5. Một quãng đường (1)
1.
Một hôm, Như Phong đến nhà tôi.
Bấy giờ là cuối mùa hè năm 1943. Mấy năm trước tôi đã có lần gặp Như Phong, nhưng chúng tôi chưa quen nhau. Tôi chỉ biết trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy tôi đã đọc những truyện ngắn Như Phong từ hồi tôi làm nhà Bata, mua báo Tiểu thuyết thứ bảy bán cân. Truyện có một không khí mới, đem đến những suy nghĩ man mác đẹp cho người đọc. Anh hoạt động phong trào Thanh niên Dân chủ.
Tôi đã có lần gặp anh ở toà báo Thế Giới, phố Phạm Phú Thứ gần chợ Hàng Da. Tôi đến đây vì thích nghe các anh ở toà soạn hay nói chuyện thế giới đại đồng và chủ nghĩa cộng sản.
Hồi ấy, tôi chưa vào nghề văn.
Một bạn ở toà báo đã trỏ Như Phong và Trần Mai Ninh cho tôi trông thấy. Tôi lại nghe đồn Như Phong, trong ngày cưới, không chịu lễ sống các bề trên nhà gái, vì vậy nhà gái không cho đón dâu. Tuy thế, chuyện bản lĩnh con nhà giàu ấy cũng thật xa xôi với tôi. Tôi yêu văn Như Phong và vì tôi biết anh tham gia cuộc đình bút của các nhà văn chống ông chủ xuất bản Tân Dân. Anh đã bị mật thám Pháp bắt, sau khi các tổ chức báo chí công khai của đoàn thể phải đóng cửa. Những diều đó đủ cho tôi thật bồng bột, khi gặp Như Phong.
Như Phong bảo tôi:
- Đoàn thể muốn gặp...
Tôi chỉ nhớ Như Phong cho một cái hẹn, đưa tôi quyển Tuyên ngôn, chương trình và điều lệ Việt Minh, một tờ báo Cứu Quốc. Sách báo bí mật của Tổng bộ Việt Minh hồi ấy in li-tô giấy xanh, gấp cả hai thứ lại chỉ báng bàn tay.
Tôi biết đây là sự tin cậy, mặc dù chúng tôi chưa thật biết nhau. Thời kỳ ấy, thanh niên khao khát lý tưởng, như người đi nắng khát nước, chỉ nghe đồn cũng đã tìm đến bày tỏ nỗi băn khoăn và đánh bạn với nhau. Những người yêu văn những người viết văn cùng một lứa, chỉ đọc một truyện ngắn một bài thơ với những lời xa xôi bằng những chữ Ngày Mai, Trời Hồng, Nhân Loại... viết hoa, thế là chúng tôi đi tìm gặp nhau. Chúng tôi hiểu đấy là người cùng chí hướng.
Đến ngày hẹn, tôi đi tàu điện xuống Quán Thánh, rồi rẽ về Hồ Tây, qua đường Cổ Ngư, lên phố "Lốc cốc No"(1).
Cũng con đường này, những năm trước, tôi đi học trường Yên Phụ.
Tìm đúng số nhà 126, tôi gõ cửa.
Cái cửa gỗ màu gụ, chạm trổ, có quả đấm sứ và rèm vải treo trong. Đấy là một nếp nhà và một căn phòng đẹp. Nhà lát đá hoa, ghế sa lông, lịch treo tường, thoáng và đơn giản, lịch sự.
Mở cửa mời tôi vào là một thanh niên. Anh mặc sơ mi trắng, đeo kính trắng và tự giới thiệu tên là Uy. Chỉ một cái bắt tay chặt và cách nhìn nhau, nói thế, cũng như với Như Phong hôm trước, chúng tôi nghiễm nhiên coi như đã biết và ngầm hiểu chúng tôi gặp nhau để làm gì.
Trường tiểu học Yên Phụ ngày trước ở gần đây. Tôi ăn cơm đầu ghế buổi trưa chỗ hàng cơm bên cạnh nhà máy điện đầu lối vào Ngũ Xã. Hàng ngày trước kia, tôi vẫn đi qua cái nhà này. Đây là một dãy nhà sang, thường chủ Tây ở, hoặc nhà của những người đi làm có xe đạp, xe nhà. Nhà nào cũng nhiều buồng, bên cạnh có đường sỏi và dàn hoa, lối cho ôtô, xe nhà, đi cổng riêng. Tôi không thể tưởng rồi ra có ngày đi họp cách mạng, tôi lại vào cái nhà này.
Bấy giờ còn chạng vạng, chưa tối hẳn. Tôi ngồi trong phòng trông ra cửa nách. Qua bóng loáng thoáng xanh đen lá cây na thấp ven tường, thấy đằng cửa nhà máy diện Yên Phụ có một người xuống xe tay, đi lại phía này, lững thững như người đi bách bộ.
Tôi nhận ra đấy là Như Phong. Trước nhất ở dáng người bệ vệ, bộ quần áo tờ rô xám sáng, nách kẹp mấy quyển sách, đầu để trần, miệng ngậm cái tẩu gộc. Với tôi, đấy cũng là hình ảnh hấp dẫn của một kiểu nghệ sĩ.
Một lát, thấy Nguyên Hồng và Học Phi đến. Nguyên Hồng là nhà văn nổi tiếng, đặc biệt khác lạ với những nhà văn tôi đã đọc. Những truyện anh viết về đời anh và cảng Hải Phòng sôi nổi cảm động, thiết tha. Và gần gũi bao nhiêu, khi đọc thấy anh kể anh nghèo lắm, anh ngồi viết chuyện đời anh từ năm anh mười sáu tuổi như thế nào. Trong gian nhà lá, cái mái ọp ẹp tối, sát đầu, kê giấy lên mảnh ván mặt chiếc hòm phản, cạnh vại nước ăn. Cứ thế, viết suốt ngày đêm đến đau cả ngực... Những chi tiết ấy kích thích tôi. Thoạt trông vẻ tất tưởi mà lại như không cần gì ai, tôi đã có cảm tình, lại nghĩ đây là người nghệ sĩ, một nhà văn của giai cấp công nhân, như Mácxim Goócky.
