← Quay lại trang sách

MÀN II - CẢNH 1 Phòng Thí Nghiệm - Thứ Hai, Ngày 6 Tháng Sáu - 9:20 A.M

Drury Lane đứng ở trung tâm của phòng thí nghiệm đổ nát, đôi mắt sắc đảo quanh. Thanh tra Thumm đã rửa bồ hóng và bụi bẩn trên khuôn mặt mình và chải chuốt lại bộ đồ nhăn nheo; nhưng đôi mắt ngài uể oải và đỏ ngầu, tâm trạng thì không thoải mái. Thám tử Mosher đã về nghỉ; anh béo Pinkussohn thì ngồi trên một chiếc ghế sót lại hòa nhã trò chuyện với một người lính cứu hỏa.

Những cái kệ vẫn gắn vào tường, nhưng chúng sũng nước và ám khói đen. Ngoại trừ một đống những chai lọ kỳ diệu thay không bị vỡ trên các kệ thấp hơn, các ngăn kệ khác đều tan hoang; và tàn tích của chúng thì rải thành hàng ngàn mảnh thủy tinh nhỏ trên sàn nhà bẩn thỉu. Những phần hóa chất bên trong đã được xử lý cẩn thận.

“Đội xử lý hóa chất đã làm sạch các hóa chất nguy hiểm,” Thumm nói. “Các nhân viên cứu hỏa đầu tiên đến hiện trường đã thuật lại đầy đủ cho Phó thanh tra. Có vẻ như một số hóa chất nổi trên mặt nước khi cháy, hay đại loại thế, họ đã phải xử lý cực nhọc, nếu không có thể sự việc còn tồi tệ hơn nữa. Thật vậy, cũng may mà phát hiện ra ngọn lửa khi nó mới bắt đầu cháy. Mặc dù ông Hatter đã gia cố đặc biệt bức tường trong phòng thí nghiệm, cả ngôi nhà có thể đổ sụp.”

“Vâng, đúng thế đấy,” viên thanh tra gắt. “Chúng tôi đã bị xua đi như một đám nghiệp dư. Quacey hỏi qua điện thoại rằng ngài có biết ngọn lửa xuất phát từ đâu không. Từ đâu? Phải thừa nhận đó là bí ẩn với tôi.”

“Không,” Drury Lane nói. “Không khó đến vậy chứ, thanh tra. Tôi tin rằng câu trả lời thật ra cực kỳ đơn giản. Nhìn đây, có thể chất gây cháy đã được đưa vào phòng thí nghiệm thông qua cánh cửa chính?”

“Tất nhiên là không rồi. Mosher - một trong những người đáng tin cậy nhất của tôi - thề rằng không có ai bén mảng lại gần nó cả đêm qua.”

“Tôi tin anh ta. Vậy là cánh cửa không thể được dùng như một lối xâm nhập. Còn các ô cửa sổ đều gắn song sắt, và các song sắt này, như chính ngài đã chỉ ra hôm qua khi chúng ta kiểm tra, khá là chắc chắn. Có thể hiểu một cách logic thế này, dù có chấn song, kẻ phóng hỏa đã leo dọc theo gờ tường bên ngoài và mở một cửa sổ, ném một mồi chất cháy vào trong phòng và ngọn lửa bắt đầu bùng lên…”

“Tôi đã bảo chuyện đó là không thể,” viên thanh tra đáp giọng chua chát. “Tất cả cửa sổ đều bị khóa bên trong. Không có dấu hiệu bị cạy, và cửa kính đều còn nguyên khi lính cứu hỏa tới đây, trước vụ nổ. Vụ cửa sổ có thể loại trừ.”

“Hoàn toàn đúng. Tôi chỉ đơn thuần là trình bày tất cả các giả thuyết có thể. Vậy là đường xâm nhập bằng cửa sổ được loại trừ. Vậy còn lại gì?”

