Tết riêng
Trong cuốn sách giáo khoa về phong tục viết bằng chữ Hán có nhan đề Tiểu học Bản quốc phong tục sách hay còn gọi An Nam phong tục sách của cụ Mai Viên Đoàn Triển (1854 – 1919) có 61 đề mục, nhưng trong đó, tác giả đã dành đến 7 đề mục để nói về Tết Nguyên đán.
Sau khi đọc những diễn giải cặn kẽ rõ ràng về gốc tích các tập quán trong ngày Tết như: giới thiệu Tết, sửa sang mua sắm, lễ bái, lễ Tết, lễ vật, thí sự, đối đãi, chơi xuân… thì, chắc hẳn người đọc sẽ giật mình khi gặp những dòng này: “Xét Tết Nguyên đán, nước nào cũng có, không thể thiếu được. Nhưng chỉ có ở nước ta, cúng tế đến bốn năm ngày thật là phiền nhiễu. Vả lại, vàng hương, giấy viết, đối liễn, pháo v.v. đều là hàng Bắc hóa (nghĩa là từ Phương Bắc, chỉ Trung Quốc đưa sang), lãng phí rất nhiều. Hoặc có kẻ kiếm lợi bắt chước làm theo, thật chẳng khôn ngoan. Đến như nạn cờ bạc, càng là việc cần ngăn ngừa. Thiết nghĩ, hai ngày tất niên, Nguyên đán, thờ cúng tổ tiên và vui chơi cũng đủ rồi. Từ mùng hai trở đi có thể giảm bớt hoặc dừng lại. Đến như việc mua sắm vật dụng ngày Tết hoang phí chỉ tổ làm cho của cải của mình rời vào tay người ngoài. Vậy nên dần dần bỏ tục này đi cũng chả hại gì.” (tr. 23, sđd, Nguyễn Tô Lan dịch, NXB Hà Nội, 2008).
Giật mình bởi hai lẽ, từ một thế kỷ trước, chuyện lãng phí, chuyện xài “hàng Bắc hóa” trong dịp Tết đã là một mối ám ảnh lớn đối với những trí thức, những người nhìn xa trộng rộng. Phía sau nỗi ám ảnh “hiện tượng” đó, có một mối lo khác lớn hơn: nhìn thấy trong Tết nhiều nghi thức, tập tục, sinh hoạt văn hóa dân gian ở ta thiếu cái riêng; chịu ảnh hưởng từ phong tục Tết của “nước lạ” một cách mù mờ.
Trong sách Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính (1875 – 1921) cũng viết về cái sự lôi thôi của những phong tục tập quán trong dịp “thưởng xuân” có gốc tích, ảnh hưởng nếp sinh hoạt từ “nước khác” như: nạn túm tụm bài bạc, lúc lắc thò lò, hội hè hát xướng ồn ào, tiêu xài hoang phí cho đến những hủ tục chẳng đâu vào đâu… Cụ Bính cũng viết: “Ở về tỉnh thành Sài Gòn, lâu nay nhiễm được tân hóa, mấy hôm Tết nhiều nhà xử thanh đạm như thường. Ở Hà Nội, các người tân học cũng đã chán cái cách ăn Tết của ta lắm, nhưng chưa mấy người khiết nhiên (bỏ) đi được,” (tr. 55, sđd, NXB Văn hóa Thông tin, 2005).
Sau câu chuyện phong tục Tết nhất, vào thời đó, những trí thức như cụ Đoàn Triển, Phan Kế Bính đã đặt ra vấn đề về một thứ, tạm gọi là “ý thức chủ quyền” trong phong tục tập quán, mà ngày nay, chúng ta gọi là cái riêng, bản sắc (dù chữ “bản sắc” ngày nay được dùng trong ngôn ngữ tuyên truyền đã ít nhiều áp đặt, “cầm tù” nghĩa của từ này). Có thể hiểu chủ quyền ấy là, thực hành phong tục tập quán thì phải nắm bắt gốc gác và kiểm soát được ngôn ngữ, ý nghĩa để không bị rơi vào tình trạng mù mờ nhận thức đến mức chịu nô dịch văn hóa.
Phóng chiếu vào xã hội tiêu dùng hôm nay, quả thật cái Tết của người Việt vẫn còn đó nguy cơ bị lái đi xa khỏi cốt lõi ý nghĩa của nó. Thay vì là dịp để bày tỏ lòng thành kính vong linh tổ tiên đã khuất, là dịp để sum họp gia đình, thể hiện sự quan tâm biết ơn, chăm sóc với người thân yêu, xóm giềng, tha nhân và cũng là khoảng thời gian nghỉ ngơi, thăng bằng, nhìn lại cuộc sống sau một năm bôn ba, là khoảng thời gian nhàn nhã để nhìn sâu hơn vào quá khứ, ngưỡng vọng đến tương lai... thì Tết hôm nay lại quá nhiều những chuẩn bị sắm sửa, lắm sự tô vẽ ồn ào, phô trương bề mặt; là dịp hiếu hỉ hối hộ quà cáp với cơ quan hành chính; là dịp để so đo bổng lộc; là cơ hội phung phí thời gian, dây dưa rượu chè cờ bạc… làm nảy sinh biết bao tệ nạn. Tết thay vì thư giãn và đằm sâu, lại trở nên phô bày sự bừa bãi và nhếch nhác.
Thế nên, người nghèo có nỗi lo Tết của người nghèo, người giàu có nỗi lo Tết của người giàu. Để chuẩn bị cho cái Tết, đáp ứng đủ thủ tục cần thiết từ biếu xén đến lễ lộc. Ai cũng tất bật âu lo. Chẳng mấy ai an vui thư nhàn với Tết. Ai cũng lo Tết mà mấy ai thưởng thức Tết và sống nhàn, nghỉ ngơi tận hưởng Tết. Cái Tết với những cuộc vui trên thước đo vật chất, thường rộn rã, chóng vánh và trống rỗng.
Lời nhắc nhở làm chủ tập quán, làm chủ quyền văn hóa qua phong tục Tết Nguyên đán hơn thế kỷ trước vẫn còn khiến người nay giật mình. Nhất là trong bối cảnh toàn cầu, sự tự vấn văn hóa phải luôn là việc thường xuyên được mỗi dân tộc đặt ra để biết mình thực sự hiện hữu.