Tôi vừa có mấy cái truyện ngắn in trên tuần báo Hà Nội Tân văn được toà soạn trả tiền nhuận bút. Thế là tôi quyết định vứt những công phu chờ đợi và chạy chọt tìm việc làm, bước vào nghề viết. Bởi vậy, cái gì của người viết văn, tôi đương mộ, tôi đều thấy hay, muốn học đòi. Dáng dấp đĩnh đạc, bề thế của Như Phong, cách người lam lũ với vẻ mặt cóc cần đời của Nguyên Hồng đều làm cho tôi yêu cả.
Học Phi là người tôi biết mặt từ hồi "Bình dân". Năm ấy, tôi hay viết tin chống thuế, tin thợ dệt tranh đấu, tin hoạt động Ái hữu thợ dệt ở vùng tôi. Có khi tôi làm thơ. Thơ tôi gửi nhiều nơi mà chưa báo nào đăng. Tôi quý báo Tin Tức, báo Đời Nay vì các toà báo này hay góp ý kiến cả về cách viết từng câu kỹ lưỡng, dẫu trả lại bài. Hồi ấy, các anh toà báo đã chỉ cho tôi trông thấy Học Phi. Học Phi ngồi trên giường có cái chăn dạ xám bên cạnh, chăm chú đọc bằng tiếng Pháp tiểu thuyết Người mẹ của Goócky. Truyện dài Xung đột của anh ký tên Tử Văn đương đăng từng kỳ trên báo Tin Tức. Tôi không thấy hay. Nhưng tôi phục truyện ấy vì truyện đã đăng trên báo công khai của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Bấy giờ được gặp và quen ở đây, tôi cũng thật cảm động.
Tôi cũng đương thành người viết văn và hoạt động cách mạng. Tôi ngẫm nghĩ, đây là cuộc họp quan trọng.
Trời đã tối, Uy đưa chúng tôi lên cái gác sân thượng sau nhà, tảng như ngồi chơi. Ở đấy đứng lên, thấy cái dốc vào Ngũ Xã trong hồ Trúc Bạch dưới chân tường. Uy nói: Chúng ta bắt đầu họp. Và lần lượt đọc tuyên ngôn chương trình, điều lệ Việt Minh. Lại nói từ nay chúng ta là một tiểu tổ, cùng chí hướng đánh Pháp đuổi Nhật, theo điều lệ, tôn chỉ mục đích Việt Minh, hàng tháng đóng tiền nguyệt liễm vào quỹ đoàn thể.
Trong bóng đêm hè bao phủ tối đen cái gác sân sau, trên đầu mảnh sân phơi cong queo những sợi dây thép làm cho tôi cảm tưởng như ngồi trong lưới. Nhưng ngoài cái lưới dây thép ấy bao la từng chùm sao nghiêng xuống và mặt nước sông Hồng đằng kia cuốn đi những ánh sao rơi. Ý nghĩ của tôi mênh mông xa và đầy tưởng tượng kỳ ảo lang thang ra ngoài cuộc họp trên cái sân gác chật chội này.
Ngoảnh lại mấy năm trước, tôi phải thôi học, vào đời, bó buộc vào đời, không biết đời đưa đẩy mình đến đâu. Chỉ mấy năm mà lúc nào cũng cảm thấy dài thế, ngổn ngang thế, những chua chát, những mỉa mai, những chờ đợi. Niềm mơ ước mờ mịt, chắp nối, lông bông và thật cũng không biết ước mơ gì.
Hôm nay cách mạng đến với tôi trên chặng đường mới.
Mỗi chặng đường sâu vào cuộc đời, những ước mơ lại như những đợt sóng dồn về một hướng nước. Từ đây, tôi là người viết văn có lý tưởng cộng sản. Trong bóng tối đêm ấy và trong cuộc sống của tôi lúc ấy, tôi thấm thía nhận ra đời mình đã ràng buộc thật sự với lý tưởng ấy không phải mới bây giờ mà từ khi hoạt động phong trào Ái hữu thợ dệt Hà Đông.
Ít lâu sau, Như Phong đến tìm tôi, lại hẹn xuống họp ở nhà Uy.
Lúc ấy gần tối, chỉ có Vũ Quốc Uy với Như Phong và tôi.
Đương ngồi nói chuyện, có một người bước vào ánh đèn. Anh bé choắt, lượt thượt cái vạt áo dài ma-ga tóc đen nhánh. Anh đội mũ “cát” vải màu đỏ kệch, đeo kính trắng cận thị, như cậu học trò trường huyện. Tôi tưởng ai hỏi gì, nhưng thấy Uy đã đứng dậy và bảo chúng tôi lên cái gác sân sau như lần trước.
Anh người bé nhỏ nọ cũng lên theo. Uy giới thiệu đây là đồng chí cán bộ về nói chuyện tình hình. Tên anh là Bé(2).
Anh Bé như đã biết tôi. Anh hỏi thăm tôi đương viết gì, khiến tôi lúng túng, ngượng nghịu. Anh lại hỏi cách sinh sống của tôi thế nào, có chắc chắn không, mỗi tháng viết được bao nhiêu tiền. Anh so sánh rồi nói thế thì người làm văn nước ta còn khổ, mỗi tháng kiếm mấy đồng bạc chưa được chắc lưng bằng người thợ có nghề. Anh cười, mặt tròn nét hẳn lại. Tôi thấy anh hồn nhiên như trẻ con và anh nói: "Nhưng mà viết văn là nghề tự do, khoái!"
Trong khi họp, anh Bé đặt ra những cách thức khiến tôi vừa lo vừa hào hứng. Tôi có cảm tưởng họp thế mới là họp bí mật.
- Phải giữ thật nghiêm các nguyên tắc để đối phó với tình hình xấu, nếu xảy ra. Khi biết có "chó"(3) đến, trong tay có tài liệu thì nhai nuốt chửng ngay. Ta phân công trước, lúc ấy ai chạy đằng nào cứ thế chạy, không bối rối. Chẳng may đồng chí nào bị "chó" bắt, nó đánh, cứ khai ngồi chơi. Đánh mãi cũng chỉ có thế, không để nó moi được gì.