“Ống khói,” Thumm nói, “nhưng cũng chẳng phải nốt. Một trong những người của tôi canh trên mái nhà cả ngày hôm qua, nên không ai có thể lẻn ra chỗ ống khói và núp trong đó tới khi trời tối. Sau đó có một người khác đến gác thay cho anh ta lúc nửa đêm, người đó cũng nói chẳng có ma nào bén mảng lên mái nhà. Là vậy đó.”

“Để tôi,” Lane cười khẩy. “Ngài nghĩ mình đã biết hết rồi sao. Có ba đường vào được biết đến, cả ba đều được canh gác. Kẻ phóng hỏa không chỉ xoay xở để vào được bên trong mà còn để ra được bên ngoài nữa, thanh tra à… Bây giờ cho tôi hỏi một câu nhé. Các ngài đã kiểm tra những bức tường chưa?”

“À,” Thumm đáp ngay lập tức. “Vậy đó là những gì ngài đang nghĩ! Ô, tường trượt ra được.” Ngài cười tít, sau đó cau mày. “Chẳng ích gì đâu, ngài Lane. Các bức tường, sàn nhà và trần nhà đều không một chỗ hở. Chính tôi đã kiểm tra.”

“Hừm,” Lane đáp lời với một cái nháy mắt màu xám xanh. “Thật tuyệt vời, thanh tra, tuyệt vời! Nó vừa xua đi nghi ngờ cuối cùng ra khỏi tâm trí tôi.”

Thumm nhìn chằm chằm. “Tại sao, ngài đang nói chuyện như thể biết rất rõ vậy! Việc đột nhập là gần như không thể!”

“Không,” Lane mỉm cười. “Chưa chắc đâu. Khi mà cả cửa chính lẫn cửa sổ đều không thể đột nhập vào dù tưởng tượng thế nào, và khi mà tường, sàn nhà, lẫn trần nhà đều vững chắc - thì chỉ có một khả năng duy nhất sót lại, và do đó khả năng này trở nên chắc chắn.”

Lông mày Thumm nhíu lại trên mí mắt. “Ý ông là ống khói? Nhưng tôi không thể…”

“Không phải ống khói, thanh tra à.” Lane trở nên nghiêm nghị. “Ngài đã quên rằng nó có hai phần chính là: ống khói và lò sưởi. Ngài hiểu ý tôi chứ?”

“Không, tôi chưa hiểu. Rõ là cái lò sưởi thì thông với căn phòng. Nhưng làm sao chui vào lò sưởi được nếu không trèo qua ống khói?”

“Đây chính xác là điều tôi đang thắc mắc.” Lane bước đến chỗ lò sưởi. “Và, trừ phi người của ngài đã nói dối, trừ phi có một dạng cửa trượt bí mật trong căn phòng này, thì chẳng cần kiểm tra lò sưởi này tôi cũng có thể nói cho ngài bí mật của nó.”

“Bí mật?”

“Ngài có nhớ căn phòng nào tiếp giáp với bức tường có cái lò sưởi này không?”

“Thì sao, là phòng của cô Campion, nơi mà vụ giết người được thực hiện.”

“Chính xác. Và ngài có nhớ thứ gì trong phòng cô Campion nằm ở phía bên kia cái lò sưởi này không?”

Viên thanh tra há hốc miệng. Ngài nhìn chằm chằm Lane một chốc rồi lao về phía trước. “Một cái lò sưởi khác!” Thumm la lên. “Trời ạ, có một khe hở nằm chính xác sau cái lò sưởi này!”

Ngài cúi thấp và luồn xuống bên dưới mặt lò sưởi qua bức tường phía sau. Ngài đứng thẳng lên bên trong, đầu và vai biến mất khỏi tầm nhìn. Lane nghe thấy hơi thở nặng nề của viên thanh tra, âm thanh của một bàn tay đang cào, và sau đó là một tiếng kêu bị nghẹn lại. “Chà, đây rồi!” Thumm la lên. ”Cả hai lò sưởi sử dụng chung một ống khói! Bức tường gạch này không dẫn thẳng lên trên - nó chỉ cao khoảng hai mét tính từ sàn nhà!”

