6. Chung Tài Đạo -Vài lời dẫn truyện của Tân Thánh Thán.(*)
Vài lời dẫn truyện của Tân Thánh Thán.(*)
Hôm nay dưới cái lạnh lẽo, buồn tẻ giữ đông của đất trời Thuỵ sĩ, ta dành chút thời gian đọc lại bài tân liễu trai chí dị “ Chung Tài Đạo “ của Lưu tiên sinh, đã cho ta cảm giác thích thú khi hoài nhớ đến câu truyện tình lãng mạn, đầy thi tứ của hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu nhà Hán bên Tầu, một hôm đi hái thuốc mà lạc vào Thiên Thai rồi kết duyên với hai tiên nữ. Họ sống với nhau được khoảng nửa năm, hai chàng Lưu Nguyễn vì nhớ nhân gian xin trở về thăm, nhưng khi muốn trở lại nơi tiên cảnh thì không được nữa. Hai người vào rừng tìm lại chốn xưa, nhưng chỉ còn là dấu tích rêu phong:
........
Đào hoa lưu thuỷ y nhiên tại,
Bất kiến đương thời khuyến tửu nhân.
(Tào Đường)
Dịch rằng:
Hoa đào nước cuốn như xưa,
Đâu người chuốc rượu tiễn đưa dạo nào!?
(Đỗ Chiêu Đức)
Rồi cũng thế, trong giai thoại nước Nam ta cũng có chàng Từ Thức năm Bính Tỵ (1396 ) thời Trần, bỏ áo từ quan mà theo kiếp lãng du. Một lần đến một ngôi chùa (người đời cho là chùa Phật Tích) đã dám bỏ áo khoác của mình ra chuộc lỗi cho một cô gái vì lỡ tay làm gẫy một cành hoa mẫu đơn của nhà chùa. Sau này trong một chuyến rong chơi, đi lạc vào một hang động đến chốn tiên cảnh gặp tiên nữ Giáng Hương, cũng là người con gái mà Từ Thức đã cứu giúp trước kia. Hai người kết nghĩa phu thê được khoảng một năm trời, Từ Thức cũng như hai chàng Lưu, Nguyễn nhớ nhà, xin về thăm chốn nhân gian để rồi cuộc chia tay cũng lại là vĩnh biệt!
Câu truyện Liễu trai của Lưu An tiên sinh cũng vậy nhưng chỉ khác tâm thế của kẻ may mắn lạc vào chốn thiên thai. Hai chàng Lưu Nguyễn và Từ Thức mang sắc thái của những kẻ lang thang, kỳ ngộ mà gặp tiên nga. Còn nhân vật họ Chung trong truyện của Lưu tiên sinh mang tư chất của một kẻ sĩ, sinh ra trong nghèo hèn đã dựa vào xã hội, sự may mắn và dĩ nhiên từ sự cố gắng, tâm tư thiện lương của chính mình mà thành danh. Rồi cũng vì tao ngộ gặp nàng Thuỷ tiên, công chúa Thuỷ Vương Cung mà lên nghĩa vợ chồng.
Nhưng với tâm tư cao ngạo của một kẻ sĩ, họ Chung đã không quên món nợ mà mình đã may mắn có được từ những ân hưởng của nhân gian mà xin trở lại với xã hội loài người 10 năm để trả món nợ ân tình cho nhân thế! Đó không phải sắc thái đầy cao ngạo, sáng trong như nước suối mùa thu của một kẻ sĩ biết đền đáp, hoàn trả món nợ nhân gian mà mình đã may mắn có được hay sao??? Đúng là:
Trong lang miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương
Làm sao cho bách thế lưu phương
Trước là sĩ sau là khanh tướng.
NCT
Đó là cái hay, cái đáng suy tư làm cho ta thích thú, trầm ngâm khi đọc câu truyện Liễu trai Chung Tài Đạo của Lưu tiên sinh vậy.
Hôm nay dưới cái lạnh lẽo, buồn tẻ giữ đông của đất trời Thuỵ sĩ, ta dành chút thời gian đọc lại bài tân liễu trai chí dị “ Chung Tài Đạo “ của Lưu tiên sinh, đã cho ta cảm giác thích thú khi hoài nhớ đến câu truyện tình lãng mạn, đầy thi tứ của hai chàng Lưu Thần, Nguyễn Triệu nhà Hán bên Tầu, một hôm đi hái thuốc mà lạc vào Thiên Thai rồi kết duyên với hai tiên nữ. Họ sống với nhau được khoảng nửa năm, hai chàng Lưu Nguyễn vì nhớ nhân gian xin trở về thăm, nhưng khi muốn trở lại nơi tiên cảnh thì không được nữa. Hai người vào rừng tìm lại chốn xưa, nhưng chỉ còn là dấu tích rêu phong:
*
Vào truyện
Chung Tài Đạo người làng Kim Biện tỉnh Chí Đông, nhà nghèo. Gia phả truyền nghiệp là nông dân. Dù biết mình là giới lao động ít học, chân lấm tay bùn nhưng Đạo vẫn có ý hướng vươn lên, mong đổi đời, hoà nhập vào giới thượng lưu, chữ nghĩa. Trước là ấm thân mình sau là làm rạng danh dòng họ. Ngay khi lên 5,6 tuổi ngoài những lúc giúp cha mẹ lo việc đồng áng, Đạo luôn luôn tìm cách lân la chơi đùa, kết bạn với những trẻ có ăn học trong làng để học vẻ đài các, phong lưu.
Song thân của Đạo thấy con ham học, có chí tiến thủ cũng mừng, ráng nhịn ăn, nhịn mặc cho con đến trường. Dù ý chí mạnh mẽ nhưng đầu óc Đạo lại kém thông minh vì thế so với bạn bè cùng lớp có phần lết bết. Tuy vậy nhờ tánh chăm chỉ, kính thầy, mến bạn, nhất là tính chuẩn mực của kẻ tự trọng, không ỷ nại vào kẻ khác nên Đạo được mọi người quý mến, thân cận mà giúp đỡ.
Dù học hành muộn màng so với trẻ cùng lứa vài năm, Đạo cũng xong được cấp sơ học trường làng. Đang lúc buồn rầu vì gia cảnh nghèo túng không có điều kiện lên tỉnh tiếp tục việc học. May mắn gặp một người cùng làng có căn nhà để hoang trên tỉnh, bằng lòng cho tạm trú để học hành nhân tiện trông coi hộ.
Đạo vui mừng từ biệt gia đình khăn gói lên tỉnh, ngày ngày ra phố chợ tìm đủ mọi việc làm, từ khu khuân vác đến hầu bàn, đổ rác...miễn là kiếm được tiền ăn học, nếu dư thừa gửi về quê giúp đỡ mẹ cha. Thấm thoát gần 4 năm, lẹt đẹt Đạo cũng giật được bằng tú tài. Dù biết mức học chưa đến đâu so với xã hội nhưng cũng có chút mừng vui vì ít ra cũng đã hoà nhập vào giới cử nghiệp. Tuổi đã ngoài hai mươi, nhưng Đạo chưa hiểu gì về chuyện trai gái, vẫn là gã trai tân ngờ ngệch trong chuyện gối chăn.
