Thứ Ba, tuyến Crosstown phố Thứ Bốn Mươi Hai, tối nay ấy… Cách đây tầm một giờ, đúng thế… tiện thể, xem thử anh có gọi được một kiểm định viên xe điện nào đó đang ca trực không nhé. Tôi sẽ cho xuồng cảnh sát sang bên ấy.”
Bruno gác máy và phái một thám tử mang lệnh đến viên thuyền trưởng của chiếc xuồng cảnh sát đang buộc neo bên hàng chân cầu cặp mạn cạnh chiếc Mohawk.
“Nào!” Ông xoa tay. “Ngài Lane nè, đang lúc thanh tra Thumm điều tra cái xác, ngài xuống lầu cùng tôi chứ? Có nhiều việc cần làm đấy.”
Lane nhổm dậy, qua khóe mắt ông nhìn DeWitt, nãy giờ lẻ loi thu mình ở góc phòng. “Có lẽ ngài DeWitt đây đi cùng ta được chứ ạ?” Lane nói bằng giọng nam trung vui vẻ. “Quang cảnh đây có chăng chỉ làm ngài ấy phiền não mà thôi, ngài Bruno ạ.”
Mắt Bruno hấp háy sau cặp mắt kính không vành, gương mặt hốc hác của ông cong lại thành nét cười. “Được, tất nhiên rồi. Hãy đi cùng nếu muốn, ngài DeWitt.”
Gã môi giới nhỏ người tóc hoa râm nhìn Lane lụng thụng trong chiếc áo choàng vẻ biết ơn. Gã theo chân hai người ra khỏi gian phòng, họ đi dọc theo sàn lửng rồi theo cầu thang xuống đến phòng chờ.
Vị công tố viên đưa cao tay đột ngột phá tan sự im lặng khi họ đi qua phòng chờ. “Này hoa tiêu phà Mohawk, lối này, tôi muốn trò chuyện một lát với ông, cả thuyền trưởng nữa.”
Hai người đàn ông tách mình ra khỏi nhóm hành khách và lê bước tiến đến.
“Tôi là hoa tiêu, Sam Adams.” Người hoa tiêu là một gã to bè chắc nịch có mái đầu húi cua và vẻ mặt tự tin.
“Đợi tí. Này, Jonas đâu rồi? Jonas!” Viên thám tử thư ký của thanh tra Thumm vội bước đến, sổ ghi cầm sẵn trên tay. “Ghi chép lời khai nào… Thế này Adams, chúng tôi đang tìm cách xác nhận lại nhân dạng của người chết. Cậu đã thấy cái xác lúc đưa lên boong phà chứ?”
“Đúng thế.”
“Hồi nào giờ cậu thấy người này không?”
“Hàng trăm lần rồi.” Gã hoa tiêu kéo kéo chiếc quần của mình một cách ý tứ. “Ông ấy là chỗ quen biết bạn bè với tôi. Tất nhiên đầu ông ấy bị đập nát bét cùng những chỗ khác đại loại như thế, nhưng tôi dám thề có Chúa ông ấy là Charles Wood, người bán vé trên chiếc Crosstown.”
“Cớ gì khiến cậu tin thế?”
Hoa tiêu Adams dỡ chiếc mũ lưỡi trai gãi gãi đầu. “Cớ gì ư, tôi chỉ biết là biết. Cùng vóc ấy, cùng mái tóc đỏ, cùng áo quần ấy - không thể nói chính xác với ngài làm sao tôi biết - tôi chỉ biết là biết, thế thôi. Với lại, hồi tối tôi còn chuyện trò với ông ấy trên phà mà lại.”
“Ô! Vậy ra cậu gặp ông ấy. Ở đâu - buồng hoa tiêu à? Tôi tưởng việc ấy là phạm quy. Kể hết mọi chuyện tôi nghe nào, Adams.”
Adams đặng hắng, vỗ vỗ vào cái ống nhổ gần đó, ném một tia nhìn lúng túng sang gã đàn ông cao lớn, nhợt nhạt, dãi dầm sương gió ngồi bên, đó là viên thuyền trưởng. Rồi anh ta nói: “À, xem nào, tôi quen ông Charley Wood này nhiều năm rồi. Ông ấy qua lại tuyến này gần chín năm còn gì, đúng không Thuyền trưởng?” Viên thuyền trưởng dè dặt gật đầu, ông ta khạc vào cái ống nhổ chính xác đến tuyệt đối. “Charles qua lại sống ở Weehawken đây, tôi đoán vậy, vì ông ấy bao giờ cũng bắt phà qua sông tầm 10 giờ 45 khi hết ca trên xe điện.”
“Khoan đã.” Bruno gật đầu hàm ý với Lane. “Thế ông ấy có bắt chuyến phà 10 giờ 45 tối nay không?”
Gã hoa tiêu chừng như lấy làm phật lòng. “Tôi đang nói thế ấy chứ. Tất nhiên là thế rồi. Ha, dù sao thì, nhiều năm nay ông ấy có thói quen lên boong khách tầng thượng chào hỏi xã giao buổi tối, ông muốn gọi thế cũng được. Ô hô!” Bruno cau mặt, Adams vội nói tiếp. “Dù sao thì, nếu Charley không lên đấy kêu réo chào hỏi buổi tối chắc tôi buồn phiền lắm. Tất nhiên, những đêm ông ấy không có ca làm hoặc ở lại qua đêm bên thành phố thì tôi không gặp ông ta, nhưng nói chung thì hầu như ông ấy luôn bắt phà Mohawk.”
“Rất lý thú,” vị công tố viên nhận xét. “Rất, nhưng mà ngắn gọn nhanh nhanh tí, Adams - cái này đâu phải truyện dài kỳ đâu, cậu biết rồi đấy thôi.”
