← Quay lại trang sách

Chương 14

Chương 14

uối cùng thì hoà bình cũng đến được với hang Dơi. Đúng hơn, niềm tin của ông già chín năm, mãi rồi cũng được khẳng định. Hoá ra thời gian, ở bất kể thế giới nào cũng vậy, đều cắm mốc phân định khoảng cách. Nhờ thế nó trường tồn. Tính một cách hào phóng, ông già chín năm đã ngụ trong hang Dơi gần nửa thế kỉ. Ông không còn nhìn thấy gì nữa. Ông bảo:

- Ta đã sống gần trọn kiếp vong hồn. Đời vong hồn cũng tựa như một kiếp người. Nó hữu hạn.

- Thế còn sau đó?

- Không biết được điều gì vượt ra ngoài kiếp sống của mình!

Chẳng biết ông căn cứ vào đâu để nói những lời ấy. Tin hay không cũng chẳng quan trọng gì. Ông chép miệng:

- Kiếp nào cũng vậy thôi các con ạ. Ta vẫn mong được trở về quê hương.

Bây giờ, ông ngồi yên trên phiến đá của mình. Phiến đá vẫn ngắc ngư, còn ông đã bất động. Chân ông xếp bằng. Tay đặt trên đùi. Mắt nhắm nghiền. Có mở mắt cũng như người lòa cõi trần. Ông nhập tọa từ dạo các âm binh rời bỏ cánh rừng này về quê. Đã gần hai mươi năm. Ông không theo đạo nào. Ông bảo:

- Đạo cốt ở tâm. Tâm trong ấy là đắc. Tâm vẩn, nhân cũng bất thành.

Tâm là tấm lòng. Nếu sống, hẳn đời nhờ ông được khối việc. Cô gái, điềm tĩnh hơn xưa, dù vậy vẫn giữ thói quen đi dạo. Còn tôi, lẽ dĩ nhiên, hãn hữu lắm mới đi ra ngoài. Tính tôi thế. Tôi, thỉnh thoảng lại ra cửa hang. Vạn vật trước mắt mình. Vạn vật trong mắt mình. Cuộc đời đổi thay nhiều lắm. Ngắm rồi nghĩ. Nghĩ rồi ngẫm. Cô gái bảo:

- Bây giờ thì em biết rồi. Anh có sống cũng chẳng được tích sự gì. Đến làm thầy cúng là hết.

Đấy là cô bực tôi, ít chịu đi cùng cô. Tôi phì cười:

- Thầy cúng, sao lại thế?

- Ở làng em, có một lão thầy cúng. Bị chính quyền dẹp không cho hành nghề, lão ngồi suốt ở cửa nhà, mắt giương mục kỉnh, như hai cái đít chai đen ngòm. Đeo thế nhưng mắt lão sáng. Lão cứ ngồi ngắm rồi ngẫm nghĩ. Ấy, vậy mà cấm có chuyện gì trong làng thoát khỏi mắt lão. Lạ thế, những lúc cần, lão phán rành mạch đâu ra đấy. Thành thử, vẫn khối người phải lén lút nhờ vả lão.

- Ơ, cái lão thầy cúng làng em thì quan hệ gì đến anh?

- Ngốc thế, quan hệ ở cái tư thế ngồi. Anh nhìn thấy gì nào?

Tôi bật cười. Trẻ con đến thế thì thôi.

- Nhìn thấy nhiều thứ chứ. Chẳng hạn, cây săng lẻ không còn. Chẳng hạn…

- Thôi thôi…

Cô xịu mặt, xua xua tay. Quả thật, có quá nhiều thay đổi. Ngay như cánh rừng này. Ngày xưa bom đạn tàn phá. Ngày nay con người tàn phá. Hoà bình, rừng tươi tốt lại được mươi năm thì bắt đầu thấy xuất hiện những nhóm khai thác rừng. Ngày một đông. Ô tô kìn kìn vào chở, nhộn nhịp còn bằng mấy dạo chiến dịch mở. Một ngày kia, cây săng lẻ của chúng tôi chịu chung số phận. Hôm ấy cô gái rất buồn. Kỉ niệm bị triệt hạ ngay trước mắt làm sao không buồn được. Đến gỗ đá cũng phải buồn. Đám cây kề cận, mất đi bóng dáng thẳng cao của cây săng lẻ, cây nào, cây ấy rũ ra, phờ phạc.