Một hôm, sau khi làm hầu bàn cho một nhà hàng ăn đặc sản thịt rừng ở trung tâm tỉnh lỵ. Trên đường về nhà, thình lình có một người đàn ông tuổi trên dưới lục tuần, quần áo thẳng nếp, đầu chớm bạc đội một chiếc khăn nỉ mầu nâu đen,bề ngoài ra vẻ giàu sang. Hình như đã chờ từ trước, thấy Đạo, ông ta tiến đến gần, nở nụ cười, gật đầu chào ra vẻ thân quen biết mà nói rằng:
- Công tử hôm nay làm việc có mệt không?
Đạo giật mình, nhưng cũng cúi đầu trả lễ, ngạc nhiên hỏi:
- Lão nhân gia có lầm người chăng? Vãn bối chưa bao giờ có dịp quen biết với ai sang trọng như tôn lão cả.
Ông lão cười thành tiếng, thân thiện trả lời:
- Làm sao mà lão phu lầm lẫn được? Công tử không phải họ Chung tên Tài Đạo đang làm cho tửu lầu Lâm Vị chuyên bán thịt rừng trong thành phố hay sao? Có chăng là công tử làm việc nhiều quá không nhớ lão phu mà thôi. Lão phu là người khách vừa ăn uống tại tửu lầu hồi xế trưa. Chính công tử cung phụng món ăn cho lão phu mà quên rồi sao?
Rồi ông lão tự giới thiệu tên là Phong An, họ Quân có việc quan trọng muốn nhờ Đạo giúp đỡ. Nghe ông lão nói, Đạo có tí ngạc nhiên nhưng vẫn khẳng khái, thật thà mà trả lời:
- Vãn bối chỉ là kẻ hầu bàn trong tửu lầu, không biết có gì quan trọng mà Quân lão trượng phải nói đến chữ nhờ vả. Nếu không có gì trái với đạo lý, trong khả năng của kẻ hầu bàn thì vãn bối nguyện hết mình phúc đáp. Xin đừng ngại ngần, cứ cho vãn bối biết.
Đáp:
- Công tử thật là người có đức hạnh. Lão phu làm sao mà dám nhờ vả chuyện vô lương. Xin công tử cứ an tâm. Chuyện lão muốn nhờ công tử chẳng có gì khó khăn cả, hôm qua chủ nhân tửu lầu có mua được từ người thợ săn một số thú rừng, trong đó có 4 con chồn, vẫn chưa kịp giết thịt. Lão phu muốn nhờ công tử mua lại cho lão phu cả 4 con chồn đó.
Nói xong ông lão đưa mắt kín đáo dò la ý tứ Đạo, rồi chậm rãi thò tay vào túi móc ra 4 thỏi vàng đưa tận tay Đạo. Thân thiện mỉm cười nói tiếp:
- Số kim lượng này có giá trị gấp trăm lần so với việc đem xẻ thịt mấy con chồn bán cho khách ăn nhậu. Công tử hãy cầm lấy hỏi mua cho lão cả 4 con chồn đó. Sau đó công tử đem cả 4 đến bìa rừng mà phóng sinh cho lão phu. Việc chỉ có thế, chắc không có gì làm xấu xí hai chữ đạo lý của công tử đâu!
Đẩy 3 thỏi vàng về phía ông già, Đạo vui vẻ thưa:
- Việc đơn giản như thế, vãn bối hứa sẽ lo tròn việc lão trượng giao phó, nhưng chỉ một thỏi vàng này cũng quá nhiều rồi, số còn lại vãn sinh xin hồi trả lại.
Ông già nằng nặc không nhận lại 3 thỏi vàng. Cố nhét vào tay Đạo mà nói:
- Sao Công tử rắc rối thế? Lão phu thông hiểu cảnh nghèo khó của học trò mà có lòng giúp đỡ thì đã sao? Huống chi đây là việc trao đổi mà. Công tử làm được việc cho lão, còn lão vui lòng trả công chứ có ai chèn ép, lừa gạt ai đâu mà phải lo. Công tử cứ cố kèo nài với chủ nhân mua cho được lồng thú rồi đem phóng sinh. Số kim lượng còn lại coi như món quà dành cho kẻ hiếu học.
Nhìn vẻ mặt chưa hết ngạc nhiên của Đạo, ông lão nói tiếp:
- Việc phóng sinh 4 con thú rừng với lão phu rất quan trọng, xin công tử đừng coi thường mà hỏng việc của lão phu.
Sáng sớm hôm sau, Đạo đến gõ cửa nhà chủ quán nói ý định muốn mua lồng thú với một thỏi vàng, chủ nhân tửu lầu mừng rỡ bằng lòng ngay. Nghe mua để làm việc phúc đức, phóng sinh, chủ quán không những đưa cho Đạo chiếc lồng nhốt 4 con chồn, còn tặng thêm một chiếc lồng khác chứa 6 con rắn mà ông ta mua cùng với đàn chồn.
Như lời dặn của ông lão họ Quân, Tài Đạo đem cả hai lồng thú đến bìa rừng phóng sinh y như lời dặn. Làm xong việc mới nhớ là mình đã quên không hỏi nhà ông lão để báo tin và nói lời cám ơn. Nghĩ đến cha mẹ và lũ em đang sống cơ cực với căn nhà dột nát, Đạo khóa cửa nhà trọ, dằn kỹ ba thổi vàng trong túi mang về làng cho cha mẹ xây nhà mới.
Sau khi xây nhà xong, Đạo lại lên tỉnh làm việc, tiếp tục việc học hành. Đang trên đường cái quan chợt nghe tiếng ai gọi, quay lại thấy một nữ nhân khoảng 18, 20 tuổi từ bên kia đường, miệng cười tươi như hoa nở đang tiến đến gần mình. Dù quần áo bình dị nhưng nữ nhân cũng không che dấu được nét đẹp hoa nhường nguyệt thẹn. Đạo mê mẩn ngắm nhìn người đẹp chẳng nói nên lời. Nữ nhân nắm lấy bàn tay của Đạo ra vẻ đã quen biết từ lâu mà rằng:
- Chung công tử đi đâu mà lâu thế? Mấy ngày qua, ngày nào thiếp cũng đến nhà trọ của công tử nhưng thấy cửa khoá, then cài. Hôm nay gặp nơi đây, không phải may mắn cho thiếp lắm sao? Gia đình thiếp đang trông mong công tử để tạ ơn cứu mạng đó.
Có lẽ thấy Đạo vẫn còn ngẩn ngơ nhìn mình, cô gái lẳng lơ, đưa tay bá lấy cổ Đạo, kéo sát vào ngực mình, giở giọng nũng nịu, nói tiếp:
- Ô hay, có nghe thấy thiếp nói gì không? Ngớ ngẩn như vậy thiếp đi đây!
Nói xong cô gái làm như muốn đẩy Đạo ra mà đi. Lúc này thì Đạo chẳng còn gì để ngượng ngập nữa. Đưa cả hai tay ôm chặt lấy cô gái hít lấy, hít để, miệng lắp bắp:
- Chẳng biết gia đình nàng quen với ta ra sao nhưng có phải chết ta cũng xin làm con ma si tình đây!
Cô gái cười như nắc nẻ, tát nhẹ vào má Đạo:
- Khiếp thật, coi bề ngoài ra vẻ đạo mạo, nho gia lắm nhưng ai ngờ cũng là con quỷ dâm dục đây!
