← Quay lại trang sách

Karaoke, văn và cảnh

Karaoke là một loại hình giải trí có nguồn gốc từ vùng Kobe, Nhật Bản, nhập khẩu vào Việt Nam từ những năm 90 của thế kỷ XX. Chỉ mới xuất hiện trong vòng chưa đầy 20 năm, nhưng từ thành phố tới thôn quê của đất nước này, karaoke trở thành một chọn lựa giải trí phổ biến bậc nhất của người dân.

Phải chăng đã có một sự tương thích nào đó giữa truyền thống sinh hoạt văn nghệ của người Việt với việc giải trí bằng cách hát karaoke? Chúng tôi tình cờ tìm thấy câu trả lời khá lý thú trong cuốn Rock Hà Nội và Rumba Cửu Long của Jason Gibbs. Trong chương Truyền thống và sự tiếp biến trong hình thành âm nhạc xã hội Việt Nam, cây bút nghiên cứu âm nhạc độc lập người Mỹ nói trên cho rằng, có một sự “truyền tiếp” giữa hát ả đào trong truyền thống với hát karaoke thời hiện đại. Bám theo lý thuyết của nhà dân tộc nhạc học Hugh de Ferranti – cố gắng phân biệt hai phẩm tính văn (text) và cảnh (context) trong văn hóa âm nhạc – cộng với trải nghiệm qua vài lần đi hát karaoke tại Hà Nội, Gibbs viết: “Đầu thế kỷ XX, “đi hát” nghĩa là đi hát ả đào, cuối thế kỷ nghĩa là đi hát karaoke”. Và: “… một số khía cạnh của bối cảnh hát ả đào đã được truyền tiếp và chúng đã tự sắp hàng với một loại văn khác. Nhìn trong ánh sáng này, karaoke là truyền thống, nhưng không mang tính truyền thống. Và vì nó không phải là bộ phận thuộc bảo tàng, nó vẫn còn vô hình. Tất nhiên, karaoke có ở khắp nơi – nó được “rống” lên khắp cõi Việt Nam. Nhưng văn của nó không được thu thập, và dường như vì nó vẫn còn quá quen nên chẳng ai để ý đến phương diện này của nó.” (tr. 150, 151)

Và một nguyên nhân nữa, karaoke du nhập vào Việt Nam khoảng trên dưới chục năm sau đổi mới, khi toàn xã hội đang hướng ngoại, những dịch vụ giải trí kết hợp “lồng ghép” xã giao công việc, quan hệ làm ăn, thiết lập tình thân như phòng karaoke đáp ứng sự mong đợi của đại chúng.

Vậy là, bước qua sự ngần ngại ban đầu, những người trẻ năng động được nuôi lớn bằng bầu sữa đổi mới có thể tìm thấy mình, thấy tha nhân trong cuộc chinh phục điểm số qua trình bày những bài ca quen thuộc nơi những căn phòng cách âm, tách biệt hoàn toàn với một thứ nhịp điệu khác đang quay cuồng bên ngoài cánh cửa.

Nhiều gia đình khá giả đã mang nguyên không gian giải trí đó về nhà để những tối cuối tuần, buổi họp mặt gia đình “định kỳ” đầy truyền thống giảm bớt sự nghiêm trọng, thay vào đó là tinh thần vui vẻ, cởi mở và sẻ chia.

Người Nhật thích hát karaoke vì khi hát, họ phá vỡ tính cách trầm tĩnh kỷ cương và kín đáo. Theo cách nói của Takeo Doi, thì đó là một điều kiện để đi xuyên qua tatemae (cái giả, mang tính omote, bề ngoài, thấy được) của chính mình để tự do phơi bày cái honne (tức, tâm tình thật, cái ura, bên trong, không thấy được). Ngoài ra, từ góc độ tâm lý học, các chuyên gia cũng cho rằng, karaoke giúp người Nhật xả bớt áp lực, tìm thấy cân bằng từ một đời sống công nghiệp đầy căng thẳng. Với người Việt Nam, một dân tộc phương Đông, “cấu trúc bộ đôi” tính cách văn hóa mà ta vẫn gọi nôm na là “tình trong” và “mặt ngoài” cũng có nhiều nét tương đồng với người Nhật, thế nên, việc người Việt chết mê chết mệt với karaoke cũng có thể giải mã theo cách trên. Mặt khác, người Việt cũng được biết đến với tính mê hát hò nghêu ngao. Ca hát giúp người ta chống lại nỗi buồn thăm thẳm luôn đè nặng tiến trình lịch sử đầy gươm đao máu lửa và loạn ly. Tiếng hát tăng niềm tin vào ý chí và lý tưởng (như khẩu hiệu văn công thời chiến: “tiếng hát át tiếng bom”!)

Vậy, cái tính cách ưa hát hò của đại chúng đã được thỏa mãn qua một hình thức giải trí hiện đại. Người ta sẽ không còn “lấy tiếng hát át tiếng bom”, mà lấy tiếng hát để xua tan những mối bận tâm về cuộc mưu sinh thời thị trường nhiều cơ hội và lắm khốc liệt. Người ta hát để vỗ về đời sống tinh thần đang có nguy cơ xơ hóa trước những làn sóng mạnh mẽ của chủ nghĩa vật chất. Người ta hát về những cuộc tình dang dở, về những ước vọng không thực hiện được và cả những niềm vui, sự lạc quan tương lai trước mặt.

