← Quay lại trang sách

Chương 58

Vài tuần sau, một trận bão tuyết lớn quét qua Warren, khiến cho một căn nhà kính của chúng tôi thủng lỗ chỗ. Bác Paul và anh Max phải bắc thang trèo lên nóc cửa để sửa. Bác Paul đứng trên thanh dùng băng dính dán các lỗ thủng, còn anh Max giữ ở bên dưới.

Các luống cải xoăn bị đóng băng gần hết. Rebecca, Darla và tôi dành nguyên cả buổi sáng trong nhà kính để nhặt những cái lá úa ra khỏi thân cây. Hy vọng chúng có thể tiếp tục sống, sau khi chúng tôi đã bỏ đi các phần bị đóng băng.

“Phí quá.” Rebecca vừa nhặt vừa tiếc rẻ.

“Ít ra bọn dê cũng được một bữa no ngày hôm nay.” Darla an ủi.

“Nhưng còn chúng ta?” Mặt Rebecca đỏ hồng lên vì lạnh. Hai tay run rẩy. “Nhỡ cơn bão càng lúc càng tồi tệ hơn thì sao? Chúng ta có thể cùng lúc mất đi toàn bộ chỗ nhà kính. Kể cả nếu nhà kính không sao thì thời tiết sẽ chỉ càng lạnh hơn mà thôi. Liệu đám cải xoăn này có chịu nổi không? Nhỡ năm sau không có mùa xuân thì sao? Nhỡ…”

“Rebecca.” Tôi nắm lấy vai cô em gái. “Đừng suy nghĩ bi quan như vậy. Rồi chúng ra sẽ vượt qua thôi.”

“Anh không biết điều đó. Anh không thể biết điều đó. Ngày nào em cũng nhìn ra đường, ngóng bố mẹ trở về nhưng đợi mãi mà chẳng thấy ai. Có lẽ họ không quay về nữa. Có lẽ họ đã chết. Có lẽ chúng ta cũng sẽ chết. Chết vì đói hoặc vì lạnh trong mùa đông dài đằng đẵng này.” Nước mặt chảy dài trên má Rebecca.

Tôi kéo cô em gái ôm vào lòng. “Chúng ra sẽ không chết đói hay chết rét đâu. Nếu bố mẹ không quay lại vừa mùa xuân tới, anh sẽ đi tìm họ. Anh hứa đấy.”

Và thế là Rebecca khóc thổn thức trong vòng tay tôi. Darla bước tới bên cạnh, quàng tay ôm cả hai chúng tôi.

Từ trên cao bác Paul dừng lại ngó xuống hỏi “Mấy đứa không sao chứ?”

“Vâng ạ, bọn cháu không sao.” Tôi trả lời.

Bác gật đầu rồi quay lại với mấy cái lỗ thủng. Đột nhiên tôi nghe thấy tiếng bác hét ầm lên, và chỉ kịp quay lại chứng kiến cảnh bác rời từ trên thang xuống mái nhà. Cái thang rung lên bần bật, xô anh Max ngã bổ nhào ra đất. Chân trái của bác Paul bị mắc vào giữa cái thang và thanh kèo nhà, một bên thang. Tôi nghe thấy tiếng xương kêu răng rắc lúc chân bác Paul bị bẻ ngoặt ra đằng sau. Cả người bác treo lủng lẳng giữa hai thanh kèo bởi cái chân gãy.

Bác Paul rên rỉ, mới đầu là những tiếng rên yếu ớt, sau to dần thành tiếng thét thất thanh. Tôi đẩy Rebecca sang một bên và lao tới chỗ bác. Darla chạy tới giữ lấy cái thang đang móc vào chân bác Paul. Sau đó cô ấy chạy vào trong nhà kính.

Trần nhà kính khá thấp nên tôi có thể với được tới bác Paul. Tôi đỡ lấy vai hai vai bác và nâng bác lên để giảm bớt sức ép lên cái chân gãy của bác. Cẳng chân của bác bị bẻ ngoặt theo một góc 90 độ. Tôi không nhìn thấy máu rỉ ra trên quần bác, chứng tỏ xương vẫn chưa bị lòi ra.

Darla đỡ anh Max dậy và cả hai cùng nhau nâng cái thang lên để gỡ chân bác Paul ra. Bác ấy hết lên đau đớn lúc cái thang dịch chuyển. Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt bác. Darla và anh Max lại xoay cái thang thêm lần nữa và chân bác Paul bật ra. Bác rơi xuống, và tôi giơ tay ra đỡ bác. Rebecca cũng chạy tới hỗ trợ tôi, nhưng bác lọt qua tay chúng tôi, rơi phịch xuống luống cải xoăn.

