← Quay lại trang sách

13. Đồng đội

Tám Tơ khà một cái dài như rắn hổ, đặt tô trà Huế xuống bàn một cái cộp, rồi hỏi:

- Mày liệu làm sao?

Tư Nết gãi tóc, nhăn mặt giây lâu rồi nói:

- Thật tôi không nỡ nào...

- Mày phải nỡ...

- Ngộ không! Anh nói giọng đó thì tôi trả lời dứt khoát với anh cho rồi. Tôi không nhận lời.

- Vậy hà, vậy thì tao cho mày ở tù.

Tư Nết cười ha hả:

- Hứ, thứ trùm trưởng là tay sai của người ta mà cũng làm oai. Bộ mặt của anh mà bỏ tù ai được.

- Bỏ tù mày được. Nè, đêm hôm qua mày biết ai chèo xuồng cho Thầy Hương Quản rượt bối đó không?

Tư Nết giật nẩy mình, mặt tái lét. Hắn ngó quanh quất và rất mừng là quán vắng tanh. Cả chủ quán cũng chạy đâu mất.

- Xanh mặt rồi đó, còn nói cứng nữa thôi?

- Ừ, cho là anh chèo xuồng đi. Rồi sao nữa?

- Tới Vàm Tắt, tao thấy rõ trên xuồng bối có mầy ngồi. Tao theo gần kịp, mà thương mầy có mẹ già bịnh nặng, nên tao lơi giầm, cho tụi bây thoát.

Mồ hôi Tư Nết xuống có giọt. Lâu lắm hắn mới nói được:

- Thôi... anh muốn gì, tôi cũng bằng lòng nghe theo hết.

- Có gì đâu mà khó. Nè, ghe Bình Trước, ghe Tân Uyên do dân chợ là dân cà phê xíu mại bơi nên tao thị như đồ bỏ. Ghe mấy làng khác cũng không có gì đáng ngán. Chỉ còn hơi lo về ghe Tân Đức và rất lo về ghe An Thịt của mày thôi. Dân bơi Tân Đức năm nay đã thành lão tướng hết ráo. Rốt cuộc thì còn lo một mũi An Thịt của mày đó. Tao hỏi thì biết chắc là năm nay mày giữ cây xà bát trên ghe làng này, nên tao mới cậy mày.

- Tôi phải làm gì, đâu anh nói nghe thử?

- Chắc chắn là chỉ có ghe Ba Doi của tụi tao và ghe An Thịt của tụi bây tới mức ăn thua trước. Chừng đó hai chiếc ghe ấy sẽ song song với nhau mà rút. Dân An Thịt của mầy cừ lắm, tụi tao ngán quá. Tụi tao tính đâm đại mũi vào hông ghe An Thịt. Ghe bây cũ quá chắc phải rã, tụi tao ăn chắc. Mà muốn đâm cho được, phải nhờ đến mầy làm nội công. Tụi tao chĩa mũi qua; tụi bây tránh đi, rồi tụi tao làm sao đâm. Mầy giữ xà bát, mầy phải lái làm sao để đưa hông hớ hênh cho tụi tao dễ đâm...

- Chỉ có như vậy hè?

- Chỉ có bấy nhiêu đó mà mày được thưởng mười đồng, còn ăn chia tiền thưởng của ông chánh (1) nữa. Nghe nói năm nay tiền thưởng giải nhứt là một trăm.

Tư Nết làm thinh mà nghe, rồi nín lặng giây lâu đoạn thở ra hỏi:

- Hồi hôm, tới Vàm Tắt anh thấy tôi đang làm gì?

Ý Tư Nết muốn kiểm soát lại coi quả mình bị trông thấy thật sự hay không. Chỉ có mối nguy ấy mới khiến anh phản bội hàng ngũ được.

- Mầy bơi đàng sau, thằng Sang bơi trước mũi. Thằng ngồi giữa tao không biết.

Tư Nết bây giờ mới hoàn toàn chịu thua.

Anh ta lững thững ra khỏi quán, mặt buồn hiu. Luôn sáu năm, ghe bơi An Thịt chiếm giải nhứt trong các cuộc đua. Anh góp phần trong vinh quang địa phương ấy rất nhiều, cho đến đỗi năm nay người ta tôn anh giữ xà bát, tức là giữ cây chèo dài phía sau, thế cho bánh lái ghe, không được phép gắn. Thế mà anh phản bạn thì có đau lòng hay không?

Chuyến đi bối đêm hôm rồi, xui xẻo hết sức. Không lượm được một hột gạo mà còn bị xuồng Hương quản Ba Doi rượt chạy muốn hụt hơi vì bạn của anh lỡ chém một chủ ghe. Tư Nết nhớ lại mẹ đang nóng mê sảng ở nhà, nhớ số tiền đưa trước do Tám Tơ đưa. Thật là quyến rũ.

Mà chèo kéo làm sao! Anh nhớ bạn hữu, ba mươi người, toàn là dân chèo ghe với nhau, người nào cũng lưng cháy nắng, bàn cẳng hà ăn, cực khổ cả năm mới được vài phút vui là tới mức ăn thua trước các làng khác trong tỉnh. Vậy mà năm nay...!

Về tới nhà, anh nghe mẹ nôn oẹ ầm lên, và thấy hàng xóm lăng xăng bên chõng bà cụ. Họ chỉ có gừng và nước nóng để cứu bịnh nguy ngập của bà. Vì thế bà vẫn sốt liên miên.

Tư Nết không bước qua thềm, trở gót và chạy mau đến nhà Tám Tơ. Chưa tới cửa anh đã nói:

- Anh Tám ơi, tôi quyết định rồi, anh đưa trước năm đồng đây coi. Gấp lắm!