Thấy cô gái đùa cợt có vẻ dễ dãi, Đạo càng được thể. Tay sờ soạn, vuốt ve khắp thân mình cô gái, miệng thì hôn như rãi gạo trên khuôn mặt vui tươi, đẹp như trăng rằm của người đẹp. Được một lúc, coi vẻ đã thỏa mãn mới nới vòng tay, đắm đuối mà hỏi rằng:
- Ta có bao giờ vỗ ngực xưng danh là kẻ đạo mạo đâu mà trách mắng. Bây giờ cho biết ta phải làm gì để được gần nàng đây?
Lần này thì cô gái đẩy Đạo ra thật, ra vẻ nghiêm giọng:
- Thôi, chuyện đó tính sau. Bây giờ chàng phải đi gặp phụ thân thiếp đã, mọi người đang chờ ở nhà.
Đáp:
- Ta là kẻ nghèo hèn, tìm sống mà lưu lạc đến đây, quen biết thế nào với phụ thân nàng? Nàng có lầm lẫn chăng?
Thiếu nữ khoác vai Đạo âu yếm mà trả lời:
- Thiếp lầm lẫn hay không thì khi chàng gặp song thân thiếp sẽ biết. Còn việc chàng nghèo hèn thì đã sao? Thiếp cũng có phải dòng dõi trâm anh đâu mà chàng phải lo cho bận lòng.
Nghe người đẹp nói thế, Đạo chẳng còn biết trả lời ra sao, cứ như kẻ mất hồn để cho người đẹp dẫn vào con đường mòn trong khu rừng bên đường. Cuối cùng đến trước một ngôi nhà gỗ khá khang trang ẩn mình dưới chân núi. Nữ nhân bỏ tay Đạo ra, mở cánh cổng tre, lên tiếng gọi:
- Cha mẹ ơi, đã đón được Chung công tử rồi đây.
Gọi xong, chẳng cần ai ra đón, cô gái đi trước dẫn Đạo vào căn phòng khách chính giữa nhà, kéo ghế mời:
- Công tử ngồi chơi để thiếp vào mời phụ thân ra ngay.
Chẳng cần mời gọi, ngay lúc đó từ trong nhà bước ra hai lão ông, một lão bà cùng với một thanh niên khỏe mạnh khoảng 24, 25 tuổi. Vừa trông thấy Đạo, lão ông đầu quấn khăn nỉ mừng rỡ nói:
- Chung công tử còn nhớ lão hủ Phong An này không nhỉ?
Nghe ông lão nói, Đạo nhìn lên, giật mình, ngạc nhiên mà rằng:
- Quân lão trượng sao lại ở đây? Vãn sinh đang muốn gặp để báo cho lão trượng biết, vãn bối đã làm y như lời dặn và cám ơn lòng tốt của lão trượng vừa qua.
Quân lão xua tay, cười thành tiếng, trả lời:
- Công tử lầm lẫn rồi, chính lão mới phải nói lời cám ơn công tử đó. Nhờ công tử mà 4 người của gia đình ông anh của lão còn sống đến ngày nay đó.
Nghe Quân lão nói, Đạo giương mắt nhìn ra vẻ chẳng hiểu. Quân lão đưa tay chỉ từng người mà giới thiệu:
- Đây là bào huynh của lão tên gọi Phong Dư. Đây là chị dâu của lão tên gọi là Thuý Cơ. Kia là con trai của anh chị ấy, cháu ruột của lão, tên là Kỳ Chân. Còn Dung Thi, em gái của Kỳ Chân, người vừa dẫn công tử đến đây đó.
Chẳng để cho Đạo thắc mắc nhiều hơn, Quân lão tiếp:
- Công tử chắc không ngờ 4 con chồn mà lão nhờ công tử phóng sinh, chính là 4 người trong gia đình của bào huynh lão đó. Giống nòi của anh em lão là loài cáo, nhờ tu luyện mà thành hồ ly, có thể dùng phép biến hoá mà thành người được. Một lần vì lầm lẫn phép biến hoá mà cả gia đình bào huynh của lão bị trở lại kiếp chồn. Đúng lúc lầm lẫn đó bị người thợ săn giăng lưới bắt được. Nếu không nhờ công tử cứu giúp thì đã thành món ăn vào bụng thế gian rồi. Đó không phải là ơn nghĩa tái sinh của công tử dành cho gia đình bào huynh lão sao?
Nghe lão Phong An giải thích, Đạo đã rõ sự việc, biết mình đang thân cận với hồ ly. Nhưng đưa mắt nhìn thấy họ chẳng khác gì người nhân gian, mà còn có phần đạo mạo, phú quý hơn là khác. Đúng lúc Đạo đang suy nghĩ vẩn vơ, Dung Nhi đến gần ôm lấy Đạo vui vẻ mà hỏi:
- Biết thiếp là hồ rồi còn dám sờ mó, hôn hít người ta như vừa rồi nữa không, hay lại sợ bị hớp hồn mà chết?
Đang lúc Đạo ngượng cứng người trước đám đông không biết trả lời ra sao thì bà mẹ, Thúy Cơ đã nhanh nhẹn:
- Cái con mất nết này, mày không sợ nói như vậy làm công tử khinh rẻ mà tránh xa sao?
Cười to hơn, cô gái trả lời mẹ:
- Mẹ đừng xem mã bề ngoài hiền lành, đạo mạo của người ta mà lầm lẫn. Trên đường về nhà mấy lần con tưởng phải ngộp thở vì hôn và không có quần áo lành lặn mà về đó. Người ta chẳng hiền lành như mẹ nghĩ đâu.
Hình như nhìn thấy vẻ khó xử của Đạo, Phong Dư đánh trống lảng:
- Mời Chung công tử vào phòng ăn để Quân mỗ được hồi đáp ơn cứu mạng, cũng là dịp tâm tình cho tình thân thắm thiết hơn.
Bữa tiệc kéo dài đến gần chiều tối mới chấm dứt. Trong bữa ăn Đạo được mọi người săn đón nồng hậu, như muốn vun vào cho Dung Nhi. Đạo không nói ra nhưng vừa ý lắm, nhiều lần muốn ôm ngay lấy người đẹp mà nuốt ngay vào bụng Lúc giã từ ra về, chân bước đi mà hồn như còn gửi lại cho người đẹp. Chẳng biết vô tình hay hữu ý bà mẹ của người đẹp vồn vã mà nói:
- Con Dung Nhi nhà tôi vẫn còn dại khờ, chắc phải nhờ dến công tử dậy bảo nhiều lắm đó.
Nói xong, quay sang con gái mà ra lệnh:
- Con hãy thay cha mẹ tiễn công tử một đoạn đường.
Đạo mừng như mở cờ trong bụng, chưa kịp nói lời cám ơn thì người đẹp đã chạy đến ôm chặt lấy Đạo sung sướng kéo ra khỏi nhà:
- Đúng ý chàng muốn rồi phải không? Thiếp cũng đang nóng lòng với chàng đây.
Ngôi nhà gỗ vừa khuất tầm mắt, không gian vắng vẻ lại thêm bầu trời đã nhá nhem tối. Đạo chẳng còn đợi chờ được nữa, chụp ngay lấy người đẹp muốn đè ngay ra mà ái ân. Thấy Đạo hung dữ quá, cô gái đã có phần sợ hãi, cố day mình rút được cánh tay ra, lấy hết sức tát một cái như trời giáng vào mặt Đạo rồi hét lên mà mắng:
- Đồ vũ phu! Ta tưởng gặp được kẻ có chữ nghĩa mà yêu đương, hoá ra chỉ là loại du thử, du mục thế này sao?