Tôi quỳ xuống cạnh đầu bác. Cả người bác run rẩy, mồ hôi túa ra đầm đìa, miệng thở hổn hển, cùng một lúc. “Bác ý bị sốc rồi!” Tôi hét lên, “Ai đó lấy mấy cái chăn ra đây. Và hai cái gậy để làm cáng nữa.” Darla và anh Max chạy về nhà, tôi để ý thấy anh ấy vừa chạy vừa ôm sườn bên trái, chỗ cái thang đập vào khi nãy. Rebecca mặt tái mét nhìn tôi. Tôi nói. “Anh sẽ ở đây với bác. Em chạy ra ngoài tìm bác Caroline mau.” Con bé gật đầu và tất tả chạy ra ngoài.

“Bác cố lên.” Tôi nắm tay động viên bác Paul. “Cháu đang gọi người giúp rồi.” Bác oằn người vì đau đớn.

Chưa đầy một phút sau, Darla, anh Max và Rebecca quay trở lại nhà kính cùng với bác Caroline và chị Anna, trên tay ôm một đống chăn và hai cây gậy dài. Bác Caroline co rúm người lại khi nhìn thấy cái chân gãy của chồng còn chị Anna giấu vội mặt vào lưng mẹ. Darla trải cái chăn to nhất ra và trùm lên hai cây gậy làm cáng.

“Chúng ta cần phải nẹp cái chân trước khi di chuyển bác ấy.” Darla nói.

“Chứ không phải là nắn thẳng nó ra trước à?” Tôi hỏi.

“Không, đừng làm thế.” Bác Carolien xua xua hai tay. “Như thế sẽ chỉ càng khiến cho nó nặng hơn thôi.”

“Nhưng chúng ta rồi cũng vẫn phải nắn lại xương ống chân cho bác ấy.” Darla nói.

“Không. Bác muốn bác sỹ McCarthy làm việc đó.” Bác Caroline khăng khăng nói.

“Bác ấy có ở Warren không ạ?” Darla hỏi.

“Có.”

“Trước mắt chúng ta hãy cứ đưa bác vào trong nhà đã.” Tôi nhích xuống chỗ cái chân gãy của bác Paul rồi luồn một tay xuống dưới đầu gối bác, tay còn lại luồn dưới bắp chân, ngay dưới chỗ gãy. “Cháu sẽ cố giữ chỗ gãy này. Những người khác hơi nâng bác ấy lên nhé. Chúng ta sẽ trượt dần bác ấy lên cáng.”

Mọi người đều vào vị trí và tôi hô, “Đếm đến ba nhé! Một… hai… ba!” Chúng tôi trượt bác Paul lên cáng. Tôi đã cố gắng giữ chân bác thật chắc, nhưng vẫn nghe thấy tiếng xương chạm vào nhau kin kít. Bác bấu lấy tay tôi chặt đến nỗi tôi tưởng như muốn gãy.

Chúng tôi trùm thêm hai cái chăn nữa lên cáng rồi khiêng bác đi thật chậm vào nhà. Bác Paul gồng người lên vì đau đớn, lúc chúng tôi hạ bác xuống sàn phòng khách, kế bên lò sưởi. Chị Anna lấy cái gối trên đi-văng kê xuống dưới đầu bác.

“Đặt cái gối xuống dưới cái chân lành của bố em ý.” Darla nói. “Bố em đang bị sốc, nên chúng ta nên nâng hai chân cao lên. Nhưng có lẽ chúng ta không nên động vào cái chân gãy, cho tới khi nẹp cố định được nó.” Chị Anna lấy cái gối ra.

“Bác không biết phải nẹp nó thế nào.” Bác Caroline nhìn chằm chằm vào chỗ gãy.

“Muốn đưa bác ấy tới Warren, chúng ta sẽ phải nẹp nó lại mới di chuyển được.” Darla nói.

“Không”, Bác Caroline nói. “Bác sẽ vào thị trấn và đón bác sỹ McCarthy. Bác chắc chắn là ông ấy sẽ tới. Ông ấy là bác sỹ gia đình của nhà bác từ xưa đến giờ.”

Đột nhiên bác Paul thò tay ra khỏi chăn, nắm lấy cổ chân vợ. “Không. Sửa cái nhà kính đi đã.” Giọng bác thều thào, nói không ra hơi.