“Đến làm thầy cúng là hết”. Ngộ nghĩnh thật. Liệu có được bằng lão thầy cúng ở cái làng bé hin hin kia? Vẫn biết là bịp bợm, nhưng cùng lúc lão có thể tiết lộ hậu vận, tiền vận của người khác. Còn tôi, đến tương lai của mình cũng không dám định trước. Còn quá khứ? Đến hôm nay quỹ sống trần gian của tôi ngang bằng với ngày tháng ở hang Dơi. Cô gái cũng thế. Chúng tôi có mặt trên đời hai mươi năm. Và hai mươi năm chờ đợi trong hang. Dẫu rằng, niềm tin trong tôi vẫn nguyên vẹn, song không khỏi có lúc tôi nghĩ đến hình ảnh ông già chín năm, trên phiến đá ngắc ngư. Có một lần, nói đến chuyện này, ông cười rất hiền:

- Nếu ta trọn kiếp vong hồn ở hang Dơi này, ta vẫn tin con ạ. Kiếp nào đi chăng nữa, cũng cần đến niềm tin ấy.

Hai mươi năm. Mẹ tôi bây giờ chắc già lắm. Nỗi đau mất con hẳn đã nguôi ngoai. Tôi không hình dung nổi khuôn mặt mẹ tôi bây giờ. Những nếp nhăn tuổi tác chằng chéo trên khuôn mặt già nua? Có lẽ thế và lưng của mẹ còng hẳn xuống? Ngày trẻ, mẹ tôi đẹp lắm. Nghe kể, cha tôi phải vất vả mới lấy được mẹ. Không biết cha tôi bây giờ, có còn đủ sức thức dậy pha trà vào lúc bốn rưỡi sáng, theo nhịp chuông leng keng của tầu điện nữa hay không? Còn em gái tôi. Không biết nó đã quên hay còn nhớ tiếng hót của con chim liếu điếu. Chắc nó nhớ. Bởi, có một thời nó từng tin rằng, anh trai nó trở về bằng tiếng hót ấy. Bạn bè tôi nữa. A trinh sát thằng nào còn, thằng nào mất?

Ngày A trinh sát còn nguyên vẹn, đề tài hậu chiến tranh bao giờ cũng xôm trò. Chẳng khác gì dạo còn đi học, cô giáo hỏi: “Sau này em ước làm gì?”. Long tẩu bảo: “Hết chiến tranh, tao mặc nguyên bộ đồ trận này để tổ chức lễ cưới. Cưới ngay, không đợi thêm một ngày nào nữa!”. Cường choắt ước: “Chiến tranh thích hợp với dạng người tao. Tao sẽ làm tướng. Tướng, hiểu không?”. “A thằng khốn, mày định kiếm chác bằng chiến tranh hả?” – “Không, tướng không chiến tranh mới đáng mặt tướng. Tao sẽ làm tướng!”. Mỗi thằng một ước muốn. Nói chung đều nghiêm chỉnh cả. Duy có Ngọc khợp thủng thỉnh: “Tao hả, tao sẽ ra phố Hàng Buồm mua một con ngỗng quay thật bự. Con ngỗng vàng rộm. Còn nóng. Mỡ của nó láng ra loang bóng tờ báo bọc. Tất nhiên, với con ngỗng ấy, phải vòng xuống Cổ Tân làm hai vại bia hơi – mới có thế yết hầu thằng nào cũng đã đánh lên, đánh xuống – để nguyên con ngỗng, không dao thớt gì cả, a lê phập! Răng cắm ngập vào cái lườn béo ngậy!…”. Không thằng nào bình phẩm một lời về cái ước mơ đểu giả của Ngọc khợp. Nước miếng tứa ra hết lượt. Ước muốn của Ngọc khợp thực quá. Thực đến tàn nhẫn. Có lẽ, chỉ mình nó dễ dàng thực hiện điều ước. Ai chứ Ngọc khợp chắc chắn sẽ giữ lời. Một con ngỗng sau một cuộc chiến tranh. Hay thật.