“Ủa, vậy hả?” Gã hoa tiêu lại luống cuống, gã nói tiếp. “Thôi được. Tối nay Charley bắt chuyến 10 giờ 45, boong khách tầng thượng, mạn phải, giống mọi khi, và ông ấy lớn tiếng gọi tôi: ‘À hoi, nè Sam!’ Ông ấy hô ‘À hoi!’ chủ yếu vì tôi là thủy thủ, ông biết đấy. Ầy, chẳng qua là câu đùa của ông ấy. Ô hô!” Bruno nhe nanh khiến Adams lập tức tỉnh lại. “Thôi được, thôi được, tôi đi luôn vào đề,” gã hấp tấp. “Vậy nên tôi hô lại ‘À hoi!’ Rồi tôi nói ‘sương mù tệ quá, phải không Charley? sền sệt hệt như giọng mụ bồ tôi ấy!” Rồi ông ấy nói chuyện mà như la làng với tôi - mà tôi có thể nhìn thấy ông ấy rõ như đang thấy ngài đây vậy; ông ấy leo lên gần sát buồng hoa tiêu và đèn trong buồng soi sáng mặt ông ấy - ông ấy bảo: ‘Cậu bảo họ chứ, Sam. Tệ hại quá, đúng không?’ và tôi chào, ‘Cuộc sống vẫn thường chứ, Charley?’ Ông ấy đáp, ‘À, thì cũng thế,’ rồi kể, ‘Va phải một con Chewy hồi chiều. Guiness đang lúc lật đật’, ông ấy nói thế. ‘Còn mụ lái xe ấy thì ngốc hết biết,’ ông bảo, rồi nói, ‘Bọn họ đúng chả ra làm sao,’ và…”
Adams giật mình kêu oái lên vì chiếc cùi chỏ nhọn hoắt của viên thuyền trưởng chọc mạnh vào sườn non của gã. “Kể đàng hoàng đi Sam,” viên thuyền trưởng lên tiếng, giọng ông ta vang trầm dội lại khắp nhà. “Bộ mày không thấy lão rồ sẽ gô cổ nếu mày không nói rõ ràng hử?”
Hoa tiêu Adams quay sang sếp của mình. “Ông mà chọc sườn tôi á…”
“Này, này!” Giọng Bruno rít lên. “Yên nào. ông là thuyền trưởng của Mohawk đấy phỏng?”
“Chính tôi,” gã đàn ông cao lớn nhợt nhạt cất giọng vang vang. “Thuyền trưởng Sutter. Hai mươi mốt năm sông nước ”
“Ông có trong buồng hoa tiêu lúc mà cái - à - cuộc nói chuyện này diễn ra không?”
“Đó là cái hang của tôi, thưa ngài, vào phải một đêm sương mờ mịt.”
“Ông trông thấy ông Wood này lúc ông ấy la lối với Adams không?”
“Ông đang hụ còi đấy, thưa ngài.”
“Ông chắc lúc ấy là 10 giờ 45 chớ?”
“Chắc.”
“Ông có gặp lại Wood sau khi ông ấy trò chuyện cùng Adams không?”
“Không. Lần tôi thấy lại là lúc người ta câu ông ấy dưới sông lên.”
“Ông chắc nhân dạng là ông ấy chứ?”
“Tối kể chưa xong mà,” hoa tiêu Adams cất giọng bất mãn xen vào. “Ông ấy còn nói vài chuyện nữa. Ông ấy bảo sẽ không ở lại thêm chuyến nào nữa tối nay - có hẹn, ông bảo, bên kia ở Jersey.”
“Cậu chắc chứ? ông có nghe thế không, thuyền trưởng Sutter?”
“Riêng lần này thì con cá mập lắm lời ấy nói đúng, thưa ngài. Và đó là Wood - gặp lão dễ hàng trăm lần rồi.”
“Adams, cậu bảo ông ấy định không ở lại ‘thêm’ chuyến nào nữa đêm nay. Ông ấy có thói quen nán lại thêm vài chuyến à?”
“Không hẳn là thói quen, nhưng thi thoảng thấy vui, nhất là mùa hè, ông làm hai vòng phà.”
“Vậy thôi, cả hai người.”
Hai gã vừa quay người thì lập tức khựng lại vì âm điệu ra lệnh cất lên từ giọng của Lane. Bruno xoa xoa lên cằm. “Đợi một lát, thưa ngài Bruno,” Lane thân mật. “Cho phép tôi hỏi các ông đây một câu được chăng?”
“Tất nhiên, ngài Lane. Bất cứ gì và bất cứ khi nào ngài muốn.”
“Cảm ơn. Này ngài Adams, thuyền trưởng Sutter.” Hai gã hải hồ há hốc nhìn ông - cái áo thụng, chiếc mũ đen, cây gậy dữ dằn. “Có ai trong các ông thấy Wood rời chỗ ấy trên boong tầng thượng không, chỗ ông ấy đứng lúc trò chuyện cùng các ông đấy?”
“Tất nhiên, tôi thấy,” Adams nói ngay. ”Có tín hiệu, bắt đầu rời bến. Wood vẫy tay với chúng tôi rồi rời đi, trở lại bên dưới mái che của boong khách tầng thượng.”
“Đúng thế,” Thuyền trưởng Sutter ì ầm đế thêm.
“Cụ thể thì từ buồng hoa tiêu nhìn ra, thưa quý ngài, tầm nhìn ra boong thượng được bao nhiêu, kể cả vào lúc sáng đèn?”
Vị thuyền trưởng lại khạc mạnh vào ống nhổ. “Không nhiều. Bọn tôi chả thấy được gì bên dưới mái che boong khách hết. Còn về đêm gặp lúc có sương thì mọi thứ ngoài vùng phản chiếu từ buồng hoa tiêu đều tối thui như cái tủ của Davy ấy. Buồng hoa tiêu xây hình cái quạt, ông biết đấy.”
“Đoạn từ 10 giờ 45 đến 11 giờ 40 các ông không thấy không nghe gì khác chứng tỏ có người trên boong tầng thượng chứ?”
“Nói sao đây, nghe này,” viên thuyền trưởng cáu kỉnh. “Có bao giờ thử ngồi đò qua sông phải đêm sương tối trời chưa hử? Tin tôi đi, ông à, lo tránh va đụng tàu bè đã ứ hơi rồi còn đâu.”
“Tuyệt.” Drury Lane lùi lại. Bruno, trán nhăn mày nhíu, gật đầu tống tiễn hai ông thợ sông nước.
Ông leo lên đứng trên một trong những chiếc ghế băng phòng chờ rồi cất cao giọng: “Chú ý, ai trông thấy cái xác rơi từ boong phà tầng thượng bước lên cả đây!”
Sáu người lưỡng lự nhìn nhau, rồi ngập ngừng bước qua gian phòng đến đứng bối rối dưới ánh mắt dò xét chẳng lấy gì làm thân thiện của Bruno. Tất cả, như có tập dượt từ trước, đều cất lời đồng thanh một lúc.
“Từng người một, từng người một,” Bruno vội cắt lời và nhảy khỏi băng ghế. Ông hướng ánh mắt đến một ông nhỏ người tròn trịa có mái tóc vàng hoe và cái bụng phệ. “Ông đấy, ông tên gì?”
“August Havemeyer, thưa sếp,” gã người nhỏ thó hồi hộp trả lời. Gã đội chiếc mũ tròn trông như dân làm bàn giấy, cổ đeo cà vạt đen sợi mảnh; y phục lùi xùi và nhem nhuốc. “Tôi là thợ in, đang tan sở về nhà.”
“Thợ in tan sở về nhà.” Bruno lắc lư bằng gót chân. “Được rồi, Havemeyer, anh có thấy một hình người đàn ông rơi từ boong trên khi chiếc phà vào bến không?”