“Chúng ta sẽ sửa nó sau, giờ phải lo cho cái chân của anh đã, Paul ạ.”

“Không. Nhà kính là ưu tiên hàng đầu hiện nay. Chúng ta không thể mất chỗ cải xoăn đó được.”

“Giờ cái chân của anh mới là ưu tiên hàng đầu.” Bác Caroline mím chặt môi tuyên bố.

“Thề có Chúa, nếu không ai chịu ra ngoài đó và sửa cái nhà kính ngay bây giờ…” Bác Paul nhắm chặt mắt lại vì đau. “Tôi sẽ bò ra đó và tự làm một mình.”

“Để cháu đi mời bác sĩ cho.” Tôi xung phong. “Cháu có thể chạy bộ tới Warren được.”

Bác Carroline thở dài. “Thôi được, để anh Max đi cùng cháu. Anh ấy biết văn phòng của bác sĩ ở đâu.”

“Anh chạy được không?” Tôi hỏi anh Max.

“Được.” Anh ấy gật đầu. “Sườn của anh hơi đau một chút nhưng anh đoán là chỉ bị bầm tím thôi.”

“Mang cả Darla đi nữa.” Bác Caroline nói. “Sẽ an toàn hơn nếu ba đứa cùng đi. Anna, con trông bố ở đây. Cho thêm nhiều củi vào để bố được ấm. Và cho bố uống một chút nước nữa. Rebecca, cháu và cô đi sửa cái nhà kính.”

“Cô đứng lên thang sửa từ bên trong ý ạ.” Darla nói. “Như thế sẽ an toàn hơn.”

Tôi đi vào trong bếp lấy một cái balô, một chai nước, một con dao, vài miếng thịt khô và nửa hộp diêm. Chưa đầy một phút sau, Darla, anh Max và tôi đã rời khỏi nhà tiến về phía Warren.

FEMA vẫn chưa dọn đường sau trận bão gần đây nhất, nhưng được cái tuyết không quá dày nên chúng tôi có thể chạy dễ dàng trên đường. Chỉ có điều đường hơi trơn trượt. Chúng tôi chạy khoảng 10 phút, rồi dừng lại nghỉ lấy hơi, và đi bộ nhanh trong vài phút trước khi lại rủ nhau cùng chạy tiếp.

Chúng tôi tới Warren trong thời gian kỷ lục, chưa đầy một giờ. Không thấy có bóng người nào trên phố, có thể là do trời bên ngoài đang quá lạnh nên mọi người đều đang trốn ở trong nhà hết. Anh Max dẫn chúng tôi tới một căn nhà mái thấp ở phía Nam của thị trấn. Tấm biển bên ngoài đề: PHÒNG KHÁM GIA ĐÌNH.

Bên trong phòng khám, mọi người đang xếp hàng dài trong phòng chờ, chờ đến lượt. Hầu hết đều là người già và trẻ con có bố mẹ đi kèm. Nhiệt độ trong phòng chờ cũng lạnh chẳng kém gì bên ngoài, mọi người ai cũng sù sụ áo rét, găng tay và mũ len. Ánh sáng duy nhất trong phòng được phát ra từ cái đèn dầu đặt trên chiếc bàn nhỏ giữa phòng.

“Bác sĩ đâu ạ?” Tôi hỏi một người ở cuối hàng. Ông ta chỉ lên phía trước. Tôi chạy hộc tốc lên phía trước, chen qua mấy người đang đứng bên ngoài cửa phòng khám.

“Này, cậu kia, phải xếp hàng đi chứ!” Ai đó quát lên.

“Cháu xin lỗi, đây là trường hợp khẩn cấp.” Tôi nói.

Phía sau cánh cửa, hàng người được chia ra làm hai, dẫn vào hai phòng khám liền kề nhau. Tôi chui vào căn phòng gần nhất. Ở góc phòng, lại có một chiếc đèn dầu khác đang bập bùng cháy. Người đang ngồi trên bàn khám có khuôn mặt già nua, đầu đội  một chiếc trùm tai. Người đứng trước mặt ông ấy trông có vẻ trẻ hơn, tay cầm chiếc đèn pin nhỏ xíu đang soi vào miệng bệnh nhân nên tôi đoán đấy là bác sĩ.

“Bác cháu bị gãy chân.” Tôi hối hả nói. “Chúng cháu cần bác giúp.”

