← Quay lại trang sách

Khổ dâm hay bạo dâm?

Gần đây, những cuộc tranh luận về vai trò trí thức diễn ra khá gay gắt trên mạng. Các vụ “đụng độ” xảy ra với những tên tuổi đáng kính trong học giới; cũng chỉ xoay quanh vấn đề muôn thuở: trí thức cần dấn thân, phản biện, thúc đẩy, cải tạo xã hội hay chỉ nên tập trung cho giá trị thuộc về chuyên môn?

Nếu đi tìm đáp án đúng, sai, phải, trái trong các cuộc tranh luận, sẽ là hoài công vì nó phụ thuộc vào hệ giá trị khách quan của người nhìn nhận (một khi trí thức không phải là một khái niệm đóng kín hay được xác lập bởi các chỉ số, tiêu chí hay danh vị nhất định mà là một phẩm giá).

Hai câu hỏi cần thiết được đặt ra là: 1/ vì sao những cuộc tranh luận về chủ đề trên lại diễn ra trong tình hình hiện nay?; 2/ điều gì làm cho các cuộc tranh luận bị đẩy đến mức độ gay gắt căng thẳng đến nỗi có cả tình trạng tấn công tiểu sử, xúc phạm danh dự và nhân phẩm lẫn nhau – điều mà, lẽ ra không nên có trong các diễn đàn về… trí thức?

Trước hết, dù theo “phe” này hay “phe” kia, thì trong những cuộc tranh luận cũng cho thấy, thành phần có tri thức trong xã hội thường trực tự vấn về lương tâm và trách nhiệm của mình trước bản thân, sự nghiệp và đời sống.

Albert Camus có lý khi cho rằng: “Trí thức là người mà trí óc họ quan sát chính nó”. Quan sát trong cái nghĩa, xử lý nhận thức được những gì đang diễn ra bên trong (chủ quan) và hẳn là để sáng sủa trước những gì đang diễn ra bên ngoài (khách quan). Ở mục từ Trí thức (intellectuals), Từ điển Xã hội học Oxford định nghĩa: “Trong các xã hội hiện đại, trí thức không làm thành một nhóm được xác định rõ ràng. Theo truyền thống, trí thức có vai trò là những nhà tư tưởng hay những người tìm kiếm chân lý. Trong các xã hội đơn giản, đó có thể là những thầy tu hay pháp sư. Ở châu Âu, từ thời Phục hưng cho đến thế kỷ XIX, trí thức là những người sáng tạo văn hóa cao cấp, là triết gia và các nhà phát kiến khoa học của thời đại đó”.

Sự phân hóa có thể đến từ nhiều nguyên do. Nhưng có thể hiểu nôm na: đó có thể là tính chất nảy nở trên cơ sở một bối cảnh độc lập tư tưởng, tự do học thuật và sáng tạo để tạo nên sắc thái đa dạng, mang hàm nghĩa dân chủ, để phân biệt với một dạng “phân hóa” nguy hiểm khác – bị manh mún, rã đám, bè nhóm nằm trong ý đồ chia để trị của bàn tay quyền lực chính trị (thường thấy ở những quốc gia mà nền chính trị thiếu minh bạch, nhà cầm quyền lo sợ “sức ảnh hưởng của người có tri thức” gây khó cho họ trong việc kiểm soát đại cuộc).Trong trường hợp thứ hai, sự kiểm soát hoạt động học thuật cho đến truất hữu tiếng nói độc lập của những người có hiểu biết, có sức ảnh hưởng xã hội và học giới đã dẫn đến hậu quả là sản sinh ngày càng nhiều những trí thức sống trong tình trạng bị tước bỏ phẩm giá. Trong một thiết chế thiếu thiện chí, họ nhìn thấy rõ sự bất lực của mình trong phát triển chuyên môn cũng như vai trò xã hội.

Chúng ta thường nói đến từ xã hội tri thức, nhưng trong xã hội tri thức thì người trí thức đứng ở đâu? Cuốn Từ điển xã hội học nói trên cũng trích dẫn hai ý của Daniel Bell trong cuốn The coming of post industrial Society (Sự xuất hiện của xã hội công nghiệp, in 1964) và Alvin Gouldner trong The new class and the future of intellectuals (Giai cấp mới và tương lai của trí thức, in 1981) như những dự báo và đề xuất cho vai trò trí thức trong xã hội hậu công nghiệp khi cho rằng một “xã hội tri thức” trong tương lai sẽ trao cho trí thức một vị thế trung tâm và danh giá.

Bên cạnh tín hiệu vui là những người có học không ngừng quan sát “não trạng”, vai trò của mình với học thuật, xã hội, thì sự thiếu độc lập, tan rã, thành kiến, nghi kị và gây sát thương lẫn nhau trong tầng lớp có tri thức cũng cho thấy một thứ “thời tiết” không mấy vui. Càng nhìn vào các cuộc tranh luận về vai trò trí thức gần đây, càng nhận ra ở những người lớn tiếng đã có sự chuyển hướng từ “mặc cảm đời thừa” sang hứng thú lập ngôn, hay tìm cách giải tỏa những dày vò bổn phận cá nhân sang phỉ báng hướng tha. Mặt khác, nhiều cuộc tranh luận không được đặt trên nền tảng học thuật mà chỉ xoay quanh những thành kiến cảm tính. Hàm lượng thuốc súng vẫn cao hơn sự sáng sủa hay giải pháp. Đó là môi trường đục nước béo cò cho những kẻ thừa hăng hái và háo danh, sẵn sàng lao vào tìm một vị thế “trung tâm và danh giá” trong giới tinh hoa...

Trong “thế cuộc” hỗn loạn đó, sự phô diễn vai trò được đặt nặng còn mục đích tìm một lối ra, vì nhiều khó khăn, thử thách và sự dấn thân nên bị bỏ rơi. Những “ẩu đả” rốt cuộc chỉ đem lại cho người tham gia một sự thỏa mãn “khoái cảm trong đau đớn” thông qua việc gây tổn thương cho người khác và chờ kẻ khác làm tổn thương mình.

Một chuyên gia kinh tế đã tham gia nhiều diễn đàn trí thức đã thời gian qua đã đúc rút một ý nghe ra rất hài-kịch-đen, rằng: xét về khía cạnh giải tỏa ẩn ức, tìm thấy khoái cảm thỏa mãn một cách lệch lạc, thì những trí thức trên có nhiều biểu hiện rất giống những kẻ mắc chứng khổ dâm (masochism) đồng thời bạo dâm (sadism)!

Đó là hậu quả ẩn ức khi “tri” nghịch với “hành”.

Chịu thôi. Lâu lắm rồi, người hô hào thì nhiều, mà người sống chết như Soctates hay Emile Zola thì nào có thấy đâu. Thuốc độc và giá treo cổ, cũng không phải là thiếu. Đơn giản là người ta thích làm tổn thương nhau hơn là chọn chúng.