Thằng nào còn, thằng nào mất? Thằng Vịnh chắc chắn không trong số những thằng còn sống. Nếu sống, nó đã không bắt mình phải chờ đợi đến ngần ấy năm trời. Những thằng sống, bao nhiêu thằng thực hiện được ước muốn của mình? Bất luận thế nào, chúng nó đều hạnh phúc. Chúng mày ơi, sự sống đó mới là cái quý giá nhất.

Tất nhiên cũng còn nhiều điều quý giá khác. Chẳng hạn một ước muốn nho nhỏ của cô gái. Được đứng trong vườn nhà, tay vịn vào gốc xoan, nghe tiếng nạng gỗ của người bố thương binh gõ cộc cộc từ ngoài ngõ vào. Thế thôi. Thế là đủ. Ngày mới hoà bình, sau những phút giây sung sướng ban đầu, đến lúc biết mình không trở về được, cô buồn ghê gớm. Nỗi buồn lớn đến mức, nếu ở cõi trần chưa biết sự thể cô sẽ ra sao. Không phải nỗi buồn vì tuổi thanh xuân của cô dừng ở con số hai mươi. Nỗi buồn ấy qua lâu rồi. Một nỗi buồn khác, giản đơn. Nó xuất phát từ ước muốn nho nhỏ kia. Rất nhiều lần cô lo sợ:

- Cha em chết mất. Ông chỉ sống được bằng niềm kiêu hãnh.

Hẳn thế. Kiêu hãnh làm nên phẩm chất chiến thắng của mọi cuộc chiến tranh giữ nước. Chỉ riêng nỗi buồn của cô đủ để người cha thương binh kia kiêu hãnh. Dù có hay không tờ giấy chứng nhận mầu vàng. Nhất định thế!

Đã hai mươi năm. Cô gái vẫn canh cánh nỗi niềm kia. Tôi cũng thế. Khao khát được trở về ngày một mãnh liệt. Dạo còn thằng ngụy, góc hang của nó đặc sánh bầu không khí tuyệt vọng. Tuyệt vọng đến cùng kiệt. Đến nỗi, cô gái phải thay đổi. Cô từ bỏ thái độ thù địch với nó. Suốt một thời gian dài, nó tự câu rút, đóng đinh mình vào vách đá hệt tư thế chúa của nó. Có điều chúa của nó bị hành hình còn nó tự mình làm công việc đầy đọa ấy. Chẳng biết chúa Giê su lúc bị câu rút trên thập ác nói những điều gì. Còn nó? Nó lảm nhảm suốt. Rặt những mẩu độc thọai rời rạc về cuộc đời gián đoạn của nó. Nó gọi má, gọi chúa. Không ai giúp được gì cho nó nữa. Thằng ngụy không xuống. Cứ thế, nó treo mình dán vào vách đá. Nó tạo thành một hình ảnh vừa đau lòng, vừa nực cười. Giá kể âm dương giao hoà, người trần thế nhìn thấy nó, khối người cảm động. Kể cả những kẻ đã bán sống nó. Hẳn lúc ấy, có người sẽ nghĩ rằng, nó làm thế là để sám hối. Oan cho nó, tột đỉnh cao sang như Giê su, môn đồ Ju đa cũng chỉ đổi lấy ba mươi đồng bạc trắng. Nó, nước non gì, những kẻ cầm cuộc cờ đẩy nó vào vách đá không cần tính toán. Nỗi tuyệt vọng của nó cũng thế, không cần sự sám hối. Có chăng, đó chỉ là sự hối tiếc muộn mằn của một kẻ lầm đường.