Drury Lane thở dài. Thumm chẳng cần thiết phải làm bẩn quần áo như vậy.

Giờ thì viên thanh tra đã bị thuyết phục hoàn toàn, thái độ của ngài cũng thay đổi hẳn. Ngài vỗ lưng Lane, khuôn mặt khó coi cười tít, ra lệnh cho đám người dưới quyền, đá Pinkussohn ra khỏi ghế, và đưa một điếu xì gà cho người lính cứu hỏa. “Hẳn rồi!” Ngài rống lên, hai tay dơ bẩn và đôi mắt sáng ngời, “câu trả lời là đây - chắc luôn!”

Bí mật của cái lò sưởi rất đơn giản. Cái lò sưởi trong phòng thí nghiệm và cái lò sưởi trong phòng Louisa Campion quay lưng vào nhau - hai cái lò sưởi thông với nhau ở hai mặt của chung một bức tường. Không chỉ có chung một ống khói, mà chúng còn có chung một bức tường ngăn cách - một cấu trúc dày xây bằng gạch nung chịu lửa cao khoảng hai mét, nên nhìn từ trong cả hai phòng đều không thấy phần đỉnh bức tường, khi mà phần mặt trên lò sưởi chỉ cao có hơn một mét tính từ sàn nhà. Phía trên bức tường hai mét đó, hai ống khói nhập lại thành một, tạo thành một lỗ thông hơi lớn mà qua đó khói của cả hai lò sưởi thoát qua mái nhà. “Rõ ràng, quá rõ ràng rồi,” viên thanh tra nói vẻ hân hoan. “Điều này có nghĩa là bất cứ ai cũng có thể đột nhập vào phòng thí nghiệm tại bất kỳ thời gian nào - hoặc từ bên trong của ngôi nhà bằng cách leo qua bức tường ngăn cách phía căn phòng chết, hoặc từ bên ngoài bằng cách leo xuống từ mái nhà, bám vào những mấu lồi bên trong ống khói. Vụ đêm qua hẳn đã được thực hiện thông qua căn phòng của Louisa. Chẳng lạ khi Mosher không thấy ai vào phòng thí nghiệm từ hành lang, người canh trên mái nhà cũng thế!”

“Đúng,” Lane nói. “Và tất nhiên kẻ đột nhập đã thoát ra bằng cùng một con đường. Ngài đã xem xét chưa, thanh tra, làm thế nào kẻ phóng hỏa bí ẩn của chúng ta vào được phòng cô Campion, là bước đầu tiên để có thể trèo qua lò sưởi vào phòng thí nghiệm? Mosher bảo rằng cửa phòng được theo dõi cả đêm qua, ngài thấy đấy.”

Mặt Thumm thẫn thờ. “Tôi chưa nghĩ đến điều đó. Có phải là - Đúng rồi! Gờ tường bên ngoài, hoặc là lối thoát hiểm!”

Họ đi đến chỗ ô cửa sổ vỡ và nhìn ra ngoài. Một gờ tường rộng sáu mươi phân chạy dọc ngoài cửa sổ phía đằng sau của toàn bộ tầng hai này; đó rõ ràng là lối đi dành cho kẻ rình mò liều lĩnh từ phòng nọ sang phòng kia từ mặt sau của ngôi nhà. Hai lối thoát hiểm, dài và hẹp, có chiếu nghỉ nằm bên ngoài tầng nhà này. Một lối thông với phòng thí nghiệm và phòng bọn trẻ, lối khác thông với phòng người chết và phòng bà Smith. Cả hai lối thoát hiểm đều chạy qua cửa sổ từ tầng gác mái xuống khu vườn bên dưới. Lane liếc nhìn Thumm, và họ cùng lắc đầu.

Hai người họ rời khỏi phòng thí nghiệm để qua căn phòng chết. Họ thử mở cửa sổ; chúng không khóa và mở ra một cách dễ dàng. Họ quay trở lại phòng thí nghiệm và Pinkussohn lôi ra một chiếc ghế từ đâu đó. Lane ngồi xuống, bắt tréo chân, rồi thở dài. “Câu chuyện đã rõ ràng, thanh tra à, như tôi thấy thì ngài cũng đoán được rồi. Gần như ai cũng có thể đột nhập vào phòng thí nghiệm đêm qua nếu biết được bí mật của cái lò sưởi đôi.”