Cái tát như búa đập lại thêm câu chửi bới khinh khi của người đẹp làm Đạo tỉnh giấc, vội vàng quỳ xuống chân người đẹp mà ăn năn:
- Ta đã biết tội rồi, xin nàng khoan dung mà tha thứ. Từ nay xin chẳng dám làm bừa như vậy nữa.
Thấy Đạo đã biết điều, cô gái có phần đoái thương, đưa tay nâng dậy ôn tồn nói rằng:
- Sao chàng không chịu suy xét một tí để hiểu rằng, thiếp không động lòng vì chàng thì há gì thiếp lại tranh lấy việc đưa tiễn chàng cho khổ? Chuyện gối chăn, thiếp có dám chối từ chàng đâu nhưng không lẽ giữa chốn rừng hoang mà làm chuyện ấy được sao? Đã thế tiễn chàng mà đi quá lâu cũng khó giải bầy với song thân thiếp lắm. Mong chàng nén lòng mà chia tay, tối mai thiếp sẽ tự tìm đến với chàng để thỏa lòng mong ước.
Đáp:
- Xin nàng đừng thay lòng đổi dạ để cho ta phải sầu tương tư mà chết.
Tối hôm sau, khi làm việc ở nhà hàng trở về nhà Đạo tắm rửa sạch sẽ chong đèn ngồi chờ. Khoảng giữa đêm Dung Nhi y hẹn đến, Đạo mừng rỡ kéo lên giường mà ngủ, khi trời vừa sáng nàng nói vài lời từ biệt mà đi. Từ đó cứ độ hai, ba ngày lại đến một lần, nhiều khi ở lại cả ngày nấu cơm, giặt quần áo cho Đạo như vợ lo cho chồng. Đạo dò hỏi ý tứ cha mẹ về chuyện vắng nhà, đến ở với mình, nhưng Nhi chỉ cười không nói hay tìm cách đánh trống lảng. Thấy vậy Đạo cũng chẳng để ý, coi như bình thường, muốn đến đâu thì đến.
Một hôm, Đạo đang nằm với Nhi trên giường, chợt nghe tiếng ai đập cửa gọi tên mình. Ra mở cửa, thoáng thấy bóng một nữ nhân mặc toàn trắng đặt vội một gói nhỏ trước cổng nhà rồi biến mất sau lùm cây bên đường. Mở gói ra thấy một chuỗi ngọc trai, một chiếc nhẫn đính hồng ngọc và mảnh giấy hoa tiên với dòng chữ rất đẹp: “Ngọc trai dành tặng phu nhân, hồng ngọc trả ơn chàng cứu tử.“ Cuối mảnh giấy viết 4 câu thơ với tên người tặng là Long Thuỷ Tiên.
Buồn thay nhẽ! Xuân về hoa nở
Mối sầu riêng ai gỡ cho xong!? (*)
(*) Ái tư văn (Ngọc Hân công chúa)
Đạo không hiểu đưa cho Nhi xem, nhưng Nhi cũng mù tịt, chẳng biết Long Thuỷ Tiên là ai, tại sao lại trả ơn cứu tử? Để khỏi phụ kẻ tốt lòng, Đạo làm y lời đưa cho Dung Nhi chuỗi ngọc trai còn mình giữ chiếc nhẫn hồng ngọc.
Thấm thoát đã gần nửa năm quen biết Nhi, Đạo cũng xong được bằng cử nhân, nghĩ rằng đã đến lúc mài chữ nghĩa ra kiếm ăn nên bỏ hẳn việc hầu hạ tửu lầu. Đệ đơn nhờ quan tổng đốc xin triều đình bổ nhiệm đi làm quan. Quan Tổng Đốc thấy Đạo xuất thân bần hàn nhưng có chí tiến thủ lại chữ đẹp văn hay nên tận tình giúp đỡ. Trong khi chờ chiếu tuyển dụng của triều đình, quan mướn Đạo làm gia sư cho mấy đứa của quan. Nhờ tánh tình hoà nhã, làm việc giỏi giang nên rất được gia đình quan quý mến tin cậy như người ruột thịt trong nhà.
Một hôm Dung Nhi đến cho biết song thân muốn mời Đạo đến nhà ăn cơm tối nhân tiện có điều quan trọng nhờ cậy. Đạo hỏi chuyện gì nhưng nàng nói không biết, cứ đến gặp song thân tức khắc sẽ hiểu. Khi đến nhà có cả lão Phong An, thấy mọi người ra vẻ săn đón chiều chuộng mình khác thường, Đạo đoán có chuyện gì quan trọng nên cảm thấy bất an nhưng không tiện hỏi. Sau bữa ăn khi quây quần quanh chiếc bàn khách, Dư lão nhìn Đạo mà hỏi:
- Ta nghe Dung Nhi cho biết ngươi đang làm gia sư cho con của quan tổng đốc, rất được quan tin dùng, coi như người trong gia đình phải không?
Đáp:
- Đúng vậy, Dư lão có chuyện gì quan trọng muốn hỏi vãn sinh?
- Giữa ta và tên tổng đốc có mối thù giết dòng tộc. Ta muốn nhờ ngươi giúp ta trả được mối thâm thù này.
Đạo ngạc nhiên, hỏi:
- Xin Dư lão cho biết về mối thù và muốn nhờ vãn bối làm gi?
Đáp:
- Như ngươi đã biết dòng tộc ta là loài cáo, chúng ta sống nhờ thức ăn, nước uống từ núi rừng. Thời gian gần đây sinh xuất tăng mạnh thực phẩm của rừng núi không đủ cung ứng, chúng ta đã phải vào làng xã loài người ở chung quanh bắt gà vịt, gia súc để ăn. Tên tổng đốc tỉnh đã chỉ dẫn dân làng cách săn bẫy, thậm chí còn giúp phương tiện, quân lính tìm cách tiêu diệt loài cáo chúng ta. Đây là mối thù mà loài cáo chúng ta phải báo, chính vì vậy ta muốn ngươi giúp đỡ.
Hỏi:
- Vãn sinh chỉ là gia sư thấp hèn trong phủ tổng đốc. Dư lão có lầm lẫn mà nhờ vả không đúng người chăng?
Đáp:
-Không, ta không lầm đâu. Ta chỉ cần ngươi mang một số tài liệu có tính phản nghịch kín đáo để vào thư phòng của tên tổng đốc. Còn việc tố cáo với triều đình, kết tội hắn sẽ có người khác lo toan.
Tài Đạo không ngần ngại, thẳng thắn trả lời:
- Việc này thì vãn bối không thể giúp Dư lão được.
- Tại sao không?
Đáp:
- Vãn sinh thấy đây là hành động dối trá, phản bội, hãm hại người khác một cách thiếu quang minh, vô đạo đức… Dù sao vãn bối cũng là người hiểu rõ chữ nghĩa thánh hiền, vãn sinh không thể làm kẻ điều ti tiện như vậy được. Hơn nữa quan tổng đốc cũng là người có chút ơn tình với vãn bối, không lẽ vãn bối lấy oán để trả ân sao?! Nếu lộ ra, danh dự, tội lỗi nơi công đường ai chịu cho vãn bối?