Anh Bé bảo mọi ngời cần có bí danh. Hễ đi đến nơi hẹn đều đặt dấu hiệu để xem biết trước chỗ mình đến có động hay yên. Nghe dặn những chuyện ấy, tôi cứ dần dần không còn thấy ở anh Bé vẻ ngơ ngác học trò trường huyện đi giày vải Ba ta với cái áo dài ma-ga tóc nữa. Trong cái nhìn và ý nghĩ tôi, anh to lớn lên và hoá thành người cán bộ có những nét ngang tàng khác lạ. Hai bàn tay anh xù xì mốc ráp và gợn chai. Cổ anh ngấn nắng cháy đen. Tôi đoán anh vừa xông pha nắng gió từ nơi xa về đây.
Câu chuyện anh kể, càng tỏ rõ thế.
- Cả nước ta đương sôi nổi cách mạng rồi. Tôi đi công tác qua vùng đồng chiêm, các cụ đồng chiêm suốt đời trong bùn lầy nước đọng, không ra khỏi làng bao giờ, thế mà các cụ hỏi có phải Hồng quân Nga vừa tiêu diệt mấy chục vạn phát xít Đức ở Ucờren, Hồng quân đương phản công khắp các mặt trận không? Rồi các cụ bảo tôi kể tỉ mỉ về từng trận Hồng quân tiến công phát xít Đức ở Kuốc, ở sông Đơniép. Đấy, quần chúng nông dân theo cách mạng, đã học hỏi và tiến bộ như thế...
Anh Bé lại đọc tuyên ngôn, giảng điều lệ và chương trình Việt Minh. Từng đoạn, từng phần, sách lược đối với các giai cấp trong Mặt trận cùng với nhiệm vụ cách mạng của mỗi tầng lớp.
Đêm nay nữa, ở cái gác sân thượng nơi góc phố vắng ấy, bốn chúng tôi ngồi quây lại với nhau chưa kín một mảnh chiếu, trên đầu ngang dọc đan những sợi dây thép ban ngày phơi quần áo, nhưng ngoài kia, đêm thành phố đương dìu dịu vào thu. Trong mênh mông có những chùm sao lóng lánh kỳ lạ Tôi trông thấy trên khắp nước, từng lớp người đã đứng lên trong vị trí của mình, đâu đâu cũng đương sôi nổi phất cờ cứu nước xông ra đánh Pháp, đuổi Nhật. Nước Việt Nam độc lập đương từ từ mọc, như ông trăng đêm rằm tròn vành vạnh ló ra trên đầu ô Yên Phụ và trong bóng dừa, bóng tre làng tôi.
Từ đấy, thỉnh thoảng Như Phong và tôi lại đến nhà Uy họp. Ba chúng tôi thành một tổ bí mật. Tôi hiểu thế mà không hỏi thêm. Trong tình hình mà lúc nào mật thám cũng rình mò quanh mình, công tác ai làm người nấy biết, làm đến đâu biết đến đấy. Tôi không biết Uy làm nghề gì. Những lần sau không thấy Nguyên Hồng, Học Phi đến, tôi cũng không hỏi.
Tôi thường thấy Như Phong ngồi xe tay, xuống xe ở phố gần đấy rồi lững thững đi bộ lại nhà Uy. Như Phong bảo tôi "Như vậy tụi "chó" sẽ tưởng mình đi chơi láo thôi. Luôn luôn ta phải đề phòng "chó và A.B"(4). Như Phong cũng bí mật. Nhưng ít nhất, tôi đã biết nhà anh trước chợ Đồng Xuân có cửa hiệu bán chè và đường cát - nhà buôn lối cổ của những gia đình gốc gác ở Hà Nội.
Mỗi lần họp, tôi đóng một hào làm nguyệt liễm. Cũng đã quen giữ bí mật, đến đầu nhà Uy, tôi dừng lại, nhìn trước nhìn sau, xem có ai theo mình, có con "chó" nào đeo kính râm đứng đằng kia không, rồi tôi còn đi vòng vài lần, đến khi không thấy có người vơ vẩn, tôi mới bước tới cái cột đèn xi măng, nhìn lên. Không thấy có hòn đá đặt đấy. Thế là trong nhà yên, cứ vào.
Có lần, anh Bé trình bày bản Đề cương về văn hoá Việt Nam của Trung ương Đảng cộng sản Đông Dương và chúng tôi thảo luận. Tôi không nhớ đã thảo luận những gì. Có thể vì trình độ kém hiểu biết lý luận của tôi. Bởi vì, cũng hồi đó, nghe cắt nghĩa quyển Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa, tôi lại nhớ rành rọt, cụ thể.
Quyển sách nhỏ Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa có những đoạn tôi chú ý đến thuộc lòng.
"Lấy gì để đánh quân thù? Một dân tộc bị áp bức cũng như một giai cấp bị bóc lột, muốn tự giải phóng phải cầm vũ khí thẳng tay mà chiến đấu. Không thể tay không mà đánh giặc. Dân ta muốn đánh đuổi Nhật Pháp cũng không thể không sắm sửa và tận dụng võ khí. Có hai cách kiếm võ khí là tự chế, mua và chiếm của giặc.
I. Dân ta phải tự chế một phần võ khí thì lúc nổi dậy mới có cái mà giết giặc. Bởi vậy, ngay từ nay, mỗi đội tự vệ hay tiểu tổ du kích phải sắm cho đủ những thứ này:
a) Võ khí để đánh: dao chiến đấu (mỗi đội viên 1 con) gậy tày (mỗi đội viên một cái), giáo hay đinh ba (ít nhất mỗi đội 2 cái) Ngoài ra, có võ khí gì hơn càng hay (ví dụ: súng, nỏ v. v...).
b) Khí cụ dùng để phá hoại (chung cho cả đội) một đôi lắc lê mở bù loong, một đôi cuốc chim, một đôi xẻng lục lộ, một cái kìm bấm để cắt dây thép. Ngoài ra, có mìn, thuốc nổ, cưa thép, búa tạ, càng hay.
Chú ý: muốn đánh những thứ trên đây, tất cả cái hội viên cứu quốc từ nay phải tìm kiếm, tích trữ những miếng sắt vụn hay những đồ dùng bằng sắt có thể dùng để đánh võ khí.
