Chương 31
Tôi tỉnh dậy bởi tiếng ai đó sột soạt bên cạnh. Tôi mở mắt nhìn quanh, hơn một nửa số người trong phòng đều đã thức giấc và đang chuẩn bị cho một ngày làm việc mới. Darla vẫn đang ngủ, với con thỏ rúc sát bên.
Tôi lẳng lặng mặc quần áo và xỏ chân vào giày. Mắt cá chân bên phải của tôi sưng vù và bầm tím vì thế đi giày quả là một cực hình đối với tôi. Tôi đã phải cắn chặt răng để không bật ra thành tiếng. Tôi đeo balô lên vai và ra chỗ bàn giấy chào bà Nance, người cũng đã dậy từ lâu và đang ngồi làm việc.
“Cảm ơn bà đã cho cháu nghỉ lại đây đêm qua.” Tôi nói.
“Không có gì.” Bà hiệu trưởng già mỉm cười đáp lại. “Khoảng 10 phút nữa bữa sáng sẽ được phục vụ ở trong căng-tin. Nếu cháu muốn có thể tham gia cùng mọi người trước khi đi.”
“Cháu nghĩ cháu nên đi thôi. Cháu đã nhận được quá nhiều ưu ái của mọi người rồi. Một lần nữa cháu rất cảm ơn bà.”
“Đi cẩn thận nhé, chàng trai trẻ.”
Tôi dừng lại một lúc quay lại nhìn Darla. Cô ấy trông thật nhỏ bé và cô độc trên tấm đệm giữa căn phòng rộng lớn. Tôi cứ cảm thấy không cam tâm khi bỏ cô ấy lại thế này. Tôi biết mình sẽ rất nhớ cô ấy nhưng lý trí mách bảo tôi đang làm đúng, Darla sẽ được an toàn hơn ở đây, giữa những người quen, những người cô ấy đã lớn lên cùng, hơn là đi với tôi, trong một hành trình đầy mạo hiểm tới Warren. Trừ phi… cho tới khi cô ấy hồi phục lại sau cú sốc về cái chết của mẹ mình. Giờ Darla không có tâm trạng làm bất cứ chuyện gì, chứ đừng nói là thực hiện một chuyến đi dài ngày và gian khổ. Tôi quay đầu bỏ đi.
Nhiệt độ bên ngoài vẫn tiếp tục hạ. Lạnh đến mức tôi thở ra cả khói. Lớp quần áo mỏng trên người tôi dĩ nhiên là không thể đủ dưới thời tiết buốt giá thế này. Tuy nhiên, với cường độ hoạt động liên tục của tôi trên đường, tôi sẽ không phải lo là không đủ ấm. Nhưng nếu tôi phải ngủ ngoài trời thì đó sẽ là một vấn đề.
Tôi trượt về hướng Nam khoảng hai dãy nhà rồi rẽ phải vào đường First Avenue, đi theo hướng Đông. Qua First Avenue là đến đường Đông Worthington. Tôi tranh thủ trời đang sáng, cố gắng dùng hết sức trượt đi thật nhanh. Nằm ngay phía bên ngoài thị trấn là một ngọn đồi to và thoải. Tôi không gặp khó khăn gì khi leo lên đó, cố gắng chỉ tập trung vào việc di chuyển, không nghĩ tới Mắt Bò, cô Edmunds, hay gia đình tôi hay… Darla.
Lên đến đỉnh đồi, tôi đứng lại, vươn vai nhìn xung quanh. Trời hôm nay không có gió, và bầu không khí cũng đã dễ thở hơn nhiều so với những ngày đầu sau vụ nổ. Vạn vật vẫn đang chìm trong thứ bóng tối mịt mờ của bóng chiều chạng vạng, nhưng ít ra không còn đen kịt như mấy tuần trước.
Trước mặt tôi là con đường chạy thẳng xuống triền dốc dài thoai thoải. Dọc hai bên đường thấp thoáng vài thân cây ngô héo úa, trồi lên từ bên dưới lớp bụi tro. Tôi quay đầu nhìn lại vết ván trượt ngoằn ngoèo kéo dài từ Worthington của mình.
