Vườn ơi là vườn
Từ ngày rời xa những hang động um tùm cỏ cây để dấn bước về phía văn minh tiện nghi, con người kịp mang theo bên mình một sự hoài nhớ gốc gác thiên nhiên hay cõi nguyên thủy khói sương huyền thoại. Tôi đồ rằng, có lẽ đó là lý lẽ ban đầu cho những khu vườn có mặt.
Thế nhưng, ngày nay, để có một ngôi nhà thì đã khó, để có một ngôi nhà với khu vườn còn khó hơn. Khuynh hướng đô thị thực dụng đang làm cho những ngôi nhà tha hồ trương nở, chiếm hết chỗ của các khu vườn đúng nghĩa. Trong bài viết của một kiến trúc sư gần đây, tôi đọc thấy nhận định rằng, thời bây giờ, mua nhà có vườn là một xu thế của người thành phố. Chỉ những người tiền bạc khá giả mới đủ sức tìm ra các vùng đất cách trung tâm 40-60 km để hiện thực hóa ước mơ xa vời đó.
Tìm về nghĩa của vườn…
Tìm lại tư duy nhân sinh và thế giới quan về khu vườn thể hiện qua ngôn ngữ tiếng Việt cũng là một cuộc kiếm tìm khá lý thú. Cuốn Đại từ điển tiếng Việt (do Nguyễn Như Ý chủ biên, Bộ Giáo dục & Đào tạo phối hợp với Trung tâm Ngôn ngữ & Văn hóa Việt Nam phối hợp ấn hành, NXB VHTT, 1999) định nghĩa vườn là “khu đất quanh nhà để trồng cây cối”. Trong hệ từ Hán Việt mà chúng ta vay mượn, một đơn vị, sử dụng ở cũng được đo bằng cương giới vườn (khuôn viên).
Không dừng lại ở đó, trong tâm thức, người Việt xem khu vườn như một gia sản quan trọng trong đời sống kinh tế của mình. Thế mới sản sinh ra những thành ngữ như: “vườn cau ao cá” hay “vườn trên ao dưới” để chỉ đời sống sung túc do biết cách làm ăn của chủ nhà nông dân. Nhưng vườn, là thứ gia sản có thể tạo lại được sức ép, ảnh hưởng tinh thần đối với con người, vì thế dân gian nhìn ra việc có quá nhiều của cải, vườn ruộng, tài sản thì càng mất công chăm sóc, quản lý, chăm nom – như cảnh “vườn rộng công nhiều”.
Vậy, vườn trước hết là của cải của gia đình, là gia sản có thể thấy được của gia chủ, là thứ có thể giúp đánh giá được sự giàu nghèo, sự an nhàn trong sung túc hay giàu có trong bộn bề. Hình như có một tầng nghĩa ngầm ẩn nào đó soi sáng về thái độ sống bên dưới những thành ngữ kia, cho thấy tư duy và chọn lựa văn minh của người Việt, trọng sự đầy đủ mà tĩnh tại hơn dư dật mà ồn ào, trọng sự hài hòa và cười nhạo thói trọc phú bung xung bề ngoài.
Vườn lặng lẽ đi vào các hình thức ghép từ uyển chuyển để sản sinh ra những nghĩa chỉ các không gian khác nhau: ghép với từ nhà, thành ra vườn nhà (để chỉ khu vườn không hẳn là dùng để sản xuất mang lại của cải, mà là để trồng trọt hoa quả, thảo dược, cây kiểng trang trí cho không gian sống của ngôi nhà); vườn trẻ để chỉ nhà trẻ; vườn trường để chỉ sân trường – nơi sinh hoạt, thư giãn ngoài giờ học cho học trò và giáo viên; vườn quốc gia để chỉ không gian rừng núi có hệ sinh thái được bảo tồn tập hợp những loài động, thực vật quý hiếm được nhà nước quản lý, giữ gìn cho mọi người đến tham quan, nghiên cứu. vân.vân.
Vườn, còn là nơi chốn để trở về, là nơi để hưởng nhàn, lánh xa “lao xao” thị phi, đảo ngược giá trị “dại, khôn” theo lẽ/ thói đời. Thế nên trong tiếng Việt người ta gọi về hưu, xa rời quan trường, sự nghiệp, bon chen mưu sinh là “về vườn”. Về với khu vườn của mình cũng có nghĩa là trở về tìm sự an nhàn, điều kiện sống thanh cao, giữ gìn khí tiết quân tử lánh xa cõi đời ô trọc.