Có lẽ, nó sẽ câu rút mình trọn một kiếp vong hồn, nếu chúa của nó hoặc má của nó không động lòng. Tuy nhiên, để thoát khỏi tuyệt vọng này nó lại tiếp tục bị sa vào tình cảnh tuyệt vọng khác. Nếu được chọn, cũng không biết, nó ở lại hay đi. Chuyện xảy ra sau hoà bình khoảng chục năm gì đấy.

Bấy giờ, việc khai thác gỗ đang nhộn nhịp. Tuy vậy, có rất ít người lai vãng đến hang Dơi. Thảng hoặc mới có một vài người bạo gan mò vào. Vì tò mò hơn là định kiếm chác. Có định kiếm cũng chẳng nhằm nhè gì. Bởi trong hang, chỉ có lũ dơi móc ken vào vòm đá. Nền hang, phân dơi dày thành lớp. Xương cốt của chúng tôi, được lưu giữ trong chính lớp phân dày đặc ấy.

Hôm ấy, toán người kia đi đến bằng một chiếc xe Jeep nhà binh cũ kĩ. Có sáu người cả thảy. Nom người nào, người nấy dữ dằn và gian giảo. Phường này, mù mắt cũng không thể xếp chúng vào hàng lương thiện. Xe, chúng vứt dưới cửa rừng rồi leo bộ lên hang. Điệu bộ rất hùng hổ. Cả bọn bu đặc cửa hang. Đầu chúng châu vào nhau. Một thằng dùng ống nhòm dọi đi, dọi lại. Lát sau nó quả quyết:

- Đúng chỗ này!

- Chắc không?

- Tao đã rà kĩ tọa độ. Tính toán cả thời gian bay từ Bà Rá về đây. Rừng thay đổi nhiều nhưng vẫn có thể nhận ra. Xác chiếc CH47 cách đây khoảng 5km đường chim bay, đã tìm ra từ tuần trước.

- Nhưng làm sao mày dám quả quyết chỗ này?

Thằng cầm ống nhòm cười gằn:

- Mày quên ngày ấy biệt đội của tao quần nát khu rừng này, chỉ tìm thấy mấy vuông dù, còn cái thây biến tăm.

- Nhưng sao biết là thằng Mẽo đã chết.

Lần này nó cười, to, váng cả hang:

- Ngu thế mày. Cái dù bị Việt cộng bắn lủng, quẳng từ lưng chừng trời đến thiên lôi cũng ngắc, huống hồ người trần. Duy nhất cái vực này không thằng nào sục xuống.

- Bắt đầu chứ?

- Hãy khoan. Làm một tiệc nhỏ, mừng cho sự khởi đầu thuận lợi.

Thằng nhỏ con nhất hội, mặt quắt, ria mép để dài thành túm, lộn xuống xe vác lên một bịch đồ ăn và thùng bia lon “333”. Chúng túm tụm ăn uống ngay trên phiến đá cửa hang.

Nãy giờ, những người trong hang chăm chú dõi theo bọn người kia. Thì ra chúng đi kiếm hài cốt Mỹ. Đã có mấy toán săn lùng trước bọn này. Đa phần, chúng là binh sĩ của chế độ cũ, thông thạo vùng tác chiến rừng núi, nhập thành băng đi sục tìm, hi vọng kiếm được xác Mỹ bán lấy tiền xài. Ông già chín năm yên vị trên phiến đá tủm tỉm cười. Cô gái có vẻ hoảng hốt. Nhìn đám người này, chắc cô nhớ lại chuyện cũ. Cũng dáng dấp ấy, chỉ khác mỗi quần áo mặc trên người. Tôi, chẳng có việc gì phải bận tâm. Riêng thằng ngụy thấp thỏm. Cái vực, bọn người kia sắp mò xuống là nơi gửi nắm xương của nó. Tuy vậy, nó vẫn ngúc ngắc trên chiếc thánh giá vô hình, không chịu xuống.