"Các đồng chí!
"Các chiến sĩ cứu quốc!
"Thời cuộc thế giới biến đổi rất nhanh. Phe Đồng minh (Anh, Mỹ, Nga, Tàu) càng đánh càng thắng. Phe phát xít xâm lược đã bắt đầu tan rã với việc phát xít ý thua bại và còn tan rã hơn? Quân Đức Hít-le đương bị Hồng Quân Nga đánh cho thua liểng xiểng. Mai đây, mặt trận thứ hai chính thức mở ở Tây Âu và Hồng quân tổng phản công một nhịp ở Đông Âu thì quân Đức sẽ bị kẹp nát giữa hai gọng kìm ghê gớm. Cách mạng sẽ bùng nổ tại Pháp, Bỉ, Hà, tại các thuộc địa khác của Đức và ngay tại Đức nữa.
"Bên Viễn Đông, cuộc phản công của Đồng minh lấy lại Diến Điện đã bắt đầu. Nếu phát xít Đức ngã quỵ ở châu Âu, thì phát xít Nhật sẽ mất hết vây cánh. Đi đôi với cuộc tổng phản công của Anh, Mỹ, Nga, cuộc kháng chiến của Tàu sẽ thắng lợi hoàn toàn. Phong trào phản chiến ở Nhật và các thuộc địa Nhật sẽ mỗi ngày một sôi nổi thêm.
"Ở Đông Dương, Nhật nghi kỵ Pháp và ghen ăn với Pháp. Pháp căm tức Nhật và chán cảnh làm đầy tớ cho Nhật. Nhật sửa soạn truất quyền Pháp và cho bọn Việt gian phản quốc lập chính phủ bù nhìn. Phần đông người Pháp chỉ đợi quân Đồng minh vào Đông Dương đánh Nhật là quay lại bắn Nhật.
Hai kẻ thù Nhật Pháp ngày càng xung đột nhau dữ dội và tự làm cho nhau yếu sức.
"Tất cả các lực lượng tự do và tiến bộ trên thế giới đang cùng chúng ta chiến đấu, tình thế Đông Dương ngày một có lợi cho cuộc vận động cách mạng dân tộc giải phóng của ta.
"Chúng ta phải biết nắm lấy cơ hội ngàn năm có một đặng giành quyền độc lập, đuổi kịp năm châu.
"Chúng ta phải hăng hái góp phần vào cuộc chiến đấu chung của thế giới chống lũ mọi phát xít, mưu hoà bình, hạnh phúc cho loài người.
"Những rên xiết, kêu than của dân tộc, làm cho máu ta sôi lên. Lịch sử hơn bốn nghìn năm chiến đấu của dân tộc ta tiến bước.
"Tình thế không cho phép chúng ta chậm chạp nữa. Hãy tích cực sửa soạn khởi nghĩa đặng bẻ xiềng, tháo ách cho dân tộc.
Các đồng chí cứu quốc! Toàn quốc đồng bào ta đang trông đợi nơi các đồng chí. Tất cả các tổ chức Việt Minh hãy ganh đua thực hành những chỉ thị trên đây. Các đồng chí kỳ bộ phải hết sức đôn đốc và kiểm soát việc thi hành chỉ thị và báo cáo lên thượng cấp những kết quả xác thực.
"Chúng ta phải thắng và chúng ta nhất định sẽ thắng!
"Ngày mai vẻ vang của dân ta không xa nữa.
"Đánh đuổi phát xít Nhật – Pháp!
"Tinh thần tích cực sửa soạn khởi nghĩa muôn năm!
"Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm?(5)
Cứ khi nào nghĩ đến những điều trên trong tôi lại dạt dào thấy khắp nước đương vào thời kỳ mới.
Ngoài đờng tối, từng đám công nhân nhà máy điện Yên Phụ, công nhân nhà in Iđeo(6) đương âm thầm đi men chân tưng đến xưởng làm tua đêm. ở chỗ bờ tường nhà in Iđeo xám dài dằng dặc, từ ngày còn đi học tới giờ, lúc nào tôi cũng thấy lom khom có mấy người phu xe cởi trần đương bán lại cho nhau giờ xe kéo. Lúc thi chửi, lúc thì cười, lúc đánh nhau, chốc chốc lại ồn ã lên. Xã hội cứ bối rối và buồn thảm như thế.
Nhưng biết đâu, thằng Tây biết đâu được bên trong người thợ hay ngời phu xe, Tây biết đâu được chúng tôi ngồi họp trên cái sân thượng bé tí tẹo này, trong người có truyền đơn, có báo cách mạng, có con mắt và tinh thần bao quát nhìn ra thế giới. Mỗi chúng tôi bấy giờ đều trữ lắc lê, kìm, búa, có người có cả súng - như những công việc sửa soạn khởi nghĩa yêu cầu phải sắp sẵn thế.
Có hôm, anh Bé đến nhà tôi trên Nghĩa Đô. Tôi hỏi:
- Khi khởi nghĩa thì Văn hoá Cứu quốc làm gì?
Anh đáp:
- Khi khởi nghĩa, Văn hoá Cứu quốc cầm vũ khí đứng lên xông ra giết giặc nh các giới cứu quốc khác của đồng bào.
Tôi cũng sắm được cái búa đanh, cái kìm và cái đèn Neông hai pin. Lần họp nào cũng kiểm điểm mấy thứ ấy. Chỉ là mấy vật nhỏ ấy làm cho tôi tưởng như đó là việc cuối cùng, việc to nhất góp phần làm nên cách mạng.
Có lần anh Bé kể chuyện Việt Minh đã lập được nhiều chiến khu. Những khu giải phóng trên miền ngược sẵn sàng tham gia khởi nghĩa rồi. Các chiến khu ấy đã đánh Pháp, đánh Nhật, thằng Nhật sợ không dám mò vào rừng, Tây thì đã rút chạy khỏi các đồn bốt ở nơi hiểm trở. Các tỉnh thượng du Cao Bằng. Lạng Sơn Bắc Cạn đã nhiều khu giải phóng độc lập hoàn toàn.
Tôi hình dung đến những vùng tự do, đất và trời xanh rời rợi và trong lặng quá, như chờ đợi.