“Có, thưa sếp, có.”
“Lúc ấy anh ở đâu?”
“Tôi đang ngồi trong gian phòng đó của chiếc phà, khoang hành khách ấy, và tôi đang ngồi trên băng ghế nhìn ra cửa sổ,” gã người Đức vừa nói vừa liếm cặp môi bọng mỡ. “Ngay khi con tàu bắt đầu đi vào cầu giữa những… những khúc cây bự ấy.
“Hàng cọc chân cầu à?”
“Đúng thế, hàng cọc chân cầu. Ngay lúc ấy tôi thấy vật bự bự đen đen, nó trông như - có vẻ tôi thấy như khuôn mặt gì gì đó nhưng nó mờ mờ không rõ - rơi xuống ngoài cửa sổ đối diện từ đâu đó tầng trên. Nó, nó kêu một cái rốp…” Havemeyer quệt một giọt mồ hôi từ môi trên run run của gã. “Nó diễn ra nhanh quá…”
“Và đó là tất cả những gì anh thấy?”
“Vâng, thưa sếp. Tôi la lên, ‘Có người rơi xuống nước!’ và chừng như những người khác cũng thấy vì ai nấy bắt đầu la lên…”
“Phần anh xong rồi, Havemeyer.” Gã nhỏ người thở phào lùi lại. “Nào, các vị, mọi người có nhìn thấy giống thế không hử?”
Tất cả đồng thanh la có.
“Có ai thấy gì khác không, thấy qua khuôn mặt lúc nó rơi chẳng hạn?”
Không có tiếng trả lời. Ai nấy nhìn nhau ngờ vực.
“Tốt lắm. Jonas! Lấy tên tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ.” Viên thám tử bước vào giữa thẩm vấn từng người trong sáu hành khách còn lại bằng mấy câu hỏi đơn điệu tẻ nhạt.
Havemeyer nói trước, cung cấp địa chỉ, rồi tất tả lẫn vào giữa đám người. Người thứ nhì là một gã người Ý lam lũ nhỏ thó vận bộ đồ vải bóng màu đen, đội chiếc mũ lưỡi trai văn phòng, Guiseppe Salvatore, thợ đánh giày trên phà. Theo lời gã kể lại thì lúc ấy gã đang đánh giày cho một người đàn ông, mặt hướng ra cửa sổ. Kẻ thứ ba là một bà lớn tuổi nhỏ nhắn người Ai Len ăn mặc lôi thôi vá chằng vá đụp, bà Martha Wilson, kể là trên đường xong việc về nhà, là người quét dọn mướn cho một tòa nhà văn phòng ở Quảng trường Thời Đại; bà ngồi kế Havemeyer và đã mục sở thị giống hệt như vậy. Người thứ tư, Henry Nixon, là một gã đàn ông cao lớn bảnh bao diện một bộ comple kẻ ô diêm dúa. Theo lời khai, gã làm nghề bán hàng rong các mặt hàng kim hoàn rẻ tiền, đang lúc nhàn tản qua khoang phà thì ngoài cửa sổ cái xác rơi xuống một cái ầm. Cuối cùng là hai cô gái trẻ, May Cohen và Ruth Tobias, nhân viên công sở, về nhà ở New Jersey sau khi xem kịch ở Broadway, ‘một sô diễn sống động cuồng nhiệt’ theo lời các cô; lúc cái xác rơi xuống họ chỉ mới kịp nhổm người khỏi ghế gần Havemeyer và bà Wilson.
Bruno phát hiện, trong suốt chuyến đi, không ai trong sáu hành khách này thấy một người mang đồng phục nhân viên bán vé xe điện, lại là người đàn ông tóc đỏ. Ai nấy đều xác nhận rằng họ bắt chuyến phà 11 giờ 30 từ bờ New York. Mọi người đều bác bỏ chuyện leo lên thăm viếng boong trên, bà Wilson còn xác nhận là mình chưa hề - chuyến phà là quá ngắn - lại nữa, theo lời bà kể, thời tiết thì ‘chẳng ra thể thống gì.’
Bruno cho sáu hành khách tập trung trở về đám đông hành khách phía bên kia, ông theo họ để kiểm tra nhanh những người ở đó. Ông chẳng khám phá được gì. Không hành khách nào trông thấy một người bán vé xe điện có mái tóc đỏ. Không hành khách nào leo lên chơi ở boong trên. Ai nấy nói chắc chỉ lên phà cho một chuyến, rời bến lúc 11 giờ 30 từ bờ New York.
Lúc Bruno, Lane và DeWitt đều bước lên lầu trở lại phòng trưởng ga, họ thấy thanh tra Thumm, giữa đám người của mình, đang ngồi trên một chiếc ghế và trừng trừng nhìn xuống cái xác rách bươm từng là Charles Wood. Thấy họ vào Thumm đứng bật dậy, soi mói nhìn vào DeWitt, vừa mở miệng định nói rồi lại thôi, rồi bắt đầu đi qua đi lại trước cái xác nằm sõng sượt, hai tay chắp sau lưng siết chặt đầy bức bối.
“Này Bruno,” ông hạ giọng, “tôi có chuyện cần nói riêng với anh.” Lỗ mũi của vị công tố viên phập phồng; ông bước đến bên Thumm và hai người bắt đầu thì thào to nhỏ, chốc chốc Bruno lại ngước mắt dò xét vẻ mặt DeWitt. Cuối cùng ông gật đầu dứt khoát rồi bước đến tựa vào chiếc bàn.
Thumm nện bước chân chắc nịch lên sàn nhà, giương bộ mặt xấu xí của ông một cách dữ tợn rồi tấn công thẳng vào DeWitt. “DeWitt, ban tối ông lên chiếc Mohawk lúc mấy giờ? Ông bắt phà đi đâu?”
DeWitt vươn người hết mức chiều cao thiếu thốn của mình; từng sợi từng sợi trong hàm ria chổi xể của gã dựng lên tua tủa. “Trước khi tôi trả lời, thanh tra Thumm, vui lòng nói tôi biết ông có quyền gì hỏi đến chuyện đi lại của tôi?”
“Làm ơn đừng cố tình làm khó bọn tôi, ngài DeWitt,” vị công tố viên cất lời bằng giọng điệu khác thường.
DeWitt chớp mắt; tia nhìn của gã tìm cách đọc ý tứ trên nét mặt của Drury Lane nhưng người diễn viên không hề biểu lộ dấu hiệu gì dù là tán thành hay phản đối. Nhún vai, DeWitt quay lại nhìn Thumm. “Được lắm, tôi bắt chuyến phà 11 giờ 30.”
“11 giờ 30? Thế có chuyện gì mà ông lại về nhà muộn thế?”