Lát sau, bọn kia lần xuống chân dốc. Từ đấy chúng men dần xuống. Tiếng là vực nhưng không sâu lắm, chừng hai trăm mét trở lại. Gai góc um tùm, xuống được đáy không phải dễ dàng. Một lúc, bỗng có tiếng thét nhào đau đớn dội lại hang. Dù không bận tâm, tôi vẫn nhào ra khỏi nơi ẩn. Cô gái ra theo. Trước tiếng kêu của đồng loại, đến loài thú cũng không nỡ ngoảnh mặt. Hoá ra, một người trong bọn trượt chân ngã nhào xuống vực. Ngã thế, chết là cầm chắc. Quả nhiên, đám người sống chưa lần kịp xuống, thì thằng chết đã lò dò lên đến nơi! Thấy hai chúng tôi, mặt nó xám ngoét. Chính là thằng nhỏ con, mặt quắt, ria mép để dài thành túm. Có vẻ nó kém vế nhất trong đám kia. Nó sợ hãi là phải. Trên người chúng tôi, quân phục vẫn xanh rờn. Nó lắp bắp:

- Ông, bà…

Lưỡi nó líu lại, không nói được hết câu. Tôi nhẹ nhàng:

- Đừng sợ, chúng tôi là bộ đội hi sinh hồi chiến tranh ở đây.

Chả ngờ câu nói làm nó sợ hơn. Thậm chí nó không còn phát ra tiếng được nữa. Cứ “u u” ở đầu lưỡi. Tôi bảo:

- Đừng sợ. Anh bây giờ thành hồn ma rồi. Cú ngã vừa xong đã đổi kiếp cho anh.

Nó rống rất thảm thiết. Ra, nó chưa biết mình đã chết. Nó cuồng lên chạy tọt xuống vực. Dáng chừng để cầu cứu bọn kia, xem phải thật thế không. Hoặc, để kiểm chứng thân thể mình. Được một lúc, nó lò dò quay trở lại. Bộ điệu rất thiểu não. Nó so vai, gục đầu, miệng rên ư ử:

- Hết đời rồi, còn vợ, con tôi, hu hu…

Khóc chán chê mê mỏi, nó ngơ ngác nhìn tứ phía. Dấu tích bữa ăn còn đây, vương vãi tàn diêm, bã thuốc, giấy báo. Đàn kiến núi to gộc bâu kín chỗ thức ăn thừa. Còn nguyên cả mà đã hai thế giới khác. Nó dọ dẫm lần vào hang. Nó vội quỳ thụp xuống làm dấu thánh giá:

- Giê su ma lạy chúa!

Thằng ngụy phì cười. Thằng nhỏ con ngước mặt. Nó nhận ra đức chúa trên vách mặc đồ trận rằn ri. Thằng ngụy vẫn cười:

- Tao là lính chết trận dạo bảy tư. Dưới vực kia làm chó gì có xác Mỹ. Chỉ có xác tao thôi, hiểu không?

Thằng nhỏ con chợt nổi xung. Có lẽ nó tiếc thân nó tiêu oan uổng. Chỉ có xác thằng mập này, ngu ơi là ngu:

- Nè, tao ngán là ngán mấy cha cộng kia. Còn mày sức mấy. Nhìn đây này. – Nó vén tay áo để lộ những hình xăm chật hai cánh tay. Đủ hết rồng rắn, đại bàng, cả hình đàn bà, con gái lõa thể. – Ông nội mày đây mới là lính dù chính hiệu. Nhằm nhè gì, thứ lính tẩy ngữ mày. Giỏi, xuống đây mà cao giọng.