“Đợi chút, con trai.” Vị bác sĩ giơ tay lên. “Để bác khám nốt cho cụ này đã.” Nói rồi bác mở ngăn kéo rút ra một gói giống như gói ngũ cốc Froot Loops. “Ông dùng cái này rồi tuần sau quay lại đây tái khám.”

“Cảm ơn cậu nhé, Jim.” Ông cụ bước xuống khỏi bàn, cầm lấy gói ngũ cốc rồi đi ra.

“Nào, giờ thì kể cho bác nghe về tình trạng của bác cháu xem nào.”

Tôi kể sơ qua về cú ngã từ trên nóc nhà kính của bác Paul cho bác sĩ nghe.

“Có phải là gãy xương hở không?” Bác sĩ hỏi.

“Gãy gì cơ ạ?”

“Xương có bị lòi ra ngoài không?”

“Cháu nghĩ là không, nhưng chưa ai cởi quần bác ý ra xem nên không dám chắc.”

“Hừm… Thôi được rồi, đi theo bác.” Vị bác sĩ tên Jim cần cái đèn dầu lên rồi đi ra ngoài hành lang gọi ầm lên. “Belinda! Tôi có ca chấn thương cần phải đi ra đây chút.”

Từ căn phòng khám kế bên, tiếng một người phụ nữ vọng ra “Ối, một mình tôi khám cho ngần này người có mà đến hết đêm à?”

“Chỉ là một ca gãy xương bình thường thôi, nên chắc tôi vẫn quay lại kịp để giúp cô.” Nói rồi ông ấy đi vào một căn phòng khác, lấy các dụng cụ y tế cần thiết và cho vào một cái cặp da màu đen.

Tôi định quay lại ra khu phòng chờ thì bác sĩ khoát tay gọi tôi đi theo hướng ngược lại, “Xe ở đằng sau nhà.”

“Bác có xe cơ ạ?” Tôi trố mắt hỏi.

“Nó không hẳn là của bác nhưng đúng là giờ bác đang sử dụng nó thật.” Bác ấy mở cánh cửa sau ra rồi thổi tắt ngọn đèn dầu và bỏ nó lại trên sàn, đằng sau cánh cửa.

Ở bãi đỗ xe chỉ có duy nhất một con sedan cổ.

“Uầy…” Darla trầm trồ huýt sáo. “Bác lái con xe này ý ạ?”

“Chiếc duy nhất trong vùng còn chạy được.” Bác ấy gật đầu nói. “Mấy đứa lên xe đi.”

Trên xe không hề có dây an toàn nhưng bác sỹ McCarthy lái xe chậm đến mức tôi chẳng cảm thấy lo lắng gì. Anh Max chỉ đường cho bác ấy và chẳng mấy chốc chúng tôi đã rẽ vào đường Stagecoach.

“Con xe này sản xuất năm nào thế ạ?” Darla tò mò hỏi. “Cháu từng nhìn thấy một con Ford ’39 trông cũng tương tự thế này.”

“Đây là con Studebaker,” Bác sĩ McCarthy giọng đầy tự hào. “Đời 41 Champion.”

“Phải nói là quá đẹp ý ạ. Thế mà cháu cứ tưởng bác sĩ nào cũng chạy Mercedes cơ đấy…” Darla thật thà nói.

“Không, BMW chứ.” Bác ấy khịt mũi. “Bác cũng có một con. Nhưng sau khi tro bụi bắt đầu rơi, xe cứu thương không thể từ Galena chạy tới đây, nên bác đã dùng con BMW của mình. Chạy được vài lần thì nó bị tro bụi phá tan thành cái động cơ, giống như toàn bộ các xe khác trong vùng. May mà con xe này được Gale Shipman phủ kín bạt cất trong gara nên không bị làm sao. Chúa ơi, ông ta đã tức điên khi ngài thị trưởng yêu cầu đưa nó cho bác mượn. Chắc ông ấy sẽ chẳng bao giờ thèm nhìn mặt hay nói chuyện với bọn bác nữa.”

“À mà lúc nãy trong phòng khám bác đã đưa cho ông cụ gói gì thế ạ?” Tôi hỏi. “Cháu trông giống như… ngũ cốc Froot Loops.”

“Ừ đúng rồi đấy, là ngũ cốc Froot Loops của hãng Kellogg.” Bác sĩ McCarthy bắt đầu công nhận.

“Tại sao ạ?”

“Vì bọn bác hết mất loại ngũ cốc Special K rồi.”

“Chưa bao giờ cháu thấy bác sĩ nào lại đi kê đơn ngũ cốc cho bệnh nhân cả.”