Suốt nẫy đến giờ lão Phong An im lặng, nhưng khi nghe Đạo nói, hắn cau mày:
- Thế ngươi quên ngôi nhà của song thân ngươi ở vùng quê được xây dựng lại là tiền ai cho ngươi sao? Còn việc ngươi giúp chúng ta ai biết mà ngươi phải lo lắng?
Tài Đạo nhìn lão An mỉm cười, trả lời:
- Lão gia nói mà không suy nghĩ rồi. Với 4 thỏi vàng mà cứu sống được cả gia đình bào huynh của lão là quá mắc sao? Có lẽ con người tính toán khôn ngoan như lão trượng, nếu cần đến 10 lần nhiều hơn mà được việc lão trượng vẫn bằng lòng. Tóm lại đây đúng nghĩa là việc trao đổi mà lão trượng là người vừa lòng nhất vậy.
Ngần ngừ chút, Đạo tiếp lời:
- Sao lão gia nói không ai biết? Gia đình họ Quân của lão gia biết, vãn bối biết, trời đất biết và cả lương tâm ngay thẳng, danh dự người sĩ phu của vãn bối biết…Vãn bối không thể làm việc này cho lão gia được đâu.
Lão Phong Dư không còn giữ được bình tĩnh khi nghe Đạo trả lời, đứng bật dậy đưa tay chỉ Tài Đạo, lão hét:
- Ngươi hãy cút ra khỏi nhà ta ngay! Từ nay, cấm ngươi liên hệ với con gái ta. Ngươi hãy chờ đó để xem ta đối xử với ngươi ra sao.
Nói xong lão xừng xộ đẩy Đạo ra khỏi nhà trước những cặp mắt đồng cảm của mọi người trong gia đình lão. Với thái độ dữ dằn đó, Đạo đành cúi đầu im lặng bước ra khỏi nhà. Rời khỏi căn nhà được một quãng, Dung Nhi chạy theo nắm lấy tay Đạo buồn bã hỏi:
- Chàng nhất định không vì thiếp mà nghe lời phụ thân thiếp sao?
- Không! Ta đã nói hết ý của ta với phụ thân nàng rồi.
Lại hỏi:
- Không lẽ duyên tình của thiếp và chàng đến đây là chấm dứt sao?
Đạo chưa hết bực mình vì lời đe dọa của lão Phong Dư, phụ thân nàng nên thẳng giọng trả lời:
- Nàng đến đây tiễn đưa ta hay muốn khuyên ta vì nàng mà phải làm điều vô nhân?
Dung Nhi thở dài:
- Nói vậy thì ý chàng đã quyết rồi. Trước khi chia tay thiếp xin chàng đừng coi thường lời đe dọa của phụ thân thiếp mà mang khổ vào thân. Xin chàng bảo trọng!
Nói xong bỏ cánh tay Đạo, quay mình đi trở lại ngôi nhà. Từ ngày đó, Nhi không đến nữa. Rồi nhờ sự tiến cử chân thành của quan tổng đốc, Đạo được triều đình cho làm chức quan đốc học chuyên lo về việc giáo dục của tỉnh, dưới quyền quan tổng đốc.
Bẵng đi khoảng vài tháng, vào một đêm, Đạo đang ngồi trong thư phòng mơ màng nhìn ra ngoài cửa sổ. Không biết từ đâu Dung Nhi từ hàng hiên đi vào nhà nhìn Đạo mỉm cười mà hỏi:
- Chàng đã làm ông quan lớn, có còn nhớ đến thiếp không?
Đạo mừng rỡ, đứng dậy đưa tay ôm lấy Nhi vuốt ve mà nói:
- Nàng lại đến với ta đó sao? Làm sao ta quên được nàng.
Dung Nhi đẩy bật Đạo ra, gằn giọng:
- Thiếp đến không phải để nối lại duyên tình, thiếp muốn chàng nghĩ lại mà giúp gia đình thiếp báo thù đây.
Đáp:
- Sao nàng cứ khăng muốn ta làm kẻ bất nghĩa như thế? Huống chi ngày nay ta đã là vị quan chuyên lo về giáo dục, không lẽ ta lại dám làm cái chuyện vô giáo dục đó ư?
Đưa tay chỉ vào mặt Tài Đạo, tức giận sẵng giọng Dung Nhi nói:
- Ta đã nhiều phen hạ mình xin xỏ ngươi giúp gia đình ta trả mối thù sát tộc. Nhưng ngươi vẫn ngoan cố mà chối từ. Từ nay, ta và ngươi đã đến lúc phải vĩnh biệt rồi.
Nói xong, quay mặt bỏ đi không thèm ngó lại.
Sáng hôm sau, đang trên đường đi làm việc. Thình lình có hai kẻ lạ mặt từ phía sau chụp lấy Đạo quăng lên chiếc xe song mã rồi chạy mất. Đến khoảng hoàng hôn, chiếc xe dừng lại ngay tại bãi biển. Chẳng nói một câu gì, hai kẻ bắt cóc, trói chân tay Đạo kỹ lưỡng đem lên một chiếc thuyền khá to đang thả neo bên bờ biển. Sau đó chiếc thuyền tách bến, chạy ra ngoài biển xa. Từ căn phòng dưới sàn thuyền, lão Phong An, gia đình Phong Dư cùng với một vài người khác bước ra. Với vẻ mặt tự mãn, lão Phong Dư nhìn Đạo mỉm cười, nói:
- Có lẽ ngươi đã thấy lời đe dọa của ta không phải là trò đùa cợt? Ngươi chết xuống âm phủ cũng đừng trách chúng ta độc ác, mà nên tự trách ngươi ngu đần, không biết thức thời để làm trái lời yêu cầu của chúng ta.
Đạo tức giận trả lời:
- Ta không ngờ các ngươi lại lấy oán trả ân như thế. Với loại người bất nhân, bất nghĩa như chúng bay thì trời cũng chẳng buông tha đâu.
Nghe Đạo nói, Phong An cười to:
- Tên học trò ngu ngốc, gần chết kia. Chúng ta có là người đâu mà ngươi nói đến chữ bất nhân?! Thôi, cũng là số phận của ngươi. Hãy yên lòng mà xuống biển làm bạn với Hà Bá.
Nói xong, lão đưa tay ra lệnh cho vài tên nô dịch liệng Đạo xuống biển. Tay chân bị trói chặt dù có dẫy giụa cũng vô ích cho nên Đạo đành để thân mình chìm dần xuống đáy biển. Nhưng trước khi ngộp thở đến mê man, Đạo thoáng nghe thấy tiếng người đối đáp:
- Không biết tại sao thằng này có được chiếc nhẫn này? Bây giờ phải làm sao đây?
Đáp:
- Theo ý ta nên đem nó đến cho Hà Bá tướng quân để ngài định đoạt là tốt nhất.