Ông già chín năm chợt cất tiếng cười. Tiếng cười được thời gian tu luyện xoáy ầm ầm, dội vào vách đá. Bầy dơi hoảng hốt chao động. Thằng nhỏ con chết trân sợ hãi. Nó lùi dần, lùi dần:

- Lại một cha áo trấn thủ. Vệ quốc đoàn. Kì quá, cái chốn này. Phát điên lên mất.

Nó chạy bổ ra khỏi hang.

Đến quá trưa, đám tìm xác cũng bìu díu nhau lên đủ. Chúng quấn xác thằng vừa chết vào một tấm vải bố. Không đứa nào buồn vì đồng bọn gặp nạn. Ngược lại, mặt cả lũ cứ hơn hớn như bắt được của. Của thật. Đấy là dúm xương tàn của thằng ngụy. Trước đấy, trong hang Dơi, thằng ngụy đột nhiên bị rơi bịch từ vách đá xuống. Nó nằm thõng thượt trên nền hang, không gượng dậy được. Mặt nhợt đi, lìm lịm, lìm lịm. Sau mới biết, thời khắc đó bọn kia vừa bới được chỗ nó nằm. Một thằng vớ được cái đầu lâu mốc xỉn, huơ huơ lên, hôn đánh “chụt” vào trán sọ:

- Ngài đây rồi. Vàng, đô đây rồi. Hơ hơ…

Cả bọn sục sạo, nhặt nhạnh không sót một mẩu xương, tống đại vào cái bao xác rắn. Thằng ống nhòm gật gù:

- Tao tính không sai. Ngài khuyết mất bộ giò. Nhưng không sao, lát nữa sẽ “mông” cho Ngài đầy đặn. – Quay sang cái xác mới. – Tội nghiệp nhỏ em này. Ngài thiêng thật, vật thế chỗ đấy. Em đừng buồn. Tụi qua trúng mánh này, đặng cúng lễ cho em đầy đủ.

Giá không tìm được đám xương tàn kia, dám xác thằng nhỏ con nằm vĩnh viễn nơi đây lắm. Nó vẫn còn may.

Đặt xương của thằng ngụy vào tấm nhựa ni lông trải phẳng, bọn kia bắt đầu chọn lựa, lắp ghép. Bộ giò thiếu thật. Một thằng chạy về xe vác ra cái bao xác rắn khác. Trong lủng củng toàn xương xẩu. Bới nhặt mãi cũng lựa được đủ. Chúng lắp vào, hoàn chỉnh một bộ hài cốt. Cả lũ nhảy tưng tưng. Chắc chúng đang tưởng tượng bộ xương khô kia đã hoá thành vàng thật, đô thật. Cứ việc tin. Giấc mộng nào mà chả đẹp. Thằng nhỏ con cười sằng sặc. Nó buồn cười quá. Quên hẳn mình vừa chết, nó cũng nhảy tưng tưng, quay vòng tròn rất ngộ. Nó đã phát điên.

Trong hang, thằng ngụy bò dậy. Nó khúc khắc đôi chân mượn. Xác của nó đã bị tống vào bao, chất lên xe. Cả cái xác mới kia nữa. Thằng ngụy khập khễnh bước. Số phận nó một lần nữa được định đoạt. Thằng ngụy buộc phải rời khỏi hang. Dù sao, nó cũng đã quen thân chốn này. Nó chào từng người, mêu mếu rất thảm. Tội nghiệp cho nó. Không biết nó phải theo đám người kia đến tận đâu? Liệu nó có tìm được đường về nhà?

Thằng nhỏ con vừa cười, vừa xoay tròn tiến về phía xe. Phía sau nó, thằng ngụy vất vả khập khiễng từng bước. Giá không bị mông má, nó đâu đến nỗi phải khổ sở thế. Ba chúng tôi đứng ở cửa hang tiễn nó. Thằng ngụy quay lại nhìn. Nó giơ tay vẫy vẫy. Tiếng nó thoảng trong gió:

- Vĩnh biệt…

Rõ cả tiếng nấc ngắt ra: “Má ơi, má…”. Quá đau đớn, nó đã quên gọi chúa.