“Có gì phải dùng nấy thôi. Tất cả những người ở phòng khám đều bị bệnh scurvy, một loại bệnh do thiếu hụt vitamin C. Triệu chứng của bệnh này là chảy máu chân răng, chậm lành vết thương, và có các vết thâm tím rộng trên da. Tất cả chúng ta rồi sẽ bị bệnh này nếu không tìm được món gì khác để ăn ngoài thịt lợn. Thường người già và trẻ con sẽ bị trước.”

“Hóa ra món ngũ cốc buổi sáng có chứa vitamin C ạ?”

“Chính xác. Bọn bác tìm được một xe tải đầy ngũ cốc bị bỏ lại trên quốc lộ 11. Nếu là vitamin tổng hợp thì tốt hơn, nhưng như thế này cũng là quý lắm rồi. Giờ chỉ lo không biết đến lúc dùng hết chỗ ngũ cốc ấy thì lấy gì để bù vitamin cho mọi người.”

“Làm sao mọi người kiếm được thịt lợn để ăn thế ạ?” Darla hỏi.

“Từ các trang trại lợn. Có ba cái ở gần Warren. Bác nghĩ phải có hơn 10 ngàn con lợn ý. Cả thị trấn tập trung lại để cùng mổ và dự trữ thịt mà. May mà trời lạnh sớm chứ không chắc chỗ thịt ấy hỏng hết.”

Darla thở dài. “Ít ra thì các bác không phải lo lắng về việc không có cái ăn.”

“Nhà mình cũng đâu phải lo không có thức ăn.” Anh Max xen vào. “Trước giờ nhà mình mới hết thức ăn hai lần, mà đấy là trước khi chị tới đây và chế ra cái máy xay ngô.”

“Ừ” Darla nói. “Nhưng bố em đang bị thương thế này chúng ta làm sao đào được nhiều ngô như trước nữa. Hơn nữa, nếu mất đi cái nhà kính…”

“Sẽ không sao đâu.” Tôi không muốn làm anh Max lo chứ trong thâm tâm tôi đang có chút lo lắng.

“Rẽ ở đây ạ”. Anh Max nói và bác sĩ McCarthy bẻ tay lái rẽ vào đường Canyon Park. Vài phút sau, chúng tôi dừng lại trước con đường nhỏ dẫn vào sân. Chúng tôi mới chỉ dọn tuyết vừa đủ để đi bộ chứ không đủ rộng cho một con Studebaker. Bốn người chúng tôi xuống xe, đi bộ vào trong nhà. Bác Caroline và Rebecca cũng từ trong nhà kính đi vào nhà cùng chúng tôi.

Da của bác Paul giờ đã xám ngoét và ướt đẫm mồ hôi. Chị Anna đã cắt chỗ vải quanh cái chân bị thương. Chỗ gãy đang tím bầm và sưng vù lên, nhưng không thấy có máu. Bác sĩ McCarthy quỳ xuống xem xét vết thương trên chân bác Paul.

“Trông nó thế nào anh Jim?” Bác Paul hỏi.

“Cũng không đến nỗi tệ lắm. Giá mà tôi có thể chụp x-quang chỗ gãy, nhưng tôi nghĩ là nắn được.”

“Tốt, tốt.” Bác Paul thở phào nhẽ nhõm.

“Tin tốt là tôi vẫn còn ít băng nẹp bằng sợi thủy tinh.”

“Còn tin xấu là…?”

“Chúng tôi đã hết sạch thuốc giảm đau từ nhiều tuần nay.”

“Và đó là điều tôi sợ nhất.”

“Tôi cần một chậu nước sạch.”

“Để cháu đi lấy.” Chị Anna vụt đứng dậy.

Bác sĩ McCarthy lấy từ trong cái túi ra một cái que bọc da, trên đó in hằn những dấu răng khác. Bác Paul nhăn mặt nhưng vẫn cầm lấy cái que trên tay vị bác sĩ ngậm vào miệng.

“Hãy để người lớn giữ tay và chân anh Paul.” Bác sĩ McCarthy nói. “Làm sao để anh ấy cử động càng ít càng tốt.”

Mới đầu tôi không biết bác sĩ đang nói ai. Bác Caroline quỳ xuống giữ một bên tay của chồng. Bác sĩ McCarthy quay ra nhìn tôi và tôi bước tới giữ nốt cái tay còn lại.

“Ở đây ai là người khỏe nhất?” Bác sĩ hỏi.

“Alex,” Darla nói.

“Darla,” Tôi nói.