Thumm gật đầu hờ hững. “Bất kỳ ai, bên trong hoặc bên ngoài ngôi nhà.”

”Có vẻ như thế. Ngài có thắc mắc về động thái của tên hung thủ chưa, thanh tra?”

“Chưa. Nhưng làm thế thì có ích gì nhỉ? Ngài không nghĩ là vụ cháy làm lộ tung tích hắn đấy chứ? Viên thanh tra nhai lấy nhai để một điếu xì gà. “Bất kỳ ai trên tầng gác mái có thể thực hiện điều đó, dù có được xác nhận thế nào đi nữa. Và nếu tính cả tầng hai, ngoại trừ Jill và Barbara Hatter, thì tất cả mọi người đều có thể tiếp cận gờ tường và lối thoát hiểm. Mặc dù vợ chồng Conrad ở căn phòng phía trước, người nào cũng có thể tiếp cận lối thoát hiểm và gờ tường phía sau bằng cách đi qua phòng hai đứa con lúc chúng đang ngủ và họ sẽ không phải đi ra ngoài hành lang được Mosher canh gác, vì họ có thể từ phòng họ vào phòng con thông qua phòng tắm chung giữa hai phòng. Vậy đấy.”

“Họ đã khai những gì?”

“Vâng, họ không làm chứng cho nhau. Conrad khai anh ta lên gác tầm mười một rưỡi. Kể cũng đúng, vì chính tôi thấy anh ta rời khỏi thư viện khoảng thời gian đó và Mosher cũng bảo đã trông thấy anh ta đi vào phòng ngủ. Anh ta bảo về phòng đi ngủ. Martha Hatter ở trong phòng cả buổi tối, nhưng cô ta nói rằng đã ngủ quên và không nghe thấy tiếng chồng đi vào.”

“Còn những cô gái?”

“Họ trong sạch - không thể nào thực hiện việc đó được, bằng cách nào đi nữa.”

“Thật sao?” Lane lẩm bẩm. “Nhưng họ đã khai những gì?”

”Jill lang thang ra vườn, và trở về phòng riêng của cô ta lúc một giờ; Mosher xác nhận điều này. Barbara về phòng sớm hơn, khoảng mười một giờ. Không thấy người nào rời khỏi phòng sau đó cả… Mosher không thấy bất kỳ động thái đáng ngờ nào; không có ai mở cửa hoặc rời khỏi phòng, theo như Mosher nhớ - và anh ta có một trí nhớ tốt. Đích thân tôi đã đào tạo anh ta.”

“Tất nhiên rồi,” Lane nhận xét ranh mãnh, “chúng ta có thể hoàn toàn sai lầm trong phán đoán rồi. Ngọn lửa có thể tự bốc cháy mà thành, ngài biết đấy.”

“Giá mà tôi tin được điều đó,” Thumm ủ rũ đáp. “Các chuyên gia của Sở Cứu Hỏa đã xem xét phòng thí nghiệm sau vụ cháy và đi đến kết luận rằng nó do con người gây nên. Vâng, thưa ngài. Có người đã đánh diêm và đốt thứ gì đó nằm giữa cái giường và bàn thí nghiệm gần cửa sổ. Tìm thấy những que diêm - loại diêm thông thường, giống như loại dùng trong nhà bếp ở tầng dưới.”

“Còn vụ nổ?”

“Đó cũng chẳng phải là tai nạn,” viên thanh tra nói dứt khoát. “Những chuyên gia hóa chất tìm thấy mảnh chai vỡ còn sót lại trên một cái bàn thí nghiệm - nó đựng thứ mà họ gọi là carbon bisulphide. Họ nói nó rất dễ nổ, nhất là khi tiếp xúc với nguồn nhiệt. Tất nhiên, cái chai đã ở đấy từ trước - có lẽ York Hatter đã để đấy trước khi ông ta biến mất - nhưng tôi không nhớ có một cái chai trên bàn, ngài nhớ không?”