°

°

Hoà bình đến với hang Dơi đột ngột nhưng không bất ngờ. Đúng mười chín năm sau hoà bình của đất nước. Cũng bởi niềm tin sắt đá của ông già chín năm truyền sang chúng tôi, đã ngấm sâu vào hình hài từng đứa. Lạ thế, ao ước bao nhiêu lâu, đau buồn cũng lắm, vậy mà giây phút hạnh phúc đến, ai cũng thấy bình thản. Tựa hồ việc đó ắt phải diễn ra như thế.

Khi đoàn người tiến vào hang, chúng tôi đã hiểu rằng, họ đến để giải phóng chúng tôi khỏi kiếp vong hồn. Rõ ràng có một thứ linh cảm gì đó rất đặc biệt. Ông già chín năm bảo:

- Linh cảm ấy chỉ những người biết tin, dám tin mới có.

Quả thật, trong suốt hai mươi năm ở hang Dơi, phải đến giờ phút ấy tôi mới gặp linh cảm này. Thọat đầu, thấy người nhấp nhô ngoài hang, tôi đã tưởng là bọn người tìm xác, khá hơn một chút là những người đến bắt dơi. Nghe họ lào phào với nhau, dơi bây giờ là đặc sản. Cái giống nửa chim, nửa thú chỉ hơi phân loài chuột tí tẹo, lại được tôn vào hàng đặc sản, lạ thật. Cuộc sống trần gian, hẳn phải thay đổi nhiều mới có sự đảo lộn, ngược đời thế. Thảo nào, vài ba năm lại đây, dơi trong hang bị bắt vãn. Ngày xưa, dơi đen đặc bám nhung nhúc ở thành hang. Vòm trần, dơi kết thành dây lúc lỉu. Bây giờ, dơi cũng khôn chán vạn, treo người tít trên cao, bắt nổi một con cũng còn mướt. Suy cho cùng, giống nòi nào cũng thế, đều phải khôn để tồn tại.

Đoàn người đi hàng một vào hang. Phải đến gần chục người. Một nửa mặc quân phục. Một người mặc quân phục cũ, người cũng hom hem, già nua, lúi húi cắm bó hương ngún khói sát chỗ tôi nằm. Mùi hương. Khói bay đến đâu hương lan đến đấy. Không gian hang Dơi âm u cũng tan dần ra, thoáng đãng. Những đốm hương đỏ xíu đủ làm hang Dơi sáng rực. Ông già chín năm tủm tỉm cười. Cô gái luýnh quýnh chạy vào, chạy ra. Người thắp hương quỳ xuống. Hàng người đứng cúi đầu. Họ đang mặc niệm. Không một lời khấn khứa. Tất cả im lặng. Tôi nghe rõ cả tiếng khói toả rất nhẹ. Những đốm đỏ đầu hương xíu xiu lấp lánh. Khói vương vít quấn quýt, tụ vào, tan ra. Ông già chín năm rời bỏ phiến đá. Ông dọ dẫm từng bước. Miệng ông thầm thì:

- Các con. Các con ơi!

Ba chúng tôi đứng cạnh nhau, nghẹn ngào chờ đợi. Đồng đội của chúng tôi đã đến. Ông già chín năm đứng nghiêm ngắn như đang trong đội ngũ. Cô gái, mắt long lanh nửa cười, nửa khóc. Cô đang sung sướng. Tôi nữa, cõi hồn tôi khói hương quẩn vào, làm dậy lên cảm xúc kì lạ. Bàn chân tôi dợn dợn. Tôi thấy mình như đang đứng giữa thành phố quê hương. Mẹ của tôi. Đột nhiên, tôi bừng tỉnh. Tiếng hót lảnh lót của con chim liếu điếu vang lên. Tiếng hót nứt ra từ kẽ đá. Tiếng hót nhỏ giọt từ trần hang ấm áp. Và tiếng hót nóng hổi lăn trên gò má tôi. Những đốm đỏ vẫn rực. Khói vẫn quấn quýt, hương ngan ngát lan ra, lan xa.