“Tôi sinh hoạt buổi tối dưới phố tại câu lạc bộ của tôi, Câu lạc bộ Chứng khoán. Lúc gặp nhau trên phà tôi đã bảo ông vậy rồi.”
“Tất nhiên, tất nhiên ông đã nói thế.” Thumm nhét một điếu thuốc lá vào khóe miệng. “Thế ông có lên xuống lúc nào đó ở boong khách tầng trên chiếc Mohawk trong thời gian mười phút đi phà qua sông không?”
DeWitt cắn môi. “Lại nghi ngờ nữa sao, thanh tra? Không.”
“Ông có nhìn thấy người bán vé xe điện Charles Wood trên chuyến phà ấy không?”
“Không.”
“Thế nếu thấy thì ông có nhận ra đấy là ông ấy không?”
“Tôi nghĩ vậy. Tôi đã nhiều lần thấy ông ấy trên chiếc Crosstown. Thêm nữa, vụ điều tra Longstreet khiến tôi càng nhớ kỹ ông ấy. Nhưng tôi đoan chắc với ông là tối nay tôi không thấy ông ấy.”
Thumm lôi ra một tép diêm giấy, tước một cọng, đánh lửa và châm thuốc bằng động tác thật cẩn thận. “Vào tất cả những lần ông gặp Wood trên chiếc xe điện của ông ấy, có khi nào ông trò chuyện cùng ông ấy không?”
“Kính thưa ngài thanh tra kính mến.” DeWitt chừng như cười cợt.
“Có hay không?”
“Đương nhiên là không.”
“Vậy là ông chỉ thường thấy ông ấy, chứ chưa hề trò chuyện, cũng không thấy ông ấy lúc tối nay… Thôi được, DeWitt. Giờ vầy, lúc tôi đặt chân lên phà trước đó chưa lâu thì ông vừa định đi. Ông biết thừa trên phà có xảy ra tai nạn, bộ ông chả buồn tò mò nán lại xem xem chuyện gì xảy ra sao?”
Nụ cười nhạt dần rồi mất hẳn trên môi DeWitt, mặt gã đanh lại cau có. “Không. Tôi mệt, đang rất muốn về nhà.”
“Mệt và rất muốn về nhà,” Thumm dài giọng. “Lý do hay quá còn gì, có trời mới biết… DeWitt, ông có hút thuốc không?”
DeWitt nhìn sững. “Hút thuốc á?” Gã tức giận lặp lại. Quay sang vị công tố viên, gã cao giọng. “Này ngài Bruno, chuyện ấu trĩ gì đây, tôi phải chịu sự thẩm vấn bá vơ thế này ư?”
Bruno nói bằng giọng lạnh nhạt: “Vui lòng trả lời câu hỏi cho.” DeWitt lại đưa mắt nhìn Drury Lane, rồi một lần nữa DeWitt lại nhìn quanh một cách bất lực.
“Có,” gã từ từ nói, đôi mi mắt mỏi mệt của gã gợn lên điều gì đó kinh hoảng, “có.”
“Thuốc lá à?”
“Không. Xì gà.”
“Ông có mang theo đấy chứ?”
DeWitt nín lặng cho tay vào túi ngực áo khoác lấy ra một chiếc hộp đựng xì gà bằng da sang trọng, có chữ cái đầu tên khảm vàng nắn nót. Gã trao chiếc hộp cho viên thanh tra, Thumm rút nắp hộp, lấy ra một trong ba điếu xì gà bên trong rồi tỉ mỉ xem xét điếu thuốc. Trên điếu thuốc có nhãn tem mạ vàng in hàng chữ J. O. DeW. “Nhãn hiệu đặt riêng hở, DeWitt?”
“Phải. Hãng Huengas của Havana sản xuất đặc biệt dành riêng cho tôi.”
“Những cái vòng nhãn tem nữa?”
“Tất nhiên.”
“Nhãn tem cũng do Huengas lồng vào à?” Thumm hỏi gặng.
“Thật dớ dẩn quá,” DeWitt nói từng tiếng. “Mục đích của việc hỏi han cắc cớ kiểu này là cái gì vậy hử? Suy nghĩ của ông đã sâu, lại tối, và đặc nữa, ngài thanh tra ạ. Vâng, Huengas lồng nhãn tem vào từng điếu xì gà, đóng hộp, gửi hàng cho tôi bằng đường biển, vân vân và vân vân. Cho tôi hỏi nhé: Ông hỏi làm chi vậy?”
Không buồn đáp lời, thanh tra Thumm bỏ điếu xì gà trở lại vào hộp rồi cất biến vào một trong những cái túi không đáy của ông. Gương mặt DeWitt tối sầm lại vì hành động cố tình biển thủ này nhưng vươn thẳng thân hình bé nhỏ một cách bất cần, gã không nói nửa lời.
“Một câu nữa thôi, ngài DeWitt,” viên thanh tra lại bắt đầu bằng điệu bộ ái hữu nhất trên đời. “Đã bao giờ ông mời người nhân viên bán vé Wood điếu xì gà nào như vầy không, trên xe điện hay bất kỳ nơi nào khác ấy?”
“Raaa thế,” DeWitt dài giọng. “Hóa ra là thế.” Không ai nói gì. Trên môi còn vắt vẻo cọng xì gà đã tàn, Thumm giương ánh mắt hùm beo chòng chọc nhìn vào gã môi giới. “Rốt cục,” DeWitt dằn lòng nói tiếp, “Rốt cục là tôi bị chiếu tướng đây, phải thế không hở ngài thanh tra? Ông chơi sáng nước đấy. Không, xưa giờ tôi chưa bao giờ mời tay bán vé Wood điếu xì gà nào như vậy cả, trên xe điện cũng như bất cứ đâu khác.”
“Được đấy, DeWitt, giỏi lắm,” Thumm buông tràng cười ha hả. “Vì tôi tìm thấy trong túi áo gilê của người chết một trong những điếu xì gà mang nhãn hiệu đặc biệt của ông, nhãn tem in tên viết tắt của ông!”
DeWitt gật đầu chua chát, như rằng gã đã liệu trước câu nói này. Gã mở miệng, rồi ngậm lại, rồi lại mở miệng cất tiếng rầu rầu: “Vậy là tôi hiểu rằng tôi đây sẽ bị bắt vì đã ám sát người đàn ông ấy?” Nói rồi gã cười, một tiếng cười khùng khục bối rối, rời rạc của một ông già. “Tôi chắc mình không phải đang mơ? Một điếu xì gà của tôi trên người bị ám sát!” Gã thả mình rơi phịch xuống một chiếc ghế gần đó.
Bruno trịnh trọng: “Chưa ai nói gì chuyện bắt bớ cả, ngài DeWitt.”