“Không. Hay nó đến từ một trong những cái kệ?”

“Có thể, một phần nhãn dán quen thuộc được tìm thấy trên mảnh thủy tinh.”

“Rõ ràng phỏng đoán của ngài là sai lầm. York Hatter không thể để chai carbon bisulphide trên bàn, bởi vì nó là một trong những chai thông thường, như ngài đã nói, và tôi nhớ rõ là chai lọ được để hết trên kệ; không hề có chỗ trống nào. Không, ai đó đã cố ý lấy cái chai từ một ngăn kệ và đặt nó trên bàn, biết rằng cuối cùng nó sẽ nổ tung.”

“Chà,” Thumm nói, ”có lý đấy, ít ra kẻ mà chúng ta đang bàn cũng đã xuất đầu lộ diện. Xuống gác thôi, ngài Lane. Tôi có ý này.”

Họ xuống tầng trệt và viên thanh tra cho gọi bà Arbuckle. Ngay khi xuất hiện trong thư viện, bà quản gia đã hoàn toàn từ bỏ tính hiếu chiến. Ngọn lửa dường như đã làm bà ta mất đi nhuệ khí và lấy đi ít nhiều bản tính dữ dằn như nữ chiến binh Amazon của bà ta. “Ngài cho gọi tôi, thanh tra Thumm?” bà ta hỏi bằng giọng ngờ vực.

“Đúng vậy. Ai là người lo chuyện giặt giũ trong nhà?”

“Giặt giũ? Tôi… tôi làm. Mỗi tuần tôi xếp quần áo thành từng bó riêng và gửi đến một tiệm giặt tay ở phố Thứ Tám.”

“Tốt! Giờ lắng nghe cho kĩ đây. Bà có nhớ trong vòng vài tháng qua có quần áo của ai đặc biệt dính bẩn không? Bà biết đấy - bụi bẩn, đầy bồ hóng hoặc bụi than? Con bị sờn nữa, có thể là xây xát hay rách toạc ra?”

Lane nói: “Cho phép tôi chúc mừng ngài, thanh tra. Một suy nghĩ ấn tượng!”

“Cảm ơn,” Thumm nói khô khốc. “Tôi cũng có lúc thông minh đột xuất - đa phần là khi ngài vắng mặt. Ngài như lấy mất thứ gì đó từ tôi… Thế nào, bà Arbuckle?”

Bà ta nói trong sợ hãi: “Không, thưa ngài, không có.”

“Lạ thật,” Thumm lẩm bẩm.

“Có thể là không,” Lane nhận xét, “Đã bao lâu rồi kể từ khi lò sưởi trên gác được đốt, bà Arbuckle?”

“Tôi… tôi không biết. Tôi chưa thấy chúng cháy bao giờ.”

Thumm vẫy tay ra hiệu với một thám tử: “Cho gọi bà y tá tới đây.”

Có vẻ bà Smith đang ở trong khu vườn để chăm lo cho Louisa. Bà ta bước vào, mỉm cười vẻ lo lắng. Lò sưởi trong phòng thí nghiệm và phòng của Louisa?

“Bà Hatter không bao giờ sử dụng nó,” bà Smith đáp, “ít ra là kể từ khi tôi làm ở đây. Ông Hatter cũng không sử dụng, theo như tôi biết. Cũng phải mấy năm rồi, tôi nghĩ vậy… Vào mùa đông một tấm che được đặt trên miệng ống khói trên mái nhà để tránh gió, vào mùa hè nó được gỡ ra.”

“May cho cô ta,” viên thanh tra càu nhàu chẳng rõ ràng. “Không thấy có vết bụi than trên quần áo cô ta - nếu có bụi, cô ta cũng có thể phủi nó đi hoặc nó không đủ để gây chú ý… Bà đang nhìn gì vậy, bà Smith? Xong rồi!” Bà Smith thở hổn hển và vội vàng lui ra, đung đưa bộ ngực mỡ như một con bò cái già.