- Chỗ này! – Người thắp hương, vẫn đang quỳ, trỏ tay đúng vào chỗ tôi nằm. – Cả góc kia, ngày ấy tôi thấy vương vãi nhiều thứ quân trang.

Giọng nói quen quá. Trời ơi. Giọng nói quen quá. Tiếng một người ra lệnh:

- Các đồng chí. Ta đào thật nhẹ. Từng điểm một. Đồng đội của chúng ta dưới này…

Nhát xẻng đầu tiên “sụt” khẽ. Phân dơi kết thành lớp, ấm và mềm. Cái hang nhỏ rùng rùng. Hang sáng lòa. Từng dây sấm gượng nhẹ nổ rền rền khe khẽ. Đàn dơi thức giấc chấp chới đảo cánh. Có con vụt bay ra khỏi hang rồi lại liệng vào.

- Đây rồi. Các đồng chí, ta tiếp tục đào. Nhớ thật nhẹ. – Có tiếng nấc. Người thắp hương chạm tay vào xương cốt của tôi.

- Phương ơi! – Tiếng kêu bật ra, khắc khoải như tiếng kêu của con chim trúng tên đuối sức.

Giọng nói quen quá. Tôi nhào vào. Trước mắt tôi là thằng Vịnh. Tôi đã nhận ra nó. Thằng Vịnh còn sống. Nó đã không bỏ tôi. Vịnh ơi…

Tôi như vừa dứt khỏi cơn sốt mê man, người khoẻ khoắn lạ thường. Tôi vút ra ngoài hang. Giây phút ấy, tôi quên mình đã chết. Quên đi hai mươi năm chờ đợi. Tôi như con chim non vừa đủ lông cánh vút vào bầu trời tự do. Nắng mênh mông tràn đầy. Khu rừng chiến tranh lùi lại thật xa. Con chim liếu điếu bay đến đậu vào vai tôi. Cả tôi và nó cùng cất tiếng hát.

Ông già chín năm cất tiếng gọi tôi. Tay ông cầm tay cô gái. Tôi kinh ngạc trước vẻ đẹp chưa từng thấy ở cô. Một vẻ đẹp rạng rỡ, thuần khiết và trinh bạch. Không một tì vết nào của chiến tranh đọng trên khuôn mặt ấy. Tất cả đã qua rồi. Tôi lao đến ôm chầm lấy hai người thân yêu. Chúng tôi trong vòng tay nhau, bổi hổi.

- Các con. Chúng ta không bao giờ bị lãng quên. Ước mơ của ta đã thành sự thật. Các con…

Mắt ông lóng lánh. Ông đã nhìn lại được. Vụt cái, ông trở về với tuổi thực của mình. Một ông già quắc thước, tóc trắng, râu trắng, hiền hậu. Tôi, cả cô gái nữa. Tất cả chúng tôi đã trở về được với thế giới của mình. Tôi áp bàn tay tôi lên bàn tay cô. Tiếng nói cõi hồn tôi bật ra tự nhiên:

- Anh sẽ đưa em về…

- Vâng! Quê em và thành phố của anh!

Tôi dắt em đi. Con đường bồng bềnh như trong giấc mơ. Con đường, ông già chín năm và thế hệ của ông đã đi. Một thời của chúng tôi cũng đã trôi qua trên con đường này, chưa xa. Tôi sẽ đưa em về…

Phía sau, ông già chín năm im lìm như bức tượng tạc vào trời đất. Ông tủm tỉm cười. Nụ cười của một người biết thế nào là hạnh phúc.

đánh máy: HUY_AK_47
Nguồn: quansu.vn
Được bạn: Mọt sách đưa lên
vào ngày: 17 tháng 12 năm 2011