Tám Tơ làm thinh lần dây lưng mở hồ bao lấy ra một tấm giấy con công ướt nhẹp:

- Nè, mà hễ nuốt lời thì chết đa nghen!

- hứa rồi mà!

Khúc sông Đồng Nai trước chợ Biên hòa rộng như một cái hồ to, thế mà ghe bơi năm đó thả lềnh bềnh gần chật sông.

Ông tỉnh trưởng là đảng viên của một đảng trụ cột của đệ tam cộng hòa Pháp, nên ông ra lịnh ăn lễ Cát-to-ru-dết(2) thật rình rang.

Ghe làng nào cũng phải có mặt, làng thất mùa, làng bị bịnh truyền nhiễm gì cũng phải tham dự cuộc đua bơi năm đó cả.

Đứng ở bờ sông trước dinh ông chánh mà ngó lên cồn gáo, người xem có cảm giác như lạc vào miền lạ nào. Màu sắc hực hỡ của mấy mươi chiếc ghe mới sơn, với đầu rồng, đầu phụng của nó gợi hình ảnh cuộc nam du của vua nhà tùy, nhắc nhở những thuyền rồng vua Lê, những hành cung của chúa trịnh.

Những đuôi rồng, đuôi phụng, cong quớt lên, lại gợi hình ảnh xứ Thái, xứ Miên, với những chiếc ghe dài hình rắn Na-ra.

Một hồi trống.

Tức thì mấy mươi chiếc ghe chuyển mình, lượn tới để sắp hàng.

Một tiếng súng. Trả lời tiếng súng ấy, mấy mươi chiếc phèng la đánh lên một lượt, rồi mấy trăm tiếng người hô lên một lượt để ra hiệu khởi hành:

- Phèng!

- Hè!

- Phèng!

- Hè!

Tiếng phèng la trên mỗi chiếc ghe bơi, chỉ định thời gian hạ giầm cho dân bơi. Tiếng hè của họ xác định rõ thêm thời gian ấy. Nhờ thế họ hạ giầm ăn rập với nhau, mấy mươi người đều cúi rạp mình xuống một lúc.

Phèng!

- Hè!

Phèng!

- Hè!

Trên mỗi chiếc ghe, mấy mươi người dân bơi giống hệt như người gỗ được cột dính với nhau, rồi một bàn tay bí mật vô hình nào đó giựt dây cho họ cử động.

Mấy mươi chiếc ghe bơi, trông đàng xa như mấy mươi con thủy quái thời tiền sử còn sót lại và thừa lúc biển lặng trời êm, nổi lên để giỡn nước. chúng trườn tới trên mặt sóng như những con giao long hồ Động Đình tả trong truyện tàu ngày xưa, đầu có mồng có mỏ, có vảy, đuôi có rìa.

Xanh, trắng, đỏ, vàng pha trộn với nhau trên màu bạc của mặt nước phản chiếu ánh mai, lóng lánh như cá ngũ sắc trong một chiếc bồn khổng lồ nào.

Phèng!

- Hè!

Phèng!

- Hè!

Phèng!

- Hè!

Đua chưa đầy trăm thước mà đã có ba làng rớt lại sau. Đó là những làng chợ mà dân bơi là dân cà phê, xíu mại, y như lời Tám Tơ nói. Họ chỉ dự cho có mặt, và vui lòng ở lại đùa chơi khi bị bỏ rơi.

Bây giờ sông nổi sóng. Mũi ghe rẽ nước vo vo. Giầm chém xuống mặt sông làm bắn nước lên trắng như bọt thác.

Phèng!

- Hè!

Ghe bơi không lướt theo một tốc độ đều đều như thuyền chạy buồm. Hễ giầm hạ một bận là nó vượt một cái, thành ra xa trông tưởng như nó nhảy. Mà nó cũng nhảy thật đó. Sức bơi mạnh quá khiến nhiều chiếc làm bằng gỗ nhẹ, nhảy chồm lên. Có năm, vài chiếc đứt làm hai đoạn, hoặc rã bung ra.

Phèng!

- Hè!

Hai chiếc ghe giữa đi kề sát nhau. Dân bơi bên này dùng giầm mà chém vào tay dân bơi bên kia. cuộc chém trả gây thành một trận thủy chiến tai hại cho cả đôi bên, và cả hai bên đều rơi lại.

Chiếc ghe rồng xanh, không biết anh xà bác lái thế nào mà lật úp xuống. Hai mươi chín người trên ghe đều quăng giầm, rối bíu bu quanh ghe họ để lật nó trở lại, không phải mong theo kịp ai nữa, mà cốt cứu sống anh giầm đốc. Anh này ngồi trước mũi, hai chơn bị cột dính vào hông ghe cho khỏi té xuống nước. Hễ ghe chìm là anh ta nguy.

Phèng!

- Hè!

Bây giờ còn sáu chiếc là mong tranh ăn thua với nhau.Thành thử cuộc đua vô cùng hào hứng trong cái nước rút lớn của họ.

Chiếc này lần chiếc kia một mũi thôi. Họ rút tới như ta so đũa, rán so cho bằng với nhau, để dành sức đặng rút vào phút chót mà tranh giải. Nhưng không làm sao so cho bằng được cả. Sáu chiếc cứ thay phiên nhau mà so le, trờ tới hoặc thụt lùi.

Trên bờ, khán giả la ó vang trời. Có người hăng quá nhảy múa lăng xăng thỉnh thoảng một anh rơi xuống nước, kêu cái chũm.

Phèng!

- Hè!

Chú thich:

[1] Tỉnh trưởng thời Pháp thuộc.

[2] Cát-to-ru-dết: 14 tháng 7 (14 Juillet): Quốc khánh nước Pháp