Từ đằng xa tôi nhìn thấy một đám bụi tung mù mịt. Một bóng người nhỏ xíu đang trên ván trượt rời khỏi Worthington, cũng hướng về phía Đông như tôi. Kể từ khi rời khỏi Cedar Falls tới giờ, tôi mới biết có đúng một người sử dụng ván trượt để di chuyển. Tôi ngồi xuống vệ đường và chờ đợi, nhìn cô ấy cặm cụi leo lên đồi tiến về phía mình. Tôi nên nổi cáu hay chào đón cô ấy? Tôi cũng không biết nữa.
Darla phải mất hơn nửa tiếng mới trèo lên được tới nơi. Một tay cô ấy ôm con thỏ ngớ ngẩn kia. Tay còn lại ôm đôi gậy trượt, gậy mà cầm như thế thì coi bằng không.
“Cậu đang làm cái quái gì ở đây thế?” Tôi hỏi, lúc cô ấy trượt tới trước mặt tôi.
Cô ấy không trả lời.
“Cậu không mang đồ đạc gì; cậu thậm chí còn không mặc đủ ấm… Nhỡ hôm nay tôi không nhìn thấy cậu thì sao? Cậu sẽ chết là cái chắc!”
Vẫn không có phản ứng gì.
“Quay lại Worthington đi. Cậu sẽ được an toàn hơn ở đó. Mọi người đều biết và quý mến cậu. Nơi tôi đang tới… có Chúa mới biết được điều gì đang chờ ở phía trước. Có khi tôi cũng chẳng sống quá được một tuần.”
Cô ấy vẫn không chịu nhúc nhích.
“Nếu không thì ít ra cậu cũng thả con thỏ chết tiệt đó đi được không?”
Cô ấy càng ôm chặt con thỏ hơn.
“Thôi được, chúng ta có thể làm thịt nó khi nào hết thức ăn.”
Cô ấy trừng mắt nhìn tôi, tay vẫn không ngừng vuốt ve con thỏ.
“Khổ quá!” Tôi than thầm, không biết nên giải quyết vấn đề này thế nào. Tôi hoàn toàn có thể lên ván trượt và tăng tốc, bỏ xa cô ấy. Nhưng nếu Darla vẫn cứ đi theo tôi về hướng Đông, cô ấy chắc chắn sẽ chết. Cô ấy không mang theo thực phẩm, nước uống hay bất cứ thứ gì khác. Và thú thực mà nói, có một giọng nói rất nhỏ đang thì thầm nói với tôi, cái giọng nãy giờ tôi đang tìm mọi cách để dập tắt, rằng nó rất vui khi nhìn thấy cô ấy. Tôi thở dài, đẩy ván trượt quay trở lại Worthington.
Tôi không mất nhiều thời gian để trượt xuống đồi. Tôi cắm cúi đẩy hai cây gậy trượt và lao mình về phía trước, động tác giống như khi trượt tuyết. Tôi chỉ dừng lại quay đầu tìm Darla khi đã vào đến rìa Worthington. Nãy giờ cô ấy mới đi được ¼ quãng đường ngược trở lại thị trấn. Tôi vượt qua đường First Avenue, rẽ trái vào đường Third, quay trở lại phòng thể dục của trường Thánh John.
Cô Nance vẫn đang ngồi làm việc ở bàn. “Sao cháu lại quay lại thế? Ta không nghĩ sẽ gặp lại cháu sớm thế này.”
“Vâng, cháu cũng không nghĩ là mình sẽ phải quay lại thế này. Bà có biết ai còn cái balô nào muốn bán không ạ?”
“Ở đây có vài cái đấy. Mấy cái to thì không còn nhưng ta có thể để lại cho cháu một trong mấy cái túi đựng sách của ta.”