“Vậy thì một trong hai cháu nên giữ cái chân trái phía trên chỗ bị gãy. Bác cần nó phải được giữ cố định lúc bác nắn lại xương.”

“Cậu làm đi.” Tôi bảo Darla.

Darla giữ lấy bắp đùi bác Paul còn anh Max phụ trách bên chân lành lặn còn lại. Tay trái của bác sĩ McCarthy nhẹ nhàng cầm vào chỗ chân gãy, tay phải nắm chặt lấy cổ chân bác Paul. Cả người bác Paul oằn lên vì đau, miệng cắn chặt lấy cái que da. Ở bên cạnh, Rebecca và chỉ Anna chỉ biết nắm chặt tay nhau đứng nhìn.

“Mọi người sẵn sàng chưa?”

Tôi gật đầu.

Bác sĩ McCarthy bẻ mạnh cổ chân của bác Paul ra sau. Tiếng thét của bác Paul tắc nghẹn trong cổ họng, toàn bộ cơ bắp trên người bác co rút lại, làm tôi phải nhào hẳn người ra phía trước, dùng cả hai tay và sức nặng cơ thể để đè tay bác ấy xuống sàn. Khuôn mặt bác như biến dạng đi vì đau đớn. Trong tiếng thét của bác tôi có thể nghe thấy tiếng thét của bác tôi có thể nghe thấy tiếng xương chạm vào nhau, lúc bác sĩ McCarthy nắn thẳng chân bác ấy ra.

Tiếng thét của bác Paul đột nhiên tắt lịm và cánh tay bác ấy mềm oặt ra dưới tay tôi. “Cháu kiểm tra hơi thở của anh ấy xem nào!” Bác sĩ McCarthy ra lệnh.

Tôi cúi người xuống, ghé sát má vào miệng bác Paul và cảm nhận được hơi thở của bác trên má mình. “Bác ấy vẫn thở tốt ạ.” Tôi sờ tay lên cổ bác ấy. “Mạch cũng khỏe.”

“Thế thì tốt rồi.” Nói rồi bác ấy duỗi thẳng chân bác Paul ra và dùng băng vải cuốn lại.

Bác Caroline run rẩy ngồi phịch xuống sàn. Tôi vội nhào sang xốc một bên nách bác. “Bác không sao chứ?”

“Bác chỉ hơi chóng mặt thôi.”

“Hay là bác nằm xuống một lúc đi.” Tôi đỡ bác gái nằm xuống đi-văng.

Bác sĩ McCarthy xé cái túi giấy bạc và lấy ra một cuộn băng bằng sợi thủy tinh. Bác ấy nhúng cuộn băng vào trong nước rồi quấn quanh chỗ xương bị gãy, bên ngoài cái băng vải. Darla giúp nâng chân bác Paul lên để bác sĩ quấn dễ hơn. Sau bốn vòng quấn, cái chân đã hoàn toàn được cố định từ đầu gối xuống mắt cá chân.

“Xong rồi.” Bác sĩ McCarthy sắp xếp lại cái túi cứu thương. “Nếu thấy vết thương bị chảy nước màu đỏ hoặc chân có mùi hôi thì phải gọi bác ngay. Nếu nhà có thuốc giảm đau aspirin hoặc trà vỏ cây liễu thì cứ cho bác ấy dùng, nó sẽ giúp giảm sưng tấy.”

“Cảm ơn bác đã đến.” Tôi nói. “Gia đình có thể trả ơn bác bằng gì được ạ?”

“Gì cũng được. Bác đang cần dụng cụ y tế, xăng, dầu, pin, đèn pin, nến… Vitamin C dạng viên giờ quý hơn vàng, dùng để chữa bệnh scurvy. Hoặc nếu nhà có thức ăn cũng được, miễn không phải thịt lợn. Lý do duy nhất bác vẫn nhận chữa bệnh là vì mọi người quá hào phóng. Một số người thậm chí còn đem đồ đến tặng cho phòng khám, mặc dù họ không hề ốm.”

Bác Paul vẫn đang bất tỉnh và bác Caroline thì đang nhắm nghiền mắt trên đi-văng. “Để cháu vào bếp tìm xem có gì không.” Tôi nói.

Tôi đi vào bếp lấy một chục trứng vị, hai cục phô-mai dê, một túi bột ngô và vài cây cải xoăn. “Đây là tất cả những gì nhà cháu còn.” Tôi ôm chúng quay trở lại phòng khách. “Sau này cháu sẽ mang thêm cho bác.”