Tôi đã biết rừng núi trong một ngày Tết trên sông Thao ở Yên Bái, lần đầu tiên tôi làm quen. Cửa đền Đông Cuông có cây mai nở, khe khẽ reng reng tiếng nhạc ở tay bà then. Tôi lại trông thấy những vùng rừng rậm núi cao khi tàu tốc hành Hà Nội - Sài Gòn chạy xuyên qua cực nam Trung bộ, với những cái tên xa xôi, những Sông Lòng Sông, những Tua Chàm, những Xuân Lộc xanh đen đất đỏ Biên Hoà và rừng cao su mờ mờ như hoàng hôn suốt ngày. Mỗi lúc có đoàn tàu hoả chạy qua, những người phu cạo mủ cao su lại ngẩng đầu nhìn theo đoàn tàu về Bắc. Người lớn, trẻ con nhấp nhô, bóng in lên nền rừng hết sức hiu hắt.
Những nơi đầu sóng ngọn nguồn ấy bây giờ có Việt Minh đứng ra đánh Pháp đuổi Nhật cả rồi!
Anh Bé kể chuyện trên Bắc Cạn có đội nữ du kích hồ Ba Bể. Ngày bé, có lần tôi đọc quyển truyện thần quái Sóng hồ Ba Bể. Tôi tưởng tượng hồ Ba Bể là nơi âm u có những ngọn sóng thần xanh biếc bỗng dưng nửa đêm nổi cao như núi, đến gà gáy sáng, sóng ập xuống, trôi hết cả rừng, cả làng mạc quanh bờ.
Bây giờ, ở nơi rừng thiêng nước độc ấy đã có đội du kích toàn nữ áo chàm đánh Tây đuổi Nhật.
Anh Bé bảo tôi viết thành truyện để in báo Cứu Quốc.
Báo bí mật có kỷ luật giấy và kỷ luật chữ. Giấy viết nhỏ bằng tờ giấy quấn thuốc lá, để dễ mang đi. Bài chỉ được hai trăm chữ.
Bài Đội nữ du kích Ba Bể tôi viết khoảng chữ ấy. Tôi còn loay hoay viết những bài thật ngắn khác, viết xong xoe giấy lại, như cái ống lông ngỗng.
Như Phong và Vũ Quốc Uy chuyển cho tôi báo Cứu Quốc của Tổng bộ Việt Minh, báo Cờ Giải phóng cơ quan Trung ương của Đảng cộng sản Đông Dương. Tôi đọc số báo đặc biệt Cứu quốc Hải ngoại say sưa thấy hai chữ Việt Minh đã vượt ra ngoài biên giới được phe Đồng minh ủng hộ.
Tôi cặm cụi viết những bài báo thật ngắn, chữ bằng con kiến. Những bài báo một hai trăm chữ mà viết rất khó, viết mãi không thành.
Hồi này, nhà xuất bản Tân Dân đã mời tôi đến làm giao kèo viết. Tôi đã bán hàng tháng được bản thảo truyện ngắn và có tiền. Tôi chưa viết truyện dài bao giờ, thế mà nhà xuất bản Mới mua truyện dài đặt tiền, tôi viết luôn truyện dài Quê người. Cũng có cái dễ, đấy là những chuyện làng xóm tôi chắp nhặt viết lại mà thôi.
Những năm còn nhỏ đi học, đời tôi rặt những mỉa mai tình cờ và tức cười. Bây giờ, khi tôi quyết định lấy nghề viết nuôi thân, tôi không nghĩ là tình cờ, nhưng thật tôi cũng không có mục đích gì đặt ra trước để cho rồi thành nghề văn và viết văn Tôi chỉ có cái lo lắng của một công việc mới tìm được.
Tôi ham viết từ khi ít tuổi. Tôi có cảm tưởng học đến đâu viết đến đấy, - bắt chước viết đến đấy.
Chín, mười tuổi, nhà tôi có quyển Kiều, các dì tôi hay bói Kiều. Bác thợ củi nhà tôi có quyển Học Kiều lẩy. Thế là tôi làm thơ lẩy Kiều. Đến khi tôi tha đâu về được một tập Tứ dân văn uyển, trong có nhiều bài dịch thơ Đường của Nguyễn Can Mộng và quyển Văn đàn bảo giám của Trần Trung Viên, tôi bèn loay hoay làm thơ tứ tuyệt, bát cú, làm văn tế và tôi dịch lại những bài thơ Đường người ta đã dịch, mặc dầu tôi không biết chữ Hán. Thày tôi ở Sài Gòn đã đem về những pho truyện dịch của Nguyễn Chánh Sắt, Chinh đông Chinh tây Tam hạ Nam đường, Càn Long du Giang Nam... Thế là tôi vừa đọc vừa viết kiếm hiệp. Rồi tôi say mê lung tung: Bông hoa rừng, Dao bay, Thuỷ hử, Gươm cứu khổ, Tố Tâm, Hồn bướm mơ tiên, Sống mà yêu...
Có điều chưa bao giờ tôi bắt chước viết theo truyện của Khái Hưng, Nhất Linh, mặc dầu tôi thích đọc những truyện ấy. Bởi lẽ giản dị: viết truyện viển vông giang hồ kỳ hiệp, ai cũng có thể tưởng tượng, nhưng viết giống cái thật thì nhân vật trong truyện của các ông nhà giàu con quan có đồn điền như thế, tôi không biết những kiểu người ấy, không bắt chước được.
Truyện Dế mèn phiêu lưu ký của tôi phảng phất những nét lẫn lộn Guylive du ký, Đông Kisôt, Têlêmạc phiêu lưu ký mà tôi đã đọc những bản dịch trong loại sách Âu Tây tư tưởng của Nguyễn Văn Vĩnh. Tôi tự học tiếng Pháp bằng cách tập dịch. Tôi mê và tôi dịch nhiều của Môpátxăng, Mateclinh, Đô đê. Khi ấy, tôi hay viết truyện ngắn và cũng có khi làm thơ.
Tôi đã thôi học hẳn và bỏ việc nhà Bata đã lâu, lại đi lang thang nhiều rã cả chân, và phải chật vật kiếm miếng hàng ngày. Đời sống trong xã hội quanh tôi, tư tưởng và hoàn cảnh của chính tôi đã vào cả trong những sáng tác của tôi. Ý nghĩ tự nhiên của tôi bấy giờ là viết văn tả thực, văn xã hội.