Bà ấy thắp ngọn nến lên và dắt tôi đi qua hành lang vào một phòng học trống, nay đã được cải tạo thành phòng chứa đồ. Có rất nhiều đồ lặt vặt trong phòng: sáu tấm đệm cũ, hai cái xe đẩy trẻ con, vài tấm gỗ xẻ kích thước 2x4, và một đống quần áo cùng nhiều đồ vật khác.
Chúng tôi dừng lại ở một cái bàn, một đầu chất đầy balô cỡ nhỏ. Tôi lật từng cái, kiểm tra từng chiếc khóa kéo một. Hầu hết đều được làm bằng nhựa rẻ tiền, thường chưa hết một năm học đã hỏng hoặc gãy. Như thế thử hỏi làm sao nó tồn tại nổi quá một tuần dưới trời mưa bụi? Cuối cùng tôi chọn một cái to nhất, có khóa kim loại và hỏi bà Nance xem muốn đổi nó lấy gì.
Đúng như dự đoán của tôi, bà ấy là một người bán hàng cực kỳ khó chịu. Không lẽ người phụ nữ ở Worthington ai cũng vậy? Nếu có Hội Những Người Chuyên Mặc Cả chắc bà Nance và bà Rita Mae xứng đáng chức chủ tịch hội. Kết quả là tôi phải mất cho bà ấy hai miếng thịt thăn hun khói, một cái đùi và một túi bột ngô, để đổi lấy cái balô vớ vẩn kia. Lúc tôi ra đến ngoài cửa thì Darla cũng đã ở đó, đang đứng đợi tôi.
Tôi lấy cái chăn trong balô của mình ra lót vào xuống đáy cái cặp sách. Sau đó nghĩ về kế hoạch của mình, tôi lại lót thêm tấm vải dầu lên trên cái chăn. Để bảo vệ nó khỏi phân thỏ. Chỉ mới thế thôi đã chiếm gần hết nửa cái túi.
Tôi nhấc lấy con thỏ, nhưng Darla lập tức ôm chặt nó vào lòng. “Cứ buông ra, tôi không làm hại nó đâu.” Tôi nói.
Tần ngần một lúc, cuối cùng cô ấy cũng chịu buông con thỏ ra. Nó quẫy đạp lung tung nhưng rồi vẫn phải yên vị trong cái túi. Tôi kéo khóa lại, chỉ để hở khoản 5 phân cho nó thở. Mặc dù thú thực là tôi cũng chẳng quan tâm lắm việc nó có bị ngạt thở hay không.
“Đây.” Tôi giơ cái balô lên đeo vào vai cho Darla. “Cố mà bám theo tôi đấy nhé!”
Cô ấy không trả lời, tiếp tục lững thững đi theo tôi. Chúng tôi quay trở lại đúng con đường vừa đi ban sáng. Ánh sáng bên ngoài đã nhạt dần trong thời gian tôi kỳ kèo mặc cả với bà Nance. Tôi ngước mặt nhìn lên bầu trời ở dằng xa. Những cái xúc tu màu xám xịt đang trườn bò trên bầu trời vàng vọt, mây đen luôn báo hiệu sắp có bão. Có điều trông chúng chẳng giống bất kỳ đám mây nào tôi từng biết.
Suy nghĩ trong đầu tôi cũng đang ngổn ngang như chính những đám mây trên trời. Lúc rời khỏi Worthington lần đầu tiên, tôi đã thấy vô cùng trống trải khi không có Darla. Nhưng giờ có cô ấy đi cùng thế này tôi có cảm thấy hạnh phúc hơn không? Không, tôi không hề cảm thấy như vậy. Trái lại, hai vai tôi trĩu nặng bởi một thứ cảm xúc khó tả.
Phải mất một lúc tôi mới tìm được nguyên nhân của tâm trạng buồn bực, bất an kia: đó là nỗi lo sợ. Dù đúng hay sai, tôi luôn cảm thấy có một phần trách nhiệm với cái chết của mẹ Darla. Và giờ điều tôi lo sợ nhất là: nhỡ đi theo tôi, Darla cũng sẽ bị thiệt mạng giống như mẹ cô ấy thì sao?