“Một mai một cuốc một cần câu/
Thơ thẩn dù ai vui thú nào/
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/
Người khôn người đến chốn lao xao”.
(Nhàn, Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Vườn, trong hay ngoài?
Nói trong nhà, ngoài ngõ. Nhưng với vườn, nếu đứng từ trong nhà (nội thất) thì vẫn có hai cách định vị: trong vườn hay ngoài vườn đều mang nghĩa như nhau. Vườn là vành đai xanh, khoảng tĩnh lặng của ngôi nhà. Đó là không gian cây cối dịu mát để tận hưởng sự trong lành, giải nhiệt cho ngôi nhà tránh nóng nực căng thẳng, cây cỏ hấp thụ và điều hòa trong lành cho không gian sống. Vì thế, trong vườn người ta thường chú ý trồng những cây ngọt trái lành, có thể ăn được, như tặng phẩm của đất đai, để gắn bó, sẻ chia; hay có thể tận dụng miếng đất nhỏ trồng mớ rau, dưa, cà, đậu, khi cần với tay là đã có nồi canh ngon lành mà không phải nhọc công, tốn kém chợ búa; cũng có thể là chỗ để ươm vài cây dược thảo trị những bệnh thời tiết khi trái gió trở trời hay nuôi con gà, con cá, con chó, con mèo để quấn quýt, thân thương...
Bình minh của cuộc đời thường đắm trong huyền thoại, nên không gian sương khói bí mật của vườn cũng gắn bó với thơ ấu của mỗi người. Khu vườn bí mật và ôm mang huyền thoại trong mắt mỗi chúng ta, đó là thế giới tiềm tàng bao điều diệu kỳ cần khám phá và cùng mỗi cuộc đời lớn lên. Ở đó, suốt bốn mùa, đứa trẻ lắng nghe cỏ cây nở hoa cho quả, các bóng râm lúc êm dịu, khi mang đến những câu chuyện tâm linh như ma cỏ, như niềm tin đó là nơi trú ngụ của những vong hồn người quá cố… Những lối mòn, bờ cỏ chạy quanh dưới những tán cây xòe rộng, những hàng rào xanh um dây leo dại bốn mùa, những vồng hoa đầy ong bay bướm lượn, những vòm cây cao chim chóc líu lo, những ốc cây sần sùi vang tiếng cười, trò chơi bè bạn… đã trở thành thân quen máu thịt. Ký ức đó theo ta lớn lên. Đến khi chân nện bước qua những phương trời xa xôi nhưng khu vườn tuổi nhỏ vẫn lung linh, huyền hoặc không gì xóa được trong vô thức.
Ngày trước, mảnh đất trong vườn vừa là nơi chôn rau cắt rốn của mỗi người. Người nhờ vậy mà nối với đất đai, xứ sở. Vườn đánh dấu khai sinh người sống và cũng là nơi ôm vào mình những người vĩnh viễn rời xa. Một vài nơi, người ta mai táng người chết ngay trong vườn nhà, để níu gần lại khoảng cách với người sống, nên chi trong những vườn xưa thường có những bia mộ, những không gian tâm linh, thờ cúng đặc biệt. Khi con người sinh sống, trồng trọt cây cối trong khu vườn phải đi về bên kia thế giới, khu vườn mang vào ý nghĩa tưởng niệm; cây cỏ còn lại nhắc nhớ sự hiện hữu của người đã khuất, nên ở vài nơi, khi trong nhà có người chết, thân nhân sẽ chít tang cho các cây cối trong vườn để cây không sầu chủ mà khô héo.
Dân gian cũng tin rằng, những khu vườn mang trong nó các vong hồn canh giữ. Những bóng cây, bụi rậm cần được thắp nhang mỗi khi trời âm u, mưa gió để sưởi ấm những mảnh hồn lang thang không nơi trú ngụ. Người lớn dặn trẻ con không nên dùng dao rựa chặt cây, chẳng may đụng đến chỗ ở của người thân khuất mặt trong vườn thì tội nghiệp.