Sau đó Đạo không còn biết chuyện gì xẩy ra, nhưng khi mở mắt dậy thấy mình đang nằm ẹp trên một chiếc bục bằng đá trong một toà đại sảnh. Một tấm biển đính sát trên vách sau đại sảnh viết năm chữ to mầu đỏ: “Hà Bá Tướng Quân Phủ”. Ngay trước bục đá nơi Đạo đang nằm, một nam nhân phương phi oai nghiêm với bộ râu quai nón cắt tỉa rất gọn ghẽ trong bộ quần áo tướng quân ngồi trên chiếc ghế bành to lớn khảm xà cừ. Ngay dưới đế của ghế bành viết bốn chữ cũng mấu đỏ: “Hà Bá tướng quân”. Hai bên là hai tên lính hầu to lớn nghiêm trang đứng cầm 2 cây giáo bằng đồng bóng láng, lấp lánh dưới ánh đèn. Vị tướng quân thấy Đạo đã tỉnh, hất đầu hỏi:
- Nói tên họ, nghề nghiệp trên nhân gian của ngươi, rồi cho ta biết vì đâu ngươi có cái nhẫn khảm hồng ngọc.
Đạo ngồi dậy, quỳ lạy mà thưa:
- Bẩm tướng quân, tiểu sinh họ Chung, tên Tài Đạo, người làng Kim Biện, hiện đang làm chức tiểu quan chuyên lo việc giáo dục của tỉnh Chí Đông. Tiểu sinh không chịu làm việc bất nghĩa mà bị hồ ly hãm hại, trói liệng xuống biển. Về chiếc nhẫn, tiểu sinh ngẫu nhiên được một nữ nhân tặng cho khoảng một năm về trước.
Hà Bá cau mày hỏi rõ:
- Nữ nhân đó là ai? Tại sao lại tặng cho ngươi?
Đáp:
-Tiểu sinh không biết rõ lý do, cũng như chưa thực sự nhìn thấy dung dạng của nữ nhân. Chỉ thấy thoáng qua, cùng với vài chữ đề tặng của nữ nhân mà thôi.
Rồi Đạo kể chi tiết cho Hà Bá nghe. Nghe xong Hà Bá ra vẻ đăm chiêu một lúc, rồi bước xuống tự tay nâng Đạo đứng dậy, thân mật mà nói:
- Việc này nếu đúng như tiên sinh nói thì bổn quan đành phải mời tiên sinh đến thăm Thủy Vương Cung để gặp Hoàng gia mới minh bạch được mà thôi.
Nói xong Hà Bá quay sang tên lính hầu nói vài tiếng xi xô mà Đạo chẳng hiểu gì, rồi quay sang Đạo:
- Tiên sinh là người nhiều phúc đức lắm đó! Người tặng nhẫn cho tiên sinh là đệ tam công chúa của bản quan đó.
Tài Đạo được đưa lên chiếc xe rất sang trọng được kéo bởi một cặp thú giống như rùa nhưng chân dài hơn, đi nhanh hơn. Chiếc xe đi vòng vèo xuyên qua nhiều núi đồi, khoảng thời gian đốt hết nén hương thì đến một khu vực rất xầm uất, nhiều ngôi nhà cổ xưa cao lớn xen kẽ nhau. Kẻ buôn bán, người rong chơi đông đảo như một đô thị trên nhân gian. Sau cùng đến một lâu đài rất đồ xộ, bao quanh bởi dẫy tường thành có những tháp canh, trên đó lô nhô lính vác gươm, dáo làm nhiệm vụ gác thành. Phía trên chiếc cổng rất to mầu xám có một tấm bảng bằng đồng đen khắc 3 chữ rất to: “Thủy Vương Cung “
Chiếc xe theo đường trải sỏi đến trước trước lâu đài thì dừng lại. Một tên lính mặc quần thuần đen, áo thắt eo sát vào người, thêu nhiều hình sắc nhanh nhẹn chạy ra mở cửa xe, rất lễ độ mời Tài Đạo xuống xe rồi đi trước dẫn đường đến thẳng đại sảnh. Giữa đại sảnh có hai chiếc ghế bành to lớn, bằng vàng khảm ngọc trai đủ mầu sắc, xếp ngang nhau. Trên ghế có hai người tuổi trung niên tóc đốm bạc uy nghi ngồi. Người ngồi trên chiếc ghế bành bên trái là nam nhân đầu đội mũ Khổng Minh, mặt phúc hậu, râu ba chòm dài xuống tận ngực, phong thái rất uy nghi. Người ngồi trên ghế bành phải là nữ nhân, đeo khăn, dù đã đứng tuổi nhưng khuôn mặt trắng mịn, hiền hậu vẫn còn vướng vấn rất nhiều nét đẹp quý phái của một giai nhân thời son trẻ. Đằng sau hai người có khoảng trên 10 người khác, trai có, gái có yên lặng nhưng có vẻ vui mừng đứng nhìn khi thấy Tài Đạo theo người lính hầu đi vào.
Chỉ nhìn thoáng qua Đạo cũng đoán đây là hoàng gia của Thủy vương cung. Hai người ngồi ghế bành là Thủy vương và hoàng hậu, đằng sau là con cháu trong hoàng gia. Bước đến bậc thềm, Đạo quỳ, đập đầu xuống đủ ba lần rồi mới lễ phép thưa:
- Tiểu nhân xin kính chào hoàng thượng, hoàng hậu và hoàng gia. Kính chúc hoàng thượng, hoàng hậu và hoàng gia mọi sự an lành, vạn vạn phúc. Xin tha lỗi cho tiểu nhân nếu vì ngu ngốc mà có điều gì sơ sót.
Thủy vương ra dấu cho Tài Đạo đứng dậy, hiền lành hỏi:
- Ta đã được tướng quân Hà Bá cho biết sơ sài về việc ngươi đã quen biết ái nữ của ta rồi. Ngươi có thể kể cho ta nghe thêm một lần nữa nhưng phải rất rõ ràng, tất cả các chi tiết liên quan đến cuộc tao ngộ giữa ngươi và ái nữ của ta được không?
Tài Đạo lần lượt kể tường tận tất cả những sự việc từ khi là đứa học trò nghèo lên tỉnh học, làm việc kiếm sống ở tửu lầu, vô tình cứu sống gia đình hồ ly họ Quan rồi quen biết thân tình với Dung Nhi. Sau khi xong cử nhân được quan tổng đốc tỉnh Chí Đông tin dùng cho vào nội dinh làm việc, rồi bị hồ ly họ Quan bắt ép phải làm chuyện bất nhân để trả thù quan tổng đốc. Nhưng không chịu làm theo mà bị bắt trói liệng xuống biển …
Nhà vua và hoàng gia lắng nghe xong, vẻ mặt vui mừng mà hỏi:
- Nói như vậy thì ngươi chưa có gia thất sao? Không lẽ ái nữ ta lầm lẫn?
Đáp:
- Bẩm nhà vua, tiểu nhân vẫn là kẻ độc thân, chưa bao giờ kết hôn. Tiểu nhân cũng chưa bao giờ biết mặt hay quen biết công chúa thì làm sao tiểu nhân làm ơn cứu mạng công chúa được? Theo tiểu nhân thì công chúa đã lầm lẫn tiểu nhân với người khác. Xin nhà vua và hoàng hậu truy xét tường tận để tiểu nhân không mang tiếng là kẻ lừa dối.
Nhà vua quay lại đằng sau nhìn vào một cô gái, tuổi khoảng 18, 20, mặc đồ toàn trắng, xinh đẹp như tiên nga, với giọng vui mừng nhà vua nói:
- Sao? Con gái yêu của ta, còn để ta phải bế ngươi ra đặt vào lòng tình nhân của ngươi hay sao? Hãy ra cám ơn người ta đi.