Tôi viết đủ thứ, viết được cái gì, tôi đều gửi báo. Tôi luôn gửi báo để thử sức và "xem thế nào". Báo ở Hà Nội hay Sài Gòn, báo nào tôi biết, tôi gửi tất: Nước Non, Cậu ấm, Mới, Đông Pháp, Việt Báo, Hạnh Phúc, Tiểu thuyết thứ năm, Ngày Nay, Tiểu thuyết thứ bảy... Tôi vẫn ký tên như tên tôi bây giờ. Mãi chẳng được bài nào đăng. Tôi cũng không nản.
Vì thật sự khi nào đọc lại bài tôi cũng tự thấy còn xoàng thế nào ấy. Tôi vẫn viết, tôi chịu khó viết. Dần dần, đôi khi, cũng có báo đăng bài thơ, cái truyện ngắn, truyện vui cười, tranh khôi hài tôi vẽ.
Hồi tôi mới mất việc ở nhà giầy Bata, có bạn quen là Bản trên Yên Thái bán hàng cho hãng Đainan Kôsi của Nhật ở Hàng Bồ mách tôi hãng ấy mở đồn điền trên Bắc Giang, đương cần chân thư ký công nhật. Tôi làm đơn nhờ bạn chạy hộ. Nhưng đi lại mấy lần vẫn chỉ thấy nó hẹn.
Thế là tôi lại qua một thời kỳ thất nghiệp mới. Châu Âu, châu Á, chiến tranh thế giới cứ dần dần khói lửa mù mịt bốn bên xung quanh. Xứ Đông Dương co lại như con tôm khô, chẳng đào đâu ra việc làm, làng xóm tôi ngày một rạc rày khốn khổ hơn.
Ngôi nhà hương hoả, đáng lẽ ông bà ngoại tôi không được quyền bán, thế mà cũng đem cầm bán rồi.
Ông trưởng Hải buôn lụa mua cái nhà ấy theo lối "cầm đoạn mại”. Nghĩa là số tiền người ta bỏ ra mua không nhiều, cái nhà đáng bạc nghìn chỉ cầm có một trăm bạc, người mua để ngỏ cho mình có cơ chuộc lại. Nhưng người bán cứ cùng túng mãi đi, lãi mẹ đẻ lãi con cộng vào gốc, thì chỉ trăm bạc ấy rồi cũng có thể dễ mất cái nhà giá bạc nghìn.
Lúc ông ngoại tôi ấn ngón tay điểm chỉ vào cái văn tự đoạn mại, ông trưởng Hải cũng chỉ còn đưa thêm có hai chục bạc. Vì nhà tôi đã vay mượn tiêu trước rồi. Thế mà cũng phải biện đồng bạc cho ông lý Sùng đến áp triện chứng nhận, kèm theo bữa nhắm sơ sài mấy bánh đậu phụ, miếng thịt lợn luộc, tôi chạy lên chợ sớm mua vội về. Ôi cái xó rượu ông ngoại tôi ngồi, uống tiếp ông lý trưởng có ơn đến áp triện cho bán nhà, bao nhiêu năm nay tôi vẫn còn nhớ, vào một buổi sáng trắng nhợt, cả nhà tôi im phắc hay tránh đi đâu, không biết, nặng nề như nhà có đám.
Còn ở nhà ngày nào chỉ ăn bám ngày ấy, thật khổ nhục. Công việc vẫn đành là không tìm đâu ra, cũng phải kiếm cách tháo thân đi.
Tôi nảy ra sáng kiến đọc sách đạo Phật. Ngày ấy, tôi không hiểu. Nhưng bây giờ tôi biết đấy chỉ là lối kiếm sống mà thôi. Có thể vì tôi ảnh hưởng của Hồ. Biệt hiệu của Song Hồ là Hương Hát Tiên ông (ông tiên chùa Hương sông Hát), Hồ hay rủ tôi đi vãng cảnh chùa (cũng như đã đi chơi các nhà mõ quê gốc ở Đốc Tín).
Đọc sách Phật rồi, tôi có sáng kiến bàn với các bạn là chúng ta sẽ đi du lịch Trung Nam Bắc bằng cách đi truyền chùa này qua chùa kia, đến đâu thuyết nhà chùa thết ăn một vài bữa rồi lại đi. Cửa Phật, ai ăn mày chẳng được. Khắp nước ta, làng nào cũng có chùa, vậy chúng ta có thể đi bất cứ đâu.
Tôi đến mấy chùa vùng tôi tìm thêm sách Phật. Gặp cái ngạc nhiên đầu tiên là nhiều nhà sư không biết chữ nho, không biết quốc ngữ, không biết kinh kệ hay sự tích phật pháp ra sao. Chẳng qua người ta đi tu vì cảnh nhà, vì đói khổ...
Tôi đến xin sách kinh của hai cái chùa to nhất Hà Nội.
Chùa Quán Sứ và chùa Bà Đá. Tôi lại gặp cái ngạc nhiên nữa. Nhà chùa cũng cánh vế và có quan thầy. Chùa Quán Sứ của quan Thiếu Hà Đông có chùa Hương giàu sụ và nhiều chùa to ở các tỉnh. Chùa Bà Đá của phái tuần phủ Nguyễn Năng Quốc - một ông quan giàu có vợ lai tây lại cứ nhận mình là sư. Cánh này có chùa Trầm và mấy chùa xung quanh lép vế hơn cánh Quán Sứ.
Dù sao, cũng quyết lên đường. Chí giang hồ thúc giục hay sự cùng khổ xui đi, đằng nào cũng thế.
Cùng đi với tôi, có Điều và Tề - hai anh thợ cửi người làng vừa mất việc dệt cửi ở Vạn Phúc. Hai cậu cũng lây cái bệnh phiêu lưu ngông cuồng của tôi. Không đứa nào có đồng xu dính túi. Chúng tôi cũng không lấy đấy làm cái để tâm, chỉ có Điều biết lo hơn. Điều giắt theo trong người con dao cạo chuôi gỗ. “Đến chỗ nào khó kiếm, ta vào trong xóm cạo đầu cho trẻ cũng có thể được miếng” - Điều nghĩ thế.