Vì vậy, những khu vườn vừa sinh ra kỷ niệm, ký ức, cõi tâm linh vừa đóng góp ý nghĩa sinh thái xanh tươi trong lành cho không gian sống. Cho nên, Trịnh Công Sơn viết trong một bài hát rất buồn, không hiểu bàn chân trong bài hát ấy là bóng dáng thực tại nhân sinh hay một vong hồn, một sự trở về đơn độc trong tâm thức: “Có nhiều khi từ vườn khuya bước về/ Bàn chân ai rất nhẹ/ Tựa hồ những năm xưa” (Phôi pha). Vườn cũng là gắn bó, cởi mở, dự phần tình yêu, trẻ trung trong câu hát Vườn yêu của Lã Văn Cường: “Lúc vui buồn đừng ngại đến vườn yêu/ Chốn hẹn hò chiều sang có em về/ Em sẽ trồng lại cây xanh tường nhỏ/ Chốn thiên đường ngập ngời lá và hoa…” Trước đó, xa lắm, Thôi Hộ, Nguyễn Du đã tìm thấy trong hoa đào, trên dấu giày đầy rêu xanh phủ xúc cảm ngậm ngùi hoài niệm cảnh cũ người xưa…
Gần đây, tôi tìm thấy trong những scene cuối cùng của bộ phim Trăng nơi đáy giếng của Nguyễn Vinh Sơn, hay những xúc cảm thân thương trong lành và bay bổng của thời ấu thơ trong Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ của Nguyễn Ngọc Thuần…
Từ xưa, những khu vườn đã hiện hữu trong tâm thức con người. Đó là giá trị chuẩn mực chung của những nền văn hóa kiến trúc khác nhau. Người Nhật có vườn thiền, nước Pháp có những vườn biệt thự, vườn nghệ thuật, từ thời cổ đại ở vùng Lưỡng Hà đã có những vườn treo hoành tráng của vua chúa và suốt trong thời phong kiến Trung Hoa đã xuất hiện những vườn thượng uyển cho người hoàng gia ngắm hoa thưởng nguyệt, vịnh thi phú…
Vườn ơi…
Ngày nay, trong xu thế đô thị hóa diễn ra trên toàn cầu. Trong sự thay đổi có phần xốc nổi công năng hình thức diễn ra nhanh hơn những giá trị văn minh tinh thần, thì chúng ta dễ nhận ra, trong văn hóa ở, vườn dần dần bị coi là không gian bên ngoài, không thuộc về ngôi nhà, có thể dễ bị cắt phân thửa mới, bán đi trong thời đất đai sốt giá.
Điều đó làm cho không gian sống mất đi sự hài hòa. Nhiều người vì thế đã chọn giải pháp đưa vườn vào nhà, đưa cỏ cây lên sân thượng để tìm cơ hội làm hòa với thiên nhiên trong điều kiện cho phép; lấy việc chăm nom cái cây, ngọn cỏ để làm điều vui thú, tìm đâu đó chút cảm giác thư nhàn khiêm tốn tưởng từ lâu đã mất…
Và từ trong xô đẩy hỗn độn của tiện nghi, người ta nhận ra, việc tìm về khu vườn cũng chính là giải pháp cân bằng “xanh hóa” đời sống tinh thần cho mình. Thi thoảng, loanh quanh trong thành phố, tôi dừng lại trước những ngôi nhà cũ có khoảng sân hoa, có khu vườn cây cối xum xuê. Điều lạ là chủ nhà không khá giả. Thường là ông già bà lão vào ra chậm chạp đang “về vườn”. Họ “về vườn” với thái độ buông xả, cùng tinh thần chịu ngồi yên để tận hưởng sự bình an.
Sự sang cả được gần gũi và tận hưởng thiên nhiên trong một mảnh vườn, đành rằng phải có tiền mới mua được, nhưng không phải chỉ có tiền mới mua được. Ngày nay, nhiều khu vườn trong phố bị khoác lên vẻ mặt trọc phú của chính gia chủ mới nổi.
Hình như khu vườn cuối cùng vẫn nằm đâu đó ở khoảng giữa thực tại và tâm tưởng, giữa có và không, giữa sự dùng dằng réo gọi trở về với thiên nhiên êm đềm với hấp lực dấn bước vào cõi mịt mùng của văn minh vật chất phương tiện...
Khu vườn không còn là câu chuyện ngoại thất nữa. Mà là một tình trạng của nội tâm, tinh thần con người. Đó là giá trị sống rất hướng nội mà cũng rất rộng mở trong bối cảnh trái đất cần những người biết góp thêm màu xanh. Phúc cho ai biết bước qua cuộc chơi vườn tược, vứt bỏ chiếc áo diễn trò nhàn tản thời thượng để đạt tới “cảnh giới” của sự sống chung / sống với khu vườn phi thời gian bên trong mình.