Đúng lúc này một nhóm người hiện ra ở cửa, dẫn đầu là một người vận đồng phục đại úy cảnh sát. Bruno ngừng nói, ông đưa mắt hỏi viên sĩ quan, ông này gật đầu rồi bỏ đi.
“Các cậu vào đi nào,” Thumm dịu giọng.
Những người mới đến kẻ trước người sau khẽ khàng bước vào. Một người là anh chàng người Ai Len, Patrick Guiness, người lái chiếc xe điện đã xảy ra vụ án mạng Longstreet. Người thứ hai là một ông già gầy guộc, ăn vận xoàng xĩnh đầu đội mũ lưỡi trai, xưng tên mình là Peter Hicks, nhân viên trực phà phía bên bờ New York. Người thứ ba là kiểm định viên xe điện khuôn mặt dạn dày nắng gió. Ông ta cho biết trạm làm việc của mình nằm ở điểm cuối của tuyến Crosstown, ngay bên ngoài bến phà ở cuối phố Thứ Bốn Mươi Hai.
Phía sau họ, nhiều thám tử lố nhố hiện ra, trong số này có cả trung úy Peabody, lù lù sau lưng Peabody là đôi vai to bè của trung sĩ Duffy. Mọi cặp mắt theo bản năng đều đổ dồn vào cái xác chết nằm trên tấm vải bạt.
Guiness chỉ liếc nhìn một lần vào thi hài của Wood, anh ta cố hết sức chịu đựng rồi quay đi bằng ánh mắt sợ hãi. Anh ta chừng như muốn ói.
“Guiness, cậu có nhận ra được người này không?” Bruno hỏi.
Guiness lẩm bẩm: “Chúa ơi, trông đầu ông ta kìa… Đó là Charley Wood, đúng thế.”
“Cậu chắc chứ?”
Guiness đưa ngón tay run rẩy chỉ vào chân trái của tử thi. Sự cọ xát giữa mạn phà và hàng cọc cầu tàu đã làm chiếc quần bị xé toạc, rách bươm, chân trái bị phơi trần ra ngoài chỉ trừ đoạn mang giày và bít tất. Dọc theo bắp chân lộ rõ một phần của vết sẹo kéo dài và biến mất ở đoạn che bít tất. Vết sẹo này vừa cong vừa xoắn - một vết thương cũ thành sẹo, giờ đây thâm tím màu người chết.
“Cái sẹo,” Guiness nói bằng giọng khàn khàn. “Tôi thấy nó suốt. Charley mang nó ra khoe với tôi lần đầu khi ông vào làm cho hãng dịch vụ xe khách, ngay cả trước khi tôi với ông ấy được chuyển sang tuyến Crosstown. Ông ấy bảo tôi vết sẹo này do bị tai nạn cách đây đã rất nhiều năm.”
Thumm tuột chiếc bít tất ra khỏi chân để lộ ra toàn bộ vết sẹo trông thật kinh khủng. Nó chạy dài từ một điểm ngay bên trên mắt cá đến ngay dưới đầu gối, uốn cong nửa đường quanh bắp chân. “Cậu có quả quyết đó đúng là cái sẹo cậu đã thấy không đấy?” Thumm hỏi.
“Đó là vết sẹo ấy, đúng thế,” Guiness trả lời yếu ớt.
“Được rồi, Guiness.” Thumm đứng dậy phủi đầu gối. “Giờ đến lượt ông, Hicks, có gì để nói về hành tung của Wood lúc tối không?”
Ông già nhân viên trực phà gầy guộc gật đầu. “Hẳn rồi, thưa sếp. Tôi biết Charley khá rõ, gần như tối nào cũng bắt phà, thường dừng lại trò chuyện với tôi. Lúc tối khoảng mười giờ rưỡi, Charley vào cửa chờ phà và như thường lệ chúng tôi chào hỏi nhau, ông ấy trông có vẻ hơi lo lắng gì đó, giờ tôi mới nghĩ ra. Bọn tôi chỉ qua loa dăm câu rồi thôi.”
“Ông chắc về thời gian chứ - 10 giờ 30 hả?”
“Có, tôi chắc. Tôi phải theo dõi thời gian mà, phà chạy có giờ cả đấy, thưa sếp.”
“Các ông trò chuyện gì thế?”
“À, ờ,” Hicks chép chép cặp môi dày trịch, “bọn tôi trò chuyện ông ấy mang chiếc túi xách của mình, còn tôi hỏi có phải đêm rồi ông ấy ở lại phố như mọi khi - ngài biết mà, thi thoảng ông ấy ở lại qua đêm trong thành phố và mang theo ít quần áo sạch - nhưng ông ấy bảo không, đấy chỉ là cái túi cũ ông ấy mua lúc nghỉ giữa ca hôm nay; tay cầm của cái cũ bị đứt rồi. Rồi…”
“Túi xách đấy loại gì hả?” Thumm hỏi gấp.
“Xách đấy loại gì ấy à?” Hicks bặm môi. “Ai biết nó có gì đặc biệt đâu mà nói hả sếp. Chỉ là một cái túi đen rẻ rề giá một đồng ông mua đâu chả có. Vuông, kiểu thế.”
Thumm ra hiệu cho trung úy Peabody. “Xuống lầu xem hành khách dưới phòng chờ ai có túi xách giống cái Hicks vừa tả không, rồi cho triển khai lục xét chiếc Mohawk tìm cái túi xách như mô tả. Boong tầng thượng, buồng hoa tiêu, và tất cả. Từ trên xuống dưới; rồi bảo mấy cậu trên xuồng cảnh sát tìm ngoài sông xem, biết đâu chừng bị ném xuống sông, hay có thể bị rơi xuống sông cũng nên.”
Peabody từ tốn đi ra. Thumm lại quay sang Hicks, định mở lời thì Drury Lane nhã nhặn cất tiếng: “Xin mạn phép, thưa ngài thanh tra… Hicks, liệu đang lúc nào đó Wood có hút một điếu xì gà trong khi ông trò chuyện chăng?”
Hicks trố mắt nhìn cái ông thẩm vấn đương không như ma quỷ hiện hình này. Tuy vậy ông gần như đã sẵn câu trả lời. “Có chứ. Thực tình tôi có hỏi Charley xin một điếu, xì gà Cremos ông ấy hút là loại tôi hơi ghiền. Tóm lại, ông ấy lục lọi túi quần túi áo…”
“Cả túi gilê nữa, đúng không Hicks?” Lane nói.
“Đúng đấy, túi gilê và tất tật, rồi ông ấy bảo: ‘Ôi, không, chắc hết rồi, Pete. Tôi hút đây là điếu cuối mất rồi.”