Những tiếng cười khúc khích kèm theo vài tiếng thúc dục của đám đông đã đẩy cô gái ngượng ngập bước ra, đến trước mặt Đạo, cô gái quỳ xuống mà thưa rằng:
- Thiếp xin cám ơn chàng đã có lòng tốt cứu mạng thiếp.
Đạo lách mình sang bên, như không muốn nhận lời cám ơn của giai nhân:
- Xin công chúa hãy đứng dậy, tiểu nhân chắc chắn có sự hiểu lầm rồi!
Công chúa vẫn quỳ, ngước mắt lên nhìn Đạo, nhỏ nhẹ nói:
- Thiếp không lầm lẫn đâu, chàng làm phúc mà không biết đó mà thôi. Chàng còn nhớ lần chàng mua 2 sọt thú rừng. Một sọt có 4 con cáo, sọt kia có 6 con rắn đem ra bìa rừng phóng sinh không? 6 con rắn đó là thiếp và 5 nữ tỳ vì ham vui chơi trên nhân gian rồi bị lạc đường chưa kịp về thì bị thợ săn bắt được đem đi bán cho tửu lầu. Nếu không có chàng thì chúng thiếp đã trở thành món ăn cho kẻ phàm phu rồi! Đấy không phải là ơn tái sinh của chàng dành cho chúng thiếp sao?
Chẳng chú ý đến nét mặt ngẩn ngơ, ngoài sức tưởng tượng của Đạo, công chúa quay sang đám nữ tỳ đứng gần mà nói:
- Các ngươi không quỳ xuống khấu đầu tạ ơn cứu tử của Chung công tử đi còn đứng đó nhìn sao?
Năm cô nữ tỳ như cái máy cùng quỳ xuống trước Đạo lạy như tế sao, nói liên tục những câu cám ơn. Đúng lúc đó, Hoàng hậu đến nâng Đạo đứng lên cùng với công chúa, rồi nhỏ nhẹ hỏi công chúa:
- Thuỷ Tiên, vì đâu mà con nói công tử đã có gia thất, lại đem tặng vợ công tử chuỗi ngọc trai của mẹ?
Thuỷ Tiên ngượng ngùng kể lể:
- Sau khi thoát chết con và mấy nữ tỳ tìm đến nhà trọ của công tử, nhưng cửa khoá nên con đành trở về lại thủy cung. Sau đó khoảng vài tuần sau con đi một mình đến nhà công tử do la một lần nữa. Lần này con thấy công tử và một nữ nhân thân cận như vợ chồng, con nghĩ công tử đã có gia thất. Trong lúc thất vọng vì vỡ mộng, con không muốn gặp lại công tử nữa, nhưng đã mang ơn mà không trả cũng không được, vì vậy con đành tháo chuối ngọc trai và chiếc nhẫn đính hồng ngọc của mẹ mà làm quà trả ơn. Cũng vì buồn đau khi nghĩ công tử đã có vợ nên gọi cửa rồi để hộp quà tặng trước cửa nhà mà bỏ đi.
Đạo nghe Thuỷ Tiên nói, hiểu rõ ngọn ngành. Đưa mắt kín đáo nhìn công chúa, vừa xinh đẹp, sang trọng quý phái lại nặng tình với mình… Cảm động, vui mừng không nói nên lời.
Thuỷ vương, suốt nẫy đến giờ im lặng theo dõi câu chuyện. Nhà vua phá lên cười, ra lệnh cho đám cận vệ:
- Đặt yến tiệc cho ta tiếp đãi con rể khác giống nòi của ta mau.
Quay sang Tài Đạo thủy vương thân cận nói:
- Ngươi có biết không, con gái ta đã bỏ ăn bỏ ngủ, buồn đau vì nghĩ ngươi đã có vợ đó. Hôm nay thì mọi điều đã rõ ràng, vậy ngươi có muốn làm con rể của ta không?
Đạo sung sướng như mở cờ trong bụng, quỳ xuống lạy tạ mà thưa:
- Thưa bệ hạ, vãn bối được công chúa hạ mình mà thương yêu, lại được bệ hạ rộng lòng chấp nhận thì đúng là điều vạn vạn phúc cho vãn bối rồi, làm sao vãn bối dám chối từ. Nhưng vãn bối chỉ xin bệ hạ cũng như công chúa nên suy nghĩ rất kỹ trước khi quyết định gia ân cho vãn bối. Dòng dõi của vãn bối là một kẻ quê mùa, nghèo túng. Còn chức phận cũng chỉ là một viên quan thấp kém ở một địa phương hẻo lánh trên nhân gian… Những thua kém, thấp hèn đó của tại hạ có phải là những điều mà bệ hạ và công chúa không nhìn thấy khi ban ân cho tại hạ không?
Thủy vương chẳng cần suy nghĩ:
- Dòng dõi của ngươi chẳng phải là điều ta để ý. Vấn đề quan trọng nhất là con gái yêu của ta có yêu thương ngươi, bằng lòng lấy ngươi làm chồng hay không và cuối cùng ngươi có bằng lòng rời bỏ nhân gian để làm con rể ta không? Nếu có hai điều đó thi đám cưới sẽ thành hình trong nay mai.
Quay sang công chúa, Thủy vương hỏi:
- Thuỷ Tiên, cha muốn biết ý của con thêm một lần nữa.
Công chúa ngượng ngùng, cúi mặt nói rất nhỏ:
- Con nguyện sẽ không phụ tình yêu của chàng. Xin cha mẹ hãy vun xén cho con được toại nguyện.
Thủy vương đến nắm tay hoàng hậu đứng dậy, cười vui vẻ:
- Thế là đã xong. Từ nay bà và tôi không phải lo lắng cho đứa con gái cứng đầu nữa nhé.
Quay sang Đạo, nhà vua hỏi:
- Sau khi chính thức thành rể của gia đình ta, ngươi sẽ có một vị trí trong thuỷ vương cung đúng với tài năng của ngươi. Ngươi nghĩ sao?
Tài Đạo quỳ xuống, kính cẩn mà thưa rằng:
- Thưa bệ hạ, tiểu bối có một điều cầu xin, mong bệ hạ thương tình mà chấp nhận cho. Như bệ hạ đã biết tiểu bối sinh ra, lớn lên trong một gia đình nghèo hèn. Nhờ có được bao nhiêu những may mắn trong đời nên mới có ngày hôm nay. Tiểu bối tự cảm thấy mình mang những món nợ của xã hội nhân gian, phải có trách nhiệm trả lại một phần nào món nợ ân tình may mắn đó cho nhân gian. Vậy tiểu bối sau khi kết hôn với công chúa, xin bệ hạ cho phép tiểu bối cùng công chúa trở lại nhân gian khoảng 10 năm trời. Với thời gian đó tiểu bối sẽ mang tất cả tài năng của mình ra để phục vụ, đền bồi cho xã hội nhân gian, coi như trả món nợ mà tiểu bối đã may mắn nhận được từ nhân gian. Sau đó tiểu bối sẽ trở về thủy vương cung vĩnh viễn sống và làm việc như lệnh của bệ hạ.
Nghe Tài Đạo nói xong, thuỷ vương quay sang Thuỷ Tiên, hỏi:
- Con gái ta nghĩ sao? Ngươi có dám theo chồng ngươi để chịu đựng những khổ sở trên nhân gian không?
