← Quay lại trang sách

Sự mới mẻ đến từ quá khứ

Năm nay trong mấy tác phẩm Nhà xuất bản Trẻ đề cử Giải thưởng Hội Nhà văn có một cuốn, của nhà văn Lê Văn Nghĩa, cái tên nghe lạ: Mùa hè năm Petrus. Thể loại: truyện dài, ở bìa sách ghi vậy. Còn nội dung thì qua bức vẽ trên bìa độc giả có thể đoán trước là chuyện về học đường.

Tôi đồ rằng nhiều người chứ chẳng riêng tôi chọn đọc lập tức cuốn này là do tên của ngôi trường. Không phải là Petrus Ký tôi đã chẳng ham đọc ngay như thế. Tuổi đã sáu mươi hơn nên xa lạ với các kiểu dạng văn chương mộng mơ viết về trường sở thời nay. Còn nếu không mộng mơ, không màu hồng hồng biêng biếc mà lại viết thật về thực trạng của giáo dục đương thời, thì, như cả giáo viên, cả học sinh, cả phụ huynh vẫn thường kêu lên đấy: khổ lắm, biết rồi, không muốn biết thêm nữa đâu. Tuy nhiên, chọn đọc, mà khi chưa mở sách ra tôi lại nghĩ đây là tác phẩm viết về phong trào đấu tranh chống Mỹ và đòi tự do dân chủ của tuổi trẻ các đô thị miền Nam. Sẽ có bãi khóa, biểu tình, rải truyền đơn, sẽ có giác ngộ cách mạng, sẽ có công an cảnh sát mật vụ đàn áp, bắt bớ, tra khảo v.v... Dù gặp nhiều những sự ước lệ, tôi vẫn thường tìm đọc các tác phẩm thuộc đề tài ấy, mong qua đấy mường tượng được bối cảnh chiến tranh và tranh đấu ở Sài Gòn thuở trước Bảy lăm.

Song, nghiền ngẫm 480 trang của Mùa hè năm Petrus, tôi thấy cuốn sách hoàn toàn không như tôi tưởng, mà hoàn toàn đúng như là tác giả đã thưa cùng độc giả ở trang đầu, “viết quyển truyện kể này để nhớ những người bạn, nhớ ngôi trường thân yêu, nhớ thầy, nhớ cô, nhớ những kỷ niệm đẹp kể cả những điều không vui”. Không hề như mình nghĩ nhưng tôi không bị chưng hửng, trái lại. Thật tình chỉ biết nói rằng truyện rất hay, chứ chẳng biết diễn tả thế nào. Không biết diễn tả thế nào chỉ biết lòng mình xúc cảm. Với riêng tôi, còn mãi trong ký ức đọc của mình, tác phẩm văn học Việt mà nhân vật chính còn độ tuổi thiếu niên, trước nhất cố nhiên có Những Ngày Thơ Ấu của Nguyên Hồng, rồi nữa là Đất Rừng Phương Nam của Đoàn Giỏi và Tuổi Thơ Im Lặng của Duy Khán. Cả ba cuốn đều đọc từ lâu lắm, mà không bao giờ quên. Bây giờ, cuốn này, tôi biết mình sẽ mãi nhớ.

Mùa hè năm Petrus đưa tôi trở về với mái trường xưa của tôi. Tự hỏi sao mà lạ vậy. Tôi đây đường đường là học sinh dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, còn tác giả thì phải ngồi học dưới mái trường dĩ nhiên không được một chút gì là xã hội chủ nghĩa cả. Khác nhau lắm mà. Nhưng ngẫm ra, thì, nào có gì là lạ, khác nhau mà thật ra đâu khác gì đâu. Nhà văn Lê Văn Nghĩa, theo “trích ngang” nơi bìa sách, sinh năm 1953, vậy anh học đệ tứ khoảng năm 67, 68. Tụi tôi thì khoảng mấy năm ấy, đang cuối cấp Hai hoặc đầu cấp ba. Bởi vậy, mặc lòng, dù trên cao tít “thượng tầng kiến trúc” hình thái kiểu gì, mái trường tôi mái trường anh nhọn hay tù, cô giáo anh áo dài thầy giáo tôi đại cán, thì nhìn xuống dãy bàn học trò, qua ngòi bút của anh, tôi thấy trong cái lớp tứ 7 ấy hiện diện cả loạt tụi bạn tôi hồi lớp 7, lớp 8. Y chang dung mạo, cử chỉ, tính nết, sở thích, cảnh ngộ gia đình của những Dũng, Thạch, Hòe, Tuấn, Cường, Mai, Thuật... Cũng sự học hành, thi cử. Cũng những trò nghịch quậy, cũng những lời tán dóc đấu hót ba xí ba tú nhưng hồn nhiên vô tư và dễ thương của lũ con trai mới lớn nhất quỉ nhì ma “tàn chi quái đao”. Và cũng thế, những ước mơ mong ngóng hão huyền của thuở đầu đời, những nỗi niềm vu vơ hướng về các “ghệ” bạn học (từ lóng của tụi tôi là các “mộng”) trong trường ngoài phố...