“Câu hỏi hay đấy, ngài Lane,” Thumm khen chẳng lấy gì làm thật lòng. “Ông chắc đó là điếu xì gà Cremos chứ, Hicks, ông ấy không dùng loại nào khác đấy chứ?”
Hicks buồn rầu: “Tôi chỉ vừa bảo ngài đây rồi mà sếp.”
DeWitt vẫn cúi gằm; gã ngồi vậy như đã hóa đá. Nhìn vào đôi mắt vừa đầy nước vừa đỏ ngầu của gã không ai nói chắc liệu gã có nghe thấy gì từ những lời hỏi đáp qua lại nãy giờ chăng.
“Guiness,” Thumm cất tiếng, “Wood có mang theo chiếc túi xách này lúc ông ấy chạy hết chuyến hồi tối nay không?”
“Có, thưa sếp,” Guiness trả lời giọng yếu ớt. “Như Hicks đã nói. Ông ấy xong ca nghỉ tối lúc mười giờ ba mươi. Ông ấy để chiếc túi xếp gọn trên xe suốt buổi chiều.”
“Biết Wood sống ở đâu không?”
“Ở ngôi nhà cho thuê trọ tại Weehawken đây, đại lộ 2075.”
“Có người thân nào không?”
“Tôi nghĩ là không. Chí ít là ông ấy chưa lập gia đình và theo chỗ tôi nhớ thì ông ấy chưa hề nói gì về người thân cả.”
“Còn chuyện nữa, sếp,” gã nhân viên trực phà Hicks chen vào. “Đang lúc Charley cùng tôi trò chuyện, bỗng Charley trỏ một ông nhỏ người từ taxi bước ra, toàn thân mặc đồ ấm, lẩn nhanh vào phòng vé mua một vé phà, bỏ vé vào hộp, băng ngang qua đi vào phòng chờ để đợi phà như rằng ông ấy không muốn ai trông thấy. Charley vẻ tự tin bảo tôi cái ông nhỏ người ấy là ông môi giới, John DeWitt, người bị dính vào vụ án mạng trên xe điện của Charley.”
“Cái gì!” Thumm rống lên. “Và ông bảo lúc ấy khoáng 10 giờ 30 à?” Viên thanh tra quắc mắt nhìn DeWitt, lúc này đã choàng tỉnh, đang ngồi ngả người về phía trước hai tay bám chặt lấy thành ghế. “Tiếp đi, Hicks, tiếp nào!”
“À,” Hicks dài giọng đến phát bực, “Charley xem chừng lo lắng khi thấy cái ông DeWitt ấy.”
“DeWitt có thấy Wood không?”
“Chắc là không. Ông ấy thu lu mãi ở một góc, lẻ loi một mình.”
“Còn gì nữa không?”
“À, tôi phải đi lo nhẹm vụ của mình ngay khi phà đến lúc 10 giờ 40. Tôi có thấy ông DeWitt đó qua cổng đi vào, Charley cũng chào tạm biệt rồi vào luôn.”
“Ông chắc chắn về thời gian chứ, này nhé - nó là chuyến phà rời bến lúc 10 giờ 45 đúng không?”
“Đúng roài,” Hicks nói giọng đã thật sự chán ngấy. “Tôi nói gần cả trăm lần rồi mà lại.”
“Bước sang bên, Hicks.” Thumm đẩy gã nhân viên trực phà và trừng mắt nhìn gã môi giới lúc này đang bối rối vuốt vuốt cái áo khoác. “DeWitt! Nhìn tôi đây.” DeWitt từ từ ngẩng đầu; sự khổ não trong ánh mắt của gã đến cả viên thanh tra cũng giật mình. “Hicks, phải đây là ông mà Wood đã chỉ không?”
Hicks nghển cái cổ gầy nhom của ông ta, chăm chú nhìn nét mặt của DeWitt bằng đôi mắt như mắt loài cá. “Phải,” cuối cùng ông nói. “Phải, là cái ông nhỏ người đó. Thề đấy sếp.”
“Nhiêu đó tốt rồi. Hicks, Guiness, và anh này - kiểm định viên xe điện hử? Giờ chưa cần - mọi người xuống lầu đợi tôi.”
Ba người ngập ngừng rời phòng. Drury Lane bỗng đâu ngồi xuống, tựa người vào đầu gậy và dò xét nét mặt căng thẳng của gã môi giới bằng đôi mắt ưu tư. Tự đâu đó xa xôi, xa trong chiều sâu trong suốt của đôi mắt ấy là một sự bối rối mơ hồ - một sự trì hoãn về phán đoán, một sự nghi ngờ.
“Giờ vậy, thưa ngài John O. DeWitt,” Thumm dằn giọng, mắt lom lom nhìn vào gã đàn ông bé nhỏ, “tôi cho là ông cần giải thích cho bọn tôi đây, làm thế nào mà họ lại thấy ông lên chuyến phà 10 giờ 45, trong khi mới cách đây chưa lâu ông lại bảo là ông bắt chuyến phà 11 giờ 30.”
Bruno hơi giật mình; gương mặt ông trở nên trầm trọng. “Ngài DeWitt, trước khi trả lời, bổn phận tôi đây cần lưu ý cùng ông rằng bất cứ những gì ông nói ra đều có thể được dùng để chống lại ông. Nhân viên tốc ký đây sẽ ghi lại từng từ. Nếu muốn, ông có quyền im lặng.”
DeWitt cố trấn tĩnh, gã rê ngón tay dưới cổ áo, gượng cười đầy vẻ hối tiếc. “Những hậu quả đáng buồn,” ông vừa lầm rầm vừa đứng dậy, “của việc bỡn cợt với sự thật… Vâng, thưa các ngài, tôi đã nói dối. Tôi đã bắt chuyến phà 10 giờ 45.”
“Nghe rõ chưa, Jonas?” Thumm lớn tiếng. “DeWitt, tại sao ông nói dối?”
“Chuyện đó,” DeWitt chậm rãi, “tôi e phải khước từ giải thích. Tôi có cuộc hẹn với một người trên chuyến phà 10 giờ 45, nhưng đây là vấn đề tuyệt đối riêng tư và chẳng dính dáng tí gì đến cái vụ việc tệ hại cùng cực này.”
“Được, ông bảo có cuộc hẹn để gặp ai đó trên chuyến phà 10 giờ 45, vậy thì vì cái lý do ôn dịch gì ông đã ở lại đến tận 11 giờ 40 chứ?”
“Mong ông,” DeWitt nói, “vui lòng tiết chế lời lẽ của mình, thưa ngài thanh tra. Tôi không quen bị người khác nói với mình kiểu này; và nếu ông vẫn cứ vậy, tôi dứt khoát cự tuyệt không nói thêm bất cứ lời nào nữa.”