“Thế này là đủ rồi.” Bác sĩ McCarthy nhận túi đồ trên tay tôi và rút ra một cái lá màu tía. “Đây có phải là cây cải xoăn không?”

“Vâng ạ. Mấy căn nhà kính lạnh quá nên chẳng trồng được loại cây nào khác.”

“Nó có họ với nhà cải bắp đúng không?”

“Cháu nghĩ thế.” Darla đỡ lời thay cho tôi.

“Và không ai trong nhà bị bệnh scurvy?”

“Cháu nghĩ thế.” Tôi trả lời.

Bác sĩ McCarthy chìa tay ra về phía tôi. “Để bác nhìn thử xem nhé?”

“Vâng, bác cứ xem đi ạ.”

Bác ấy vạch môi dưới của tôi ra và kiểm tra chân răng, sau đó tiếp tục đến môi trên. “Đúng là không có dấu hiệu gì của bệnh scurvy. Bác đoán là cây cải xoăn chứa nhiều vitamin C. Ở nhà cháu hiện đang có bao nhiêu cây cải xoăn?”

“Không nhiều ạ. Trận bão tối qua đã làm thủng lỗ chỗ mái nhà kính, làm mấy cây cải đóng băng gần hết. Giờ chúng mềm oặt, chắc chỉ để cho dê ăn được thôi.”

“Không, không, không. Mềm hay không mềm thì nó cũng chữa được bệnh scurvy.”

“Cháu vẫn chưa đem chúng cho bầy dê ăn đâu.” Rebecca lên tiếng. “Để cháu đi lấy mấy xô cải xoăn đông lạnh đó vào đây.”

“Gia đình cháu rất biết ơn sự giúp đỡ của bác sĩ.” Darla nói. “Và nếu có thể chúng cháu sẵn sàng biếu bác toàn bộ chỗ cải xoăn mình có, nhưng nhà cháu cũng cần phải ăn mới sống được. Và ngoài cải xoăn ra bọn cháu chẳng còn gì nhiều.”

“Không sao.” Bác sĩ McCarthy mỉm cười. “Trong thị trấn vẫn còn nhiều thịt lợn lắm. Bác chắc chắn là ngài thị trưởng sẽ sẵn sàng chia cho nhà các cháu bao nhiêu thịt cũng được, để đổi lại lấy chỗ cải xoăn này.”

“Bác cháu ta thỏa thuận vậy đi.” Darla gật đầu nhận lời. “5 cân thịt lợn đổi lấy nửa cân cải xoăn.”

“Darla,” Tôi hạ giọng thì thào. “Bác ấy đã nói sẽ cho chúng ta thịt lợn rồi còn gì. Đổi lại chúng ta cũng nên giúp họ chứ.”

“Nhỡ nhà kính không trồng được cải xoăn nữa thì sao?” Darla trừng mắt nhìn tôi. “Chúng ta cần phải dự trữ thức ăn phòng trường hợp có biến chứ.”

Tôi gật đầu. “Bọn cháu sẽ biếu bác toàn bộ chỗ cải xoăn hiện có để cảm ơn bác đã giúp chữa bệnh cho bác Paul. Sau khi thu hoạch được thêm, bọn cháu sẽ mang chúng đổi lấy thịt lợn.”

“Bác sẽ phải hỏi lại ý của ngài thị trưởng đã, nhưng bác nghĩ là được.” Bác sĩ McCarthy nói. “Giờ thì đi cùng bác quay trở lại thị trấn, bác sẽ lấy cho mấy đứa ít thịt lợn. Coi như là ứng trước cho số cải xoăn sắp thu hoạch.”

Chúng tôi tập trung hết chỗ cải xoăn hiện có trong nhà: hai xô 20 lít đựng đầy lá cải xoăn bị đóng băng và bốn túi cải xoăn còn tươi nguyên. Tôi cầm theo ba cái balô to nhất trong nhà rồi cùng anh Max và Darla nhảy lên con Studebaker quay về thị trấn.

Bác sĩ McCarthy đưa chúng tôi tới thẳng một tòa nhà lớn nằm ở phía Bắc thị trấn, tấm biển biên ngoài cửa đề KHU ĐÓNG GÓI THỊT – THỊ TRẤN WARREN. Một người đàn ông đứng tuổi đang ngồi trên chiếc ghế sắt cạnh đống lửa bên ngoài cửa chính, với một khẩu súng ngắn để trên đùi.