Nhưng mà, thú thực, đang đọc thấy vui, đọc xong thấy buồn. Tác phẩm thì đâu có buồn mặc dù trong đó bao nhiêu là những nông nỗi buồn vui đời học trò. Với văn phong giản dị và nên thơ, ý nhị và hóm hỉnh của nhà văn Lê Văn Nghĩa, Mùa hè năm Petrus là một tác phẩm tươi sáng, trong vắt mà cảm động, chan chứa tình hữu ái, lòng mến thương, sự dịu dàng của tuổi hoa niên. Vậy nên đọc xong thấy buồn là vì tôi thấy buồn thay, tiếc thay cho tôi nhận thức đè ám, suy nghĩ định kiến kéo dài quá nhiều năm.

Không đến nỗi phải ngã ngửa ra vì sửng sốt, song tôi thấy ngạc nhiên vô cùng trước thực cảnh của Sài Gòn, nhất là của các trường học ở Sài Gòn thuở xưa hiện lên trong những trang sách. Thôi thì không nói rằng sự học hành của cái lớp tứ 7 ấy tốt hơn của tôi, mà là ngang bằng, nhưng ngay cả thế cũng đâu có thể. Phải kém xa tôi chứ, làm sao mà nhà văn Lê Văn Nghĩa và các bạn đồng niên lại có thể được hưởng một môi trường giáo dục học ra học, chơi ra chơi, trò ra trò, thầy ra thầy, như vậy. Phải, nhất là những người thầy. Như tôi vẫn tưởng thì ở Sài Gòn ngày trước, không thể nào các thầy giáo lại là những nhà trí thức mẫu mực đáng kính, thông tuệ và nhân hậu nhường ấy, tạo tấm gương sáng và để dấu ấn sâu sắc bền lâu trong tâm khảm, tâm tính, lối sống, lối nghĩ của học trò đến như vậy.

Thực ra, những năm đi Bê đánh trận trong Nam, nhiều lần áp sát các vùng dân cư, rồi 30 tháng Tư vào hẳn Sài Gòn, cái nhìn của tôi, lúc qua ống nhòm lúc được tận mắt, về đời sống nhân gian cũng của người Việt Nam đồng bào mình cả, không phải là không có nới ra so với những gì được giáo dục ăn vào đầu từ tấm bé, song cũng chỉ là thoáng chút thế thôi và rất nửa vời. Rồi chẳng mấy hồi là giải ngũ ra Bắc. Chưa kịp bước xuống sân ga Hàng Cỏ đã lập tức chìm lút con người mình, đời sống, lối nghĩ, tình cảm của mình vào trong thời bao cấp. Một chút ý nghĩ cởi mở và nhận thức khách quan có được từ trong thực tiễn quân ngũ và chiến trường, cùng sự tươi tắn mới mẻ của buổi đầu hòa bình, tự tôi đóng sập cái sầm. Những định kiến xưa cũ đọng cặn lại, cộm lên, cộng với thói tật công thần chiến thắng bưng bít mọi khả năng tiếp thu những ý tưởng mới mẻ. Ngày một căn cỗi đi, nhưng ngày một thêm tự phụ, tự đắc về đủ mọi điều. Cũng may là thời gian và sự đời giúp cho sáng mắt dần. Rồi thời thế với cuộc Đổi Mới gần giống như sự bừng tỉnh. Vậy nhưng vẫn còn bao nhiêu là những nhận thức cũ mèm đã thành thâm căn cố đế và những hẫng hụt kiến thức khó bề cứu vãn.

Hồi đầu Đổi Mới, nhà văn Nguyễn Minh Châu trong một bài giảng ở Trường Viết Văn Nguyễn Du có nói thế này, đại ý: những điều thực sự mới mẻ, thậm chí mới mẻ nhất xuất hiện trong đời sống và cả trong văn học lại thường là đến từ những miền quá khứ không hề được biết tới.

Đọc Mùa hè năm Petrus, tôi liên tưởng ngay tới lời chiêm nghiệm sâu sắc, tuyệt hay và khác thường ấy của nhà văn thầy tôi.

Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số Tết, 2014, ký tên Bảo Ninh