Có một đặc điểm đáng lưu ý, người Việt thường rủ nhau đi karaoke khi đã trải qua một bữa tiệc hay một cuộc bia bọt. Gọi là “tăng hai”. Đó là lúc, con người lý trí và tính toán đã tạm rời xa, những bận tâm tính toán chi li đã tạm chìm xuống cho “nghệ sĩ tính” (được hiểu là sự phóng túng, cảm tính) có dịp trỗi dậy. Bốc lên nhờ hơi men, người ta thấy những người đối diện mình dễ thương hơn và cũng vì thế lời lẽ dùng cho tha nhân (kể cả những tha nhân là địa ngục với đời ta trong công sở) trở nên ngọt ngào và trìu mến hơn. Tiếng hát, âm nhạc trong những căn phòng đóng kín, ánh đèn mờ ảo, âm thanh luôn mở lớn khiến người ta muốn tâm sự phải ghé sát miệng vào tai nhau. Và như vậy, karaoke trở thành một cách thức hóa giải hữu hiệu những mâu thuẫn, rào cản giữa các cá nhân khác biệt trong tập thể. Sự quan tâm và sẻ chia được thêm củng cố.

Với mỗi người hát, karaoke làm cho anh ta thấy tự tin hơn. Việc cầm micro trình diễn trước một nhóm “công chúng” giúp những con người yếu đuối, thiếu tự chủ, thiếu tinh thần cá nhân tìm thấy vị thế của mình. Cái cảm giác được “tỏa sáng” trong mắt mọi người giúp anh ta vơi đi tình trạng đơn điệu về một đời sống mà cái riêng tư luôn bị đè nén, khó bộc bạch.

Xa hơn, qua việc hát karaoke, anh ta có thể tự do phóng chiếu, mô phỏng bản thân theo giọng ca, tính cách, phong thái của các thần tượng đang có quyền lực với công chúng. Karaoke đem lại từ niềm hưng phấn được sẻ chia đến trạng thái ngất ngây trong ảo giác về sự trỗi vượt bản thân. Và lắm khi, chính những điều đó mang lại cho con người ta cảm hứng sống.

Chính quyền một thời có hơi phân biệt đối xử, gọi những phòng karaoke là các “tụ điểm” bởi tính chất không gian đèn mờ của nó gợi ra những sinh hoạt trá hình, tiêu cực, khó kiểm soát như tiêm chích, mại dâm… Việc cấm đoán karaoke của nhà nước luôn không nhận được sự hưởng ứng của người dân, đặc biệt người trẻ. Thực tế thì tệ nạn xảy ra từ những phòng karaoke không ít. Nhưng mọi sự kiểm soát tỏ ra khó khả thi một khi chính những người tham gia giám sát cũng rất có thể, là tín đồ của loại hình giải trí này và chưa nói, nhiều cán bộ nhà nước thường xuyên chọn karaoke làm nơi thể hiện “bản lĩnh” không chỉ ở lĩnh vực ca hát mà còn trong nhiều “lĩnh vực” nhạy cảm khác!

Cho nên, ngày nay, karaoke có mặt khắp nơi, từ thôn quê đến thành thị. Đối tượng hát karaoke đa dạng, mọi lứa tuổi, từ các ông cụ bà cụ móm mém đang “countdown” (đếm ngược thời gian gần đất xa trời) đến những em bé vừa ê a chưa tròn vành rõ chữ, từ quý giáo sư tiến sĩ xênh xang trời tây trở về đến mấy cô cậu công nhân trẻ cứu vãn sự nghèo nàn của đời sống giải trí bằng những cuộc đàn đúm sau mỗi kỳ lương…

Tín đồ karaoke chuyên nghiệp đến mức có thể đóng tiền đi học các khóa ngắn hạn để luyện giọng. Tại Hà Nội, Sài Gòn ngày nay đã xuất hiện nhiều trung tâm dạy hát karaoke khá hấp dẫn. Thử lướt trên mạng và lấy ra một điển hình: Trung tâm Âm nhạc T.B có trụ sở ở Hà Nội lẫn Sài Gòn, thông báo chiêu sinh mỗi khóa luyện karaoke 15 buổi học. Trong thời gian học, học viên được huấn luyện thanh nhạc, tập lấy hơi, mở khẩu hình, hướng dẫn gõ phách, nhạc lý, học cách trình diễn những bài mà thí sinh yêu thích. Mỗi khóa học, học viên có thể học tủ nhuần nhuyễn 4-5 bài, có thể tự tin trình diễn trước đám đông, các buổi karaoke và giao lưu văn nghệ. Một khi việc đi đến các phòng karaoke truyền thống tốn kém, không đủ thỏa mãn cơn ghiền hát, nhiều người đã “luyện giọng” hằng ngày qua các trang mạng karaoke trực tuyến, chỉ cần “đầu tư” một laptop, một headphones có gắn mic loại tốt và có thể đóng cửa sống với thế giới đam mê của mình. Các website karaoke trực tuyến có phần mềm ghi âm trực tiếp và cho phép người hát share (chia sẻ) với cộng đồng.

Nhiều mối quan hệ hứa hẹn được sinh ra từ sự cảm mến giọng hát ở phòng karaoke và cũng thật nhiều mối tình trên mạng chớm nở từ trào lưu karaoke trực tuyến.

Một ngày nào đó, khi những phòng karaoke biến mất mà không gì thay thế được, biết đâu bệnh viện tâm thần và các bệnh viện chấn thương chỉnh hình sẽ trở nên quá tải.