“Chào anh, Stu,” Bác sĩ McCarthy gọi to. “Tôi cần đổi ít thịt lợn để lấy thuốc chữa bệnh cho mọi người. Tôi sẽ tới văn phòng ngài thị trưởng và xin giấy phép gửi anh ngay sau khi xong việc.”

“Kìa, Jim, anh biết quy định là phải xin giấy phép trước mà.” Người đàn ông có tên Stu nhún vai rồi đưa cho bác sĩ McCarthy cái chìa khóa. “Nhưng thôi anh cứ vào lấy đi. Đằng nào mà ông ấy chẳng đồng ý ký cho anh.”

“Cảm ơn anh, Stu.” Vị bác sĩ cầm chìa khóa mở cửa rồi vẫy tay gọi chúng tôi vào trong.

Qua ánh sáng tù mù lọt qua cánh cửa, chúng tôi nhìn thấy hàng trăm, có thể là hàng ngàn con lợn đông lạnh đang treo lủng lẳng trên trần nhà. Trên các cái giá chạy dọc theo tường xếp đầy đùi lợn hun khói, thịt thăn và thịt lợn muối vẫn để nguyên thành tảng.

“Các cháu muốn lấy bao nhiêu thì lấy.” Bác sĩ McCarthy nói. “Lát nữa bác sẽ cân để còn điền vào giấy phép, rồi các cháu trả dần bằng cải xoăn sau cũng được.”

Tôi há hốc mồm nuốt nước bọt ừng ực khi tưởng tượng ra dải thịt lợn muối cháy xèo xèo trong chảo rán. Cái lò mổ này đang chứa một lượng thịt lợn lớn, đủ cho dân ở Warren ăn trong vài năm và đủ để cho gia đình chúng tôi ăn cả đời. Hèn gì bác sĩ không hề do dự khi Darla đề nghị đổi nửa cân cải xoăn lấy 5 cân thịt lợn. Toàn bộ công sức bỏ ra để xây dựng và chăm sóc mấy căn nhà kính cuối cùng đã được đền đáp. Đám cải xoăn, chứa đầy vitamin C, nhà chúng tôi giờ đây còn quý hơn vàng. Trong thế giới hậu núi lửa, lương thực chính là thước đo của sự giàu có, cũng giống như những chiếc két sắt chứa đầy đồng 100 đô của nhà băng đại diện cho sự giàu có ở thế giới cũ.

Hẳn là Darla cũng đang nghĩ tương tự như tôi. Cô ấy quay sang ôm chầm lấy tôi, miệng cười rạng rỡ, một nụ cười mà tôi hầu như không còn nhìn thấy kể từ sau khi rời khỏi Worthington, kể từ sau cái chết của mẹ cô ấy.

Nghĩ đến cô Edmunds lại khiến cho niềm hạnh phúc của tôi có gì đó cay đắng. Tôi hôn lên trán Darla rồi đi ra ngoài.

Bầu trời phía Tây bừng sáng với một dải ánh sáng màu vàng nhạt. Tôi nhìn chằm chằm về phía đường chân trời, hồi tưởng lại chặng đường 140 dặm từ Cedar Falls đến đây. Tôi nghĩ về tất cả những người mình đã gặp trên đường, họ còn đói khổ hơn chúng tôi ở đây gấp trăm lần và đang vật lộn để sống sót. Từ những người tị nạn sống trong trường trung học Cedar Falls đến những người dân ở Worthington, mẹ và hai em của Katie, tù nhân ở trại FEMA. Và bố mẹ tôi, rất có thể đang lang thang đâu đó trên đường.

Nếu bố mẹ không quay trở lại đây, Darla và tôi sẽ đi tìm họ. Với việc bác Paul đang bị thương thế này, chúng tôi sẽ khó lòng rời khỏi đây sớm, bởi vì từ nay chúng tôi sẽ phải thay bác gánh vác thêm công việc ở trang trại. Nhưng tôi đã tự hứa với lòng từ trước khi rời Cedar Falls: mục đích của tôi không phải chỉ là tới Warren mà là tìm lại gia đình tôi. Một lời hứa tôi dự định sẽ giữ bằng mọi giá.

Darla bước ra ngoài và vòng tay ôm tôi từ phía sau. Mặc dù lo lắng cho bố mẹ là vậy nhưng chẳng hiểu sao trong tôi vẫn tràn trề hy vọng. Kể cả khi đang đứng giữa trời mùa Đông lạnh giá thế này, tôi vẫn cảm nhận được sự ấm áp của mùa Xuân do Darla đem lại.

- HẾT TẬP 1 -