Ngày lên đường đi vào núi chùa Trầm của chúng tôi bắt đầu một buổi sáng tại cầu Am đầu làng Vạn Phúc. Nhiều bạn thợ dệt trong hội Ái hữu dạo trước ra tiễn chúng tôi. Như là một cuộc đua xe đạp bắt đầu.
Từ Vạn Phúc, qua La Tinh và mấy cánh đồng vào đến xóm Phượng. Chúng tôi hỏi thăm đường đi chùa Hoả Tinh.
Đến gần chợ Trúc thì tối. Nhưng chùa Hoả Tinh không có sư, chỉ có ông tự. Ông tự chùa Hoả Tinh lại điếc. Không cách nào giảng giải được, tôi quát rõ to vào tai ông tự và ra hiệu:
- Nhà chùa thổi cơm cho chúng tôi?
Ông tự đã nghe ra, xuống bếp nấu cho niêu cơm không.
Mỗi đứa chỉ được một bát. Đêm ấy, chúng tôi ngủ trên chùa.
Ông tự thương người nhỡ độ đường, đem cho chiếc chiếu ba thằng đắp. Gần sáng, chúng tôi trỗi dậy, máy nhau đi. Sợ ông tự dậy đòi tiền cơm.
Nửa buổi trên đường vào Trầm, đến một ngôi chùa trên dãy đồi thấp. Chùa này toàn sư nữ. Tôi được các bạn đẩy ra làm tay ăn nói. Tôi cũng nói như tối qua, nhưng thưa gửi dịu dàng cẩn thận:
- Nam mô a di đà Phật, nhà chùa cho chúng tôi ăn mày một bữa.
Sư bà nhớn nhác nhìn ra. Có lẽ tưởng bọn cướp ngày ập đến. Rồi sư bà nói rì rầm như khấn:
- Nam mô a di đà Phật, nhà chùa chúng tôi đây quanh năm phải đi khuyên giáo thập phương. Khách ít lắm, vô duyên lắm, mấy hôm nay cũng đương chạy bữa, chư vị ạ.
Nghe câu nói thiểu não và thấy cung cách nhà sư cù rù như bà già trong làng suốt đời chưa ra khỏi cổng xóm, tôi nghĩ có cất công thuyết phục cũng bằng thừa. Thế là chúng tôi lủi thủi ra.
Ở chùa này đi, giữa ba chúng tôi xảy chuyện hục hặc với nhau. Không biết tại câu chuyện quá đà hay tại nửa buổi chưa biết trông bữa vào đâu, bụng lép mà sinh cáu gắt. Đầu tiên, chúng tôi cãi cọ về chuyện đệ tam, đệ tứ. Khi tranh luận, Điều hay hung hăng và đuối lý thì gây sự. Nó khăng khăng “đệ tứ ra đời sau đệ tam thì đệ tứ là mới hơn. Không đúng thì việc gì người ta phải nghĩ ra đệ tứ. Đệ tam quốc tế cũ rồi”.
Rồi nó kể tội tôi:
- Mày là con nhà tiểu chủ mày theo đệ tam. Tao là thợ, cả đời chỉ có cái thoi dệt giắt đít, tao theo đệ tứ. Tiểu chủ không bao giờ tranh đấu đến đầu đến đũa. Hồi chống thuế, không có chúng tao thày dùi thì mày cũng bỏ rồi. Tao là thằng thợ dệt, tao phải tranh đấu với đứa có khung cửi. Giai cấp công nhân sẽ đánh đổ hết những đứa có khung cửi. Con nhà tiểu chủ là chúa nước đôi. Mày đấy?
Thế rồi, gầm ghè rồi, đấm đá nhau. Thằng Tề bênh tôi. Nhưng hai đứa tôi yếu hơn Điều và đến lúc nó lấy con dao cạo ra, chúng tôi chạy.
Rồi cũng quên ngay trận thụi nhau, một lúc, lại đi với nhau. Bởi vì nhiều lần to tiếng rồi vẫn đi như thường. Nhưng rồi cũng chỉ đi với nhau được vài hôm. Xem chừng khó bởi vì những ba miệng ăn. Ừ muốn về thì chúng mày cứ về đi. Vả chăng, tôi cũng đã nhận ra nếu cả ba thằng dẫn rượu đi chắc không tài nào kiếm ăn nổi. Đấy là lý do chính khiến tan cuộc hào hứng du lịch xuyên Bắc, Trung, Nam chưa được vài ngày.
Một mình tôi đi. Tôi nhịn đói vào chùa Trầm.
Sư ông chùa Trầm mặc áo lụa nâu, người vạm vỡ, nước da bánh mật, khoẻ như tay lực điền, có đôi mắt khoằm khoằm cú vọ. Chẳng ra vẻ sư mô gì.
Sư ông thạo tình hình, thời thế, biết cả chuyện sáng sớm lính Nhật quay mặt về phía đông chào mặt trời và Thiên Hoàng. Sư ông cũng sõi giá gạo, giá ngô chợ Trúc, chợ Đơ. Sư ông chửi cánh chùa Quán Sứ, kể các khoé bịp của các sư chùa Hương.
Mới đến đầu xóm, tôi đã nghe người ở đầu ghế hàng nước bép xép rằng xóm này đến lắm trẻ con giống mặt sư ông. Lạ một cái là những đứa trẻ nào giống sư ông, sư ông đều gọi nó lên chùa cho làm tiểu, bắt chăn trâu cắt cỏ, hầu hạ nhà chùa, như con cháu trong nhà vậy.
Vừa gặp, sư ông đã nói:
- Nhà chùa tôi không cần che mắt thế gian. Bá ngọ những thằng chùa Hương núp đít Phật? Chúng nó bịp đời. Toàn thằng ngô con đĩ đem đổ vàng đổ bạc cho thằng ngô con đĩ.