Nhác thấy cái liếc của Bruno, Thumm kịp nuốt lại câu rủa định tung ra, hít một hơi thật dài rồi hỏi tiếp, lần này bằng giọng điệu bớt hung hãn hơn: “Thôi được. Tại sao?”
“Thế có phải hơn không,” DeWitt nói. “Tại vì người tôi đợi đã không đến vào giờ hẹn. Tôi vẫn ở yên trên chiếc phà ấy qua bốn vòng, bụng nghi ngờ có sự chậm trễ. Đến 11 giờ 40 tôi bỏ cuộc và quyết định về nhà.”
Thumm bật cười. “Bộ ông nghĩ bọn tôi tin vậy chắc? Cái người mà ông đang chờ ấy là ai?”
“Tôi rất tiếc.”
Bruno xua tay về phía DeWitt. “Ngài DeWitt, hãy hiểu cho là ông đang tự đặt mình vào vị thế rất khác thường, ông phải hiểu câu chuyện ông kể ra rất, rất kém thuyết phục, trong hoàn cảnh hiện tại nếu không có thông tin cụ thể, e chúng tôi không chấp nhận được.”
DeWitt mím chặt môi, đôi tay yếu ớt khoanh trước ngực, mắt đăm đăm nhìn vào vách tường.
“Thôi được,” viên thanh tra vặn vẹo, “vậy ông nói xem cuộc hẹn sắp xếp làm sao, lấy gì chứng minh nó, có thư từ hay ai đó chứng kiến cuộc trò chuyện nào không?”
“Chúng tôi hẹn nhau qua điện thoại sáng nay.”
“Ý ông là sáng thứ Tư à?”
“Đúng.”
“Người đó gọi cho ông?”
“Đúng, tại văn phòng của tôi ở Wall Street. Nhân viên tổng đài của tôi không lưu lại những cuộc gọi đến.”
“Ông quen người ấy chứ?”
DeWitt im lặng.
“Và ông nói,” Thumm hỏi tới. “Lý do duy nhất khiến ông lỉnh khỏi phà là do ông mệt vì đợi và quyết định trở về Tây Englewood chớ gì?”
“Tôi e mình không thể mong chờ ông tin thế.” DeWitt nói khẽ.
Những đường huyết quản trên cổ Thumm phồng lên. “Dĩ nhiên là không rồi, quỷ tha ông đi!”
Ông chộp mạnh tay Bruno rồi lôi ông này đến một góc phòng. Hai người đàn ông thì thào hội ý thật căng thẳng.
Ngài Drury Lane thở dài nhắm mắt lại.
Đúng lúc này trung úy Peabody từ phòng chờ trở lại dẫn theo sáu người. Các thám tử hối hả vào phòng trưởng ga mang theo những chiếc túi xách đen rẻ tiền, năm chiếc cả thảy.
Thumm nói nhanh với Peabody: “Nào, sao rồi?”
“Đây là vài chiếc túi xách giống chiếc sếp bảo tôi tìm, và,” Peabody cười, “cả những chủ nhân hồi hộp của chúng.”
“Có bất cứ gì trên chiếc Mohawk chăng?”
“Không thấy chiếc túi nào cả, sếp ạ, cả các cậu trên xuồng cảnh sát cũng chẳng may mắn gì khi tìm kiếm ngoài sông.”
Thumm đến cửa gào lên: “Hicks! Guiness! Lên cả đây nào!”
Gã nhân viên phà và anh chàng lái xe điện đâm bổ lên lầu vào phòng, ai nấy mặt mày hốt hoảng.
“Hicks, nhìn thử mấy cái túi này xem, có cái nào là của Wood chăng?”
Hicks nhìn đi nhìn lại những chiếc túi hành lý trên sàn. “À ha, tôi thấy cái nào cũng thế, không nói chắc được.”
“Còn cậu thì sao, Guiness?”
“Khó nói lắm, cái nào như cũng giống giống cái nào, ngài thanh tra ạ.”
“Thôi được, ra ngoài.” Hai gã đàn ông biến mất.
Thumm quỳ xổm trên đôi mông rắn chắc của mình rồi lôi một chiếc túi mở ra; bà tạp vụ già Martha Wilson liền bật một tiếng rên nhỏ đầy oán giận rồi khụt khịt mũi. Thumm lôi ra một bọc áo quần lao công lem luốc, một hộp đựng đồ ăn trưa và một cuốn truyện bìa mềm. Chán ngấy, ông cầm cái túi tiếp theo. Henry Nixon, người bán hàng, bắt đầu giận dữ phản ứng; Thumm khóa mồm ông ta bằng một vẻ mặt bạo chúa rồi kéo dây mở ra. Bên trong là những chiếc khay bằng giấy bồi bọc vải len, trên đó là những thứ đồ kim hoàn dỏm và đồ nữ trang rẻ tiền cùng một tập đơn hàng để trắng có in sẵn tên người bán hàng. Thumm thảy chiếc túi sang bên rồi cầm cái kế tiếp. Trong chiếc túi này là một cái quần cũ bẩn thỉu và vài thứ đồ. Thumm ngước mắt thì thấy Sam Adams, viên hoa tiêu của chiếc Mohawk, đang nhìn ông bằng vẻ mặt lo lắng.
“Của cậu à?”
“Vâng, thưa sếp.”
Thumm mở hai chiếc túi còn lại: chiếc đầu tiên là của một công nhân bến tàu người da đen tên Elias Jones, bên trong chứa một bộ đồ để thay đổi và một hộp đựng đồ ăn trưa; chiếc thứ hai có ba cái tã lót, một bình sữa còn non nửa, một cuốn sách tạp nhạp, một gói ghim băng và một cái chăn trẻ nít. Những thứ này là của một đôi vợ chồng trẻ, ông bà Thomas Corcoran; anh chồng ẵm trên tay một thằng bé vừa ngái ngủ vừa cẳn nhẳn. Thumm cất giọng làu bàu và thằng bé, sau một cái trố mắt đầy lạ lẫm đã quay sang cựa quậy trên tay người bố, dúi mặt vào vai anh ta rồi bắt đầu gào lên. Tiếng kêu la của nó vang dội đinh tai cả phòng khiến một anh thám tử khẽ bụm miệng khúc khích. Thumm nhe răng cười sốt ruột và để sáu vị hành khách ra về cùng những túi đồ của họ. Drury Lane quan sát thích thú rằng ai đó đã ném vội vài chiếc bao bố rỗng lên trên mình người chết.
Viên thanh tra cũng cho người xuống chỉ thị để anh lái xe Guiness, gã kiểm định viên xe điện và bác nhân viên trực phà Peter Hicks, tất cả đều được ra về.
Một cảnh sát viên vào phòng to nhỏ bên tai Peabody, anh này rên rỉ. “Không có gì ngoài sông cả, sếp à.”