Thuỷ Tiên chẳng môt tí lưỡng lự, quỳ xuống trước mặt cha mẹ mà thưa rằng:
- Thưa cha mẹ, lấy chồng thì phải theo chồng là lẽ đương nhiên rồi. Xin cha mẹ đừng lo lắng, khi rời xa cha mẹ theo chàng con đã mang theo một thứ khí giới rất chắc chắn đó là tình yêu của chàng và con dành cho nhau.
Rồi một đám cưới đình đám, vương giả được tổ chức, Tài Đạo chính thức thành phò mã của Thủy vương cung. Sau đó Tài Đạo dẫn Thuỷ Tiên trở về ra mắt cha mẹ anh em cũng như quan tổng đốc. Nhiều người thắc mắc về việc Đạo bị bắt cóc, Đạo tìm cách nói thác cho qua rồi lại trở về cơ quan tiếp tục làm việc. Thuỷ Tiên xinh đẹp, nhu mì, chăm lo việc nhà bất cứ việc gì cũng làm đâu ra đó, lại ăn nói rất khéo léo nên được lòng tất cả mọi người. Từ anh em cha mẹ của Đạo ở làng quê cho đến hàng xóm, láng giềng cũng như nơi công sở, ai ai cũng quý mến.
Đạo cũng là một vị quan rất chuẩn mực, làm việc rất siêng năng, liêm khiết. Luôn luôn lấy việc gương mẫu làm tiêu chuẩn. Thông hiểu hoàn cảnh nghèo khổ thủa hàn vi của chính mình nên Đạo cố gắng tìm đủ mọi dịp để nâng đỡ người nghèo khó hiếu học, có ý chí vươn lên. Đạo lập ra hiệp hội những nhà hảo tâm giàu có trong tỉnh, hô hào đóng góp xây dựng trường sở, ký túc xá hay cấp học bổng cho những gia đình nghèo. Chỉ trong vài năm dưới sự làm việc của Đạo ngành giáo dục của tỉnh Chí Đông đã phát triển rất mạnh. Triều đình đã nhiều lần tuyên dương và lấy những thành quả, hoạt động của Đạo làm tiêu chuẩn cho các địa phương khác noi theo.
Thấm thoát gần 5 năm trôi qua, Thuỷ Tiên sinh cho Đạo 2 đứa con một trai, một gái, cả hai đều xinh đẹp, ngoan ngoãn. Một hôm vào mùa xuân nắng ấm, cây cỏ xanh tươi, gia đình Đạo dẫn nhau đi dạo ở khu rừng bìa thành phố. Đạo chợt nghe thấy tiếng rên nho nhỏ, loáng thoáng như gọi tên mình từ lùm cỏ dại bên dòng suối dọc đường. Đạo chạy đến vạch lùm cây thấy một nữ nhân bị thương tích khắp người, mái tóc bị cháy đen, khuôn mặt dính đầy máu. Vợ chồng Đạo đỡ nữ nhân ngồi dậy, lấy khăn tay lau chùi vết máu trên mặt. Đạo ngạc nhiên la lên:
- Dung Nhi đây sao? Tại sao nàng ra nông nỗi thế này?
Dung Nhi mở mắt nhìn vợ chồng Đạo, khóc mà nói:
- Xin chàng tha thứ cho thiếp đã đối đãi không tốt với chàng ngày xưa. Bây giờ hối hận thì đã quá muộn rồi. Đúng là quả báo đã dành cho cái tội lấy ơn trả oán của gia đình thiếp đối với chàng vậy. Mấy ngày trước dân làng vì không chịu được sự phá phách của họ cáo nhà thiếp, dân làng bảo nhau tìm cách dồn họ cáo của thiếp đến chân núi rồi dùng cây cỏ khô vây lại mà đốt. Thúc phụ Phong An, gia đình thiếp cũng như phần lớn họ cáo nhà thiếp đều bị chết cháy. Thiếp may mắn hơn thoát được ra đây, ngẫu nhiên nghe thấy tiếng chàng nói mà gọi cầu may mong gặp được chàng để nói lời xin lỗi trước khi chết.
Nói xong Dung Nhi cố mở mắt nhìn Đạo lần cuối trước khi chết. Đúng lúc tắt thở, phép biến hoá mất đi, thân hình Dung Nhi co nhỏ lại dần dần biến trở lại kiếp cáo. Vợ chồng Đạo thương tình đào hố bên đường, khi nhắc xác con cáo lên thấy chuỗi ngọc trai vẫn còn đeo trên cổ cáo. Đạo đưa tay định tháo lấy lại nhưng Thuỷ Tiên gạt tay ra mà nói:
- Hãy để lại cho cô ta, dù sao cũng là một kỷ vật giúp cô ta mãi nhớ đến chàng và thiếp.
Thời gian như chim bay ngoài cửa sổ, mười năm hạn kỳ trở về Thủy vương cung đã đến. Một hôm quan tổng đốc được tin không thấy Đạo đến cơ quan làm việc, quan lại lo Đạo bị bắt cóc như lần trước nên đến nhà Đạo tìm hiểu. Vào trong nhà thấy lá thư của Đạo viết gửi quan tổng đốc. Đại khái lá thư cho biết đã để lại tất cả tài sản, bổng lộc của 10 năm làm việc nhờ tiết kiệm, thanh liêm mà có, Đạo nhờ quan tổng đốc đem dùng vào việc giáo dục của tỉnh như xây trường học, cư xá cho học sinh.
Sau khi gia đình Đạo ra đi được vài ngày, có người tìm thấy chiếc xe ngựa của gia đình Đạo ở bãi biển. Có người nói đã chính mắt trông thấy Đạo và gia đình xuống một chiếc tàu rất đẹp, rất to nhắm hướng đông nam mà đi. Có người lại nói vào một đêm mưa bão họ đã trông thấy cả gia đình Đạo được một chiếc xe kéo bởi đôi chim hạc từ trời hạ xuống đón đi mất. Lại có nhóm người đi biển cho biết trong một lần gặp gió bão ngoài biển khơi, tàu của họ sắp chìm thì thấy Đạo hiện lên từ đáy biển giúp đỡ mà thoát nạn.... Tất cả toàn là những câu truyện thêu dệt của thế nhân. Đúng hay sai chẳng ai kiểm chứng được. Nhưng dân cư của tỉnh Chính Đông ngày nay vẫn còn nhớ đến công lao của vị quan chuyên lo về giáo dục rất liêm chính tên là Chung Tài Đạo. -/-
Hết
(*) Kim Thánh Thán (1608 -1661) nhà phê bình văn học kiệt suất của TQ thời cuối nhà Minh, với lối văn phê bình rất ấn tượng và được hậu thế coi là ông vua của lối văn bạch thoại. Ông đã phê bình rất nhiều tác phẩm nổi danh của nền văn hoá TQ như Thuỷ Hử, Sử ký Tư Mã Thiên, Tây Sương ký, thơ Đỗ Phủ... Năm 1661 ông bị nhà Mãn thanh xử tử vì một chuyện vu vơ. Trước khi chết ông vẫn giữ sắc thái ung dung với lời tiếu ngạo:“ Chém đầu thì đau đớn lắm, tịch biên thì thê thảm lắm, thế mà ngờ đâu Thánh Thán ta lại gặp cảnh này, kỳ lạ lắm thay!“