Dường như nhớ cách lúc tôi còn đứng bán giầy Bata ở Hàng Đào, Hàng Khay, tôi tán tầm phào:
- Bạch sư ông, cái nhẽ đời thì hữu sự tự nhiên hương, nhưng lắm lúc cũng phải quảng cáo một ít cho người ta biết, không nên nhún mình quá trong thời buổi này. Cái người viết quyển Trỏ nẻo chùa Hương là thằng bạn tôi đấy.
Sư ông sừng sộ lên:
- Quyển ấy thì ra cái chó gì! Đây tôi mà quảng cáo khuếch trương ấy à, cứ đếm đầu chùa của tôi cũng bằng mấy chúng nó. Từ chùa Hoả Tinh vào đây, rồi qua Vô Vi Trăm Gian, So, Sở sang chùa Thày... ối? Gấp đôi! Gấp ba!
Nhưng chửi "bọn chùa Hương chúng nó" xong, sư ông lại dịu mặt, nhìn tôi:
- "Sừ" cũng làm cho tôi một quyển nhé. Chùa Bà Đá chúng tôi ở ngoài Hà Nội có nhà máy in.
Sư ông ngỡ tôi là tay học trò tìm nơi tĩnh để nghỉ hè học thi. Nhà chùa có thổi cơm chứa trọ. Chỗ hai bên nhà khách, cạnh chùa hang, đã đóng lên những tầng gác gỗ ngăn trên dưới thành từng cái buồng nho nhỏ. Nhà chùa vẫn cho người tỉnh về thuê ở chơi, hoặc học trò làm chỗ ôn thi, hoặc những người thừa lương yêu am thanh cảnh vắng muốn trốn nợ đời vài ba hôm.
Người ngoài xóm cũng đồn sư ông kiếm bẫm về những ngăn buồng ấy. Cả trai gái đi chơi chùa thuê chiếu, thuê chỗ ở từng buổi, từng ngày, cẩm như nhà "xăm” chứa gái ngoài tỉnh.
Trưa ấy, tôi nhịn vì không tiện bảo nhà chùa cho ăn. Sư ông mời, tôi nói khoác đã ăn sáng ngoài chợ Trúc. Đói một tí, nhưng giữ được thế, và đến chiều, vào bữa có thể thoải mái.
Quả nhiên, cơm chiều có thịt trâu, cả rượu.
Sư ông và tôi ngồi đối ẩm gật gù. Một chú tiểu đứng hầu rượu. Cái cằm lẹm giống bố đáo để. Sư ông cắt nghĩa việc đi tu ăn thịt uống rượu của sư ông.
- Cái tượng trên chùa chẳng qua bằng gỗ bằng đất chứ bằng gì? Tu là tu tại tâm, tâm chính thì đạo thành...
Những diều sư ông trần tình khiến tôi hiểu rõ hơn được câu chuyện người ta xì xào làng này nhiều trẻ con giống sư ông.
Cho tới năm 1958, ngót hai mươi năm sau, tôi theo đoàn làm phim Vợ chồng A Phủ vào chùa Trầm quay một số thước ngoại cảnh. Bao nhiêu năm rồi, sư ông có già đi nhưng vẫn lực lưỡng quắc thước thế. Nhưng không còn nhớ tôi. Hay không muốn nói là có nhớ. Ít lâu sau nghe tin cụ sư phải đi tù.
Tôi ở lại chùa Trầm có đến tuần lễ. Buộc vào câu sư ông đã mời tôi viết sách quảng cáo chùa. Tôi dựa đấy mà ở. Mỗi buổi chiều, ngồi nhắm rượu và "đàm đạo” miên man. Nhưng không phải chỉ có chuyện chùa chiền. Lung tung, chuyện nhà quê kẻ chợ, đủ cả. Vốn vài ba câu sách Phật của tôi chưa phải mở ra. Xem chừng sư ông cũng không thích chuyện phật pháp mấy.
Có hôm tôi đi biệt cả ngày. Tôi phân vân chưa biết viết thế nào. Ngồi trên đồi So trông xuống mà lo. Nhưng rồi tôi cũng viết xong. Tôi đưa sư ông mấy trang viết bút chì, đầu đề là Qua dòng sông Hát. Đấy là sự tích các chùa dọc theo bờ sông Hát mà sư ông đã kể. Tôi thêm mấy đoạn tả phong cảnh, mỗi chỗ chêm mươi câu thơ lục bát.
Thế là xong. Có thể kể đấy cũng như truyện kiếm hiệp Tráng sĩ rừng Thông, những sáng tác câu cơm đầu tay cầu may của tôi. Tôi không còn cớ gì ở lại. Sư ông cũng bảo sư ông sắp có việc ra chùa Bà Đá. Sư ông đã nói giáo từ hôm kia hôm qua. Có thể nhà chùa đuổi khéo tôi.
Tôi cũng tỏ vẻ cứng. Tôi thiết gì ở đây? Tôi kể tôi còn vãng vài cảnh chùa nữa. Tôi nói:
- Nhờ sư ông giới thiệu tôi vào chùa Vô Vi.
Sư ông cười khanh khách, khoái chí:
- Chùa Vô Vi cũng một tay mỗ đèn nhang, đấy không có sư.
- Thế thì chùa Trăm Gian.
Sư ông trừng mắt:
- "Sừ" vào Trăm Gian cứ vào, chứ "sừ" nói ở Trầm vào thì các bà lão trong ấy ghét đấy. Mấy con mẹ trốn chúa lộn chồng, tôi khinh lắm.
Tôi vào chùa Trăm Gian.
Tôi tiếp tục cuộc phiêu lưu của tôi. Tuy nhiên cũng phấp phỏng vì lời sư ông doạ.
Chuyến lang thang này thực tên là đi ăn mày nhà chùa. Nhưng cũng để lại cho tôi những kỷ niệm mà thời gian dù mài tròn đi thế nào, vẫn còn nhớ.
Nơi tưởng đáng lo thì lại đáng nhớ. Chùa Trăm Gian, một ngôi chùa cổ trên đồi, thấp thoáng trong những bóng cây thông già. Đôi lúc, gió thổi qua, làn thông lại thở dài.
Cô tiểu nữ quảy nước ngoài giếng, bước ra cổng tán nhà hậu, đi thanh thản. Dưới cái khăn vuông nâu, đôi mắt to và trong. Cái nhìn quyến luyến như