“Hừm, tôi đoán cái túi xách của Wood đã bị ném qua mạn tàu rồi chìm mất tiêu, có lẽ chả còn đâu mà tìm,” Thumm nói thầm.
Trung sĩ Duffy vừa thình thịch lên cầu thang vừa hào hển, trên nắm tay đỏ ửng cầm chặt thếp giấy viết vội. “Tên tuổi và địa chỉ của tất cả những người dưới lầu đây, thưa ngài thanh tra.”
Bruno vội bước đến, ghé mắt qua vai Thumm đọc bản danh sách những hành khách đi phà. Cả ông lẫn Thumm dường như đang tìm kiếm gì đó, họ lần giở và dò từng trang một. Thế rồi họ trao đổi với nhau những tia mắt chúc mừng, và vẻ mặt vị công tố viên đanh lại.
“Ngài DeWitt,” ông bỗng nói, “chắc ông quan tâm muốn biết rằng trong số tất cả những người đi trên chuyến xe điện lúc Longstreet trút hơi thở cuối cùng, duy chỉ mình ông là người có mặt trên chuyến phà tối nay!”
DeWitt chớp mắt, nhìn trống không vào mặt Bruno, và rồi, hơi rùng mình, gã cúi đầu xuống.
“Điều ngài nói, thưa ngài Bruno, có thể là đúng, nhưng tôi lại e ngài sẽ không bao giờ chứng minh được.” Giọng nói điềm tĩnh của Drury Lane vang lên trong sự yên lặng.
“Hả? Cái gì?” Thumm sấn sổ. Bruno cau mày.
“Ngài thanh tra kính mến,” Lane thì thầm, “chắc hẳn ngài để ý rằng một số hành khách đã rời khỏi chiếc Mohawk lúc các ngài và tôi tiến gần đến để lên chiếc phà này khi nghe những tiếng kêu la vọng lên. Ngài đã tính đến chỗ đó chưa?”
Thumm thổi phì môi trên. “Hừ, ta có thể săn lùng họ, đúng không,” ông vênh vang, ”và điều tra hướng đó?”
Drury Lane mỉm cười. “Ngài thanh tra à, liệu ngài sẽ luôn quả quyết đến mức có thể chứng minh được một trường hợp pháp lý? Dựa vào đâu để ngài sẽ luôn biết chắc rằng mình đã tìm thấy được hết bọn họ?”
Bruno rỉ tai với Thumm; một lần nữa DeWitt lại đăm đăm nhìn Drury Lane bằng sự hàm ơn đến đáng thương. Thumm lắc lư thân hình nặng nề của ông, quát tháo một mệnh lệnh với trung sĩ Duffy, viên trung sĩ lập tức biến mất.
Thumm ngoắc ngón tay ra hiệu với DeWitt. “Hãy xuống lầu cùng tôi nào.”
Gã môi giới lẳng lặng đứng lên đi trước viên thanh tra ra khỏi cửa.
Ba phút sau họ quay lại. “Chả ăn thua gì,” ông thì thầm với Bruno. “Không có lấy một hành khách nào nhớ ra hành tung của DeWitt đủ lâu để nói chắc bất cứ gì về gã. Một người dường như nhớ ra gã chỉ ngồi thu lu một mình trong góc một lúc, nhưng DeWitt có nói gã lánh mình vào chỗ khuất vì cú hẹn qua điện thoại ấy của gã đấy thôi. Thật chả ra làm sao!”
“Nhưng đấy là điểm có lợi cho ta, Thumm,” Bruno nói. “Gã không có chứng cớ ngoại phạm cho khoảng thời gian xác của Wood bị ném khỏi boong tầng thượng.”
“Tôi nghĩ giá có gã hành khách nào đó xác thực là đã thấy DeWitt đi xuống những bậc thang đó. Giờ ta làm gì với gã đây?”
Bruno lắc đầu. “Tối nay cứ vậy đã. Gã nào phải những quả bí ngô bé nhỏ, mà ta thì cần tuyệt đối chắc chắn trước khi bắt giữ. Thôi thì cứ cho hai người trông chừng, dù vẫn biết tình hình này gã không lỉnh đi đâu được.”
“Ý anh là ý sếp.” Viên thanh tra bước nhanh qua chỗ DeWitt và nhìn trừng trừng vào mắt gã. “Tối nay vậy là xong, DeWitt, ông có thể tiếp tục về nhà, nhưng vẫn phải giữ liên lạc thường xuyên với Công tố địa hạt đấy.”
Không một lời John DeWitt đứng dậy, vuốt lại áo khoác bằng thói quen, sửa lại ngay ngắn chiếc mũ dạ trên mái đầu hoa râm, đưa mắt nhìn quanh, khẽ cất tiếng thở dài rồi lê bước ra khỏi phòng trưởng ga. Thumm lập tức đưa một ngón trỏ thô kệch ra hiệu, hai thám tử liền vội vàng theo đuôi gã môi giới.
Bruno khoác áo choàng vào. Gian phòng vang lên tiếng xì xào trò chuyện của những gã đàn ông hút thuốc lá. Thumm giạng chân trước người chết rồi cúi xuống gỡ những mảnh bao bố ra khỏi cái sọ dừa đã nát bươm. “Sao ông dốt thế,” ông lầm bầm, “nhẽ ra ông phải chua thêm chí ít là tên của gã X giết người ấy vào cái thư rồ dại của ông mới phải chứ…”
Bruno bước qua phòng nắm lấy bắp tay cuồn cuộn của Thumm. “Thôi nào, kìa Thumm, anh sẽ hóa rồ đấy. Đã chụp hình cái boong tầng thượng ấy chưa vậy?”
“Các cậu ấy giờ đang làm. Thế nào Duffy?” Câu hỏi vang lên vừa lúc viên trung sĩ hổn hà hổn hển bước vào phòng.
Duffy lắc chiếc đầu nặng nề. “Không một dấu hiệu nào về những hành khách đã đào thoát ấy thưa sếp. Thậm chí còn không tra ra được là bao nhiêu người nữa.”
Không ai nói gì một lúc lâu.
“Hừ, chém cha cái vụ án khốn kiếp này đi!” Thumm hét vào khoảng không im lặng, ông xoay qua xoay lại hệt như một con chó đang nổi đóa cố vồ mà vẫn không ngoạm được cái đuôi của nó. “Tôi mang vài người sang chỗ nhà trọ của Wood, Bruno ạ. Anh về nhà hả?”
“Có lẽ tôi cũng đi. Mong là Schilling không bỏ lỡ việc giảo nghiệm đó. Tôi sẽ cùng Lane trở lại.” Ông quay người, đội mũ và tìm nơi Lane đã ngồi.
Gương mặt ông bỗng ngớ ra.
Ngài Drury Lane đã biến mất.