“Ngài đang liên tục gọi hung thủ, thanh tra,” Lane nói, “là ‘cô.’ Chẳng phải ngài bảo rằng thật phi lý khi một phụ nữ leo xuống ống khói hay trèo qua một bức tường gạch hai mét - như tôi đã gợi ý trước đó sao?”

“Nghe này, ngài Lane,” Thumm đáp vẻ tuyệt vọng. “Tôi không biết cái gì đập vào mắt tôi và cái gì thì không. Tôi nghĩ có lẽ chúng ta sẽ thu được dấu vết về kẻ nào đó bằng cách lần theo đống quần áo bẩn. Có vậy thôi. Được chứ?”

“Nhưng ngài chưa trả lời tôi mà, thanh tra,” Lane mỉm cười.

“À thì, có một kẻ đồng lõa! Là đàn ông. Quỷ quái, tôi chẳng biết nữa,” Thumm thất vọng nói. “Nhưng đó không phải là điều đang khiến tôi đau đầu lúc này.” Vẻ ranh mãnh len lỏi vào đôi mắt mệt mỏi của ngài thanh tra. “Tại sao phải nhất quyết phóng hỏa chứ? Hả ngài Lane? Ngài đã nghĩ về điều đó chưa?”

“Thanh tra thân mến,” Drury Lane đột ngột đáp, “nếu biết được, thì hẳn chúng ta cũng biết hết mọi chuyện luôn rồi. Vấn đề đó đã khiến tôi băn khoăn từ lúc ngài gọi điện đến lâu đài Hamlet.”

“Ngài nghĩ sao?”

“Tôi nghĩ thế này.” Lane đứng dậy và bắt đầu sải bước quanh thư viện. “Phải chăng ngọn lửa nhằm mục đích hủy đi thứ gì đó trong phòng thí nghiệm?” Ông nhún vai. “Nhưng phòng thí nghiệm đã được cảnh sát kiểm tra, và kẻ phóng hỏa hẳn phải biết điều này. Có phải chúng ta đã bỏ lỡ thứ gì đó trong lần khám xét hôm qua? Có phải thứ đó quá to để kẻ đó mang đi được, nên bắt buộc phải bị hủy đi sau đó?” Ông nhún vai một lần nữa. “Tôi thú nhận rằng tôi hoàn toàn bối rối ở điểm này. Dù sao, nó chưa hẳn đã đúng - chỉ là một khả năng mà thôi.”

“Nghe không chắc chắn lắm, được rồi,” viên thanh tra nói. “Có thể là một trò đánh lạc hướng chăng, hả ngài Lane?”

“Nhưng, anh bạn thân mến của tôi,” Lane thốt lên, “tại sao? Tại sao lại sót? Nếu là để đánh lạc hướng, thì mục đích của nó là để chuyển hướng sự chú ý khỏi thứ gì đó được lên kế hoạch để xảy ra - một bước đệm, một trò giương đông kích tây, một mồi nhử. Nhưng cho tới giờ chẳng có gì xảy ra cả!” Ông lắc đầu. “Lý lẽ nhắc nhở tôi rằng, nói một cách chặt chẽ thì việc kẻ phóng hỏa bị ngăn trở vào phút cuối là có thể, sau khi đốt phòng thí nghiệm, và thực hiện kế hoạch đã chuẩn bị sẵn. Có lẽ ngọn lửa đã bùng lên quá nhanh. Có lẽ phút cuối cùng hắn đã run sợ… Tôi không biết nữa thanh tra à, tôi thực sự không biết.”

Thumm cắn cặp môi chìa một lúc lâu, chìm đắm trong suy tư, còn Lane tiếp tục đi đi lại lại không ngớt. “Tôi hiểu rồi!” viên thanh tra vừa nói vừa nhảy cẫng lên. “Ngọn lửa và vụ nổ được lên kế hoạch nhằm tạo vỏ bọc cho việc đánh cắp thêm thuốc độc!”

“Đừng sốt sắng quá thế, thanh tra,” Lane khẽ nói. “Tôi đã nghĩ đến khả năng đó và loại trừ thẳng tay rồi. Tại sao hung thủ lại cho rằng cảnh sát đã kiểm kê đo đếm số hóa chất trong phòng thí nghiệm? Một ống hóa chất bất kỳ có thể đã bị đánh cắp đêm qua mà chẳng ai biết được. Chắc chắn một đám cháy và vụ nổ là không cần thiết. Bên cạnh đó, kẻ hạ độc đã lui tới phòng thí nghiệm trong quá khứ, suy xét từ vô vàn những dấu chân trên lớp bụi. Nếu hắn ta biết lo xa - và hẳn là thế rồi, cho những tội ác sau này thì hắn sẽ chẳng dại dột đến mức đó - hắn sẽ chuẩn bị sẵn nguồn cung cấp chất độc tại thời điểm vẫn có thể tự do đột nhập phòng thí nghiệm, không cần thiết phải mạo hiểm lui tới đó khi mà nó đã bị theo dõi nghiêm ngặt… Không, thanh tra à, không phải thế đâu. Là điều gì đó hoàn toàn khác cơ, đến mức nó vượt quá giới hạn phán đoán thông thường.” Ông dừng lại. “Gần như,” ông tiếp tục chậm rãi, “gần như chẳng vì lý do gì cả…”

“Chán thật,” Thumm đồng ý với khuôn mặt cau có. “Đó là kết quả của việc điều tra một tội ác mà mọi nghi phạm đều bị điên. Lý do! Động cơ! Logic!” Viên thanh tra giơ tay bất lực. “Hừ!” Ngài nói. “Tôi chỉ mong cảnh sát trưởng rút tôi khỏi vụ này thôi.”

Họ tha thẩn bước vào hội trường, và Lane nhận mũ và cây gậy của mình từ George Arbuckle, người đang lượn lờ với sự hăm hở đến đáng thương nhằm lấy lòng họ, giống như sự hạ mình của bà vợ.

“Có một điều, thanh tra, trước khi tôi đi,” Lane lưu ý khi họ dừng lại ở tiền sảnh, “mà tôi muốn cảnh báo ngài trước. Đó là khả năng sẽ có một vụ đầu độc khác.”

Thumm gật đầu. “Tôi đã nghĩ về điều đó.”

“Tốt. Sau rốt cục, chúng ta đang đối phó với một kẻ đầu độc đã hai lần không thành công. Chúng ta phải nghĩ đến và ngăn chặn âm mưu lần thứ ba.”

“Tôi sẽ cử ai đó từ văn phòng bác sĩ Schilling xuống đây để kiểm tra tất cả đồ ăn thức uống trước khi chúng được dọn ra,” Thumm nói. “Có một nhân viên ở chỗ Schilling thạo các công việc thế này - một bác sĩ trẻ thông minh tên là Dubin. Không gì qua nổi mắt cậu ta. Tôi sẽ cử anh ta canh nhà bếp, nơi có mọi thứ. Giờ thì,” ngài chìa tay ra, ”tạm biệt, ngài Lane.”

Lane bắt tay lại. “Tạm biệt, thanh tra.”

Sắp sửa rời đi rồi, ông lại quay lại. Họ nhìn nhau với những câu hỏi trong mắt. Cuối cùng Lane cất lời, với sự rõ ràng đến khó chịu: ”Mà này, thanh tra, tôi nghĩ rằng tôi nợ ngài và Bruno việc trình bày quan điểm của mình về vài khía cạnh nào đó…”

“Gì cơ?” viên thanh tra háo hức, khuôn mặt sáng lên.

Lane vung cây gậy của mình tỏ ý từ chối. “Tôi nghĩ tốt nhất là chờ tới sau lúc đọc bản di chúc ngày mai. Tạm biệt. Chúc may mắn!” Quay mạnh gót chân, người nghệ sĩ rơi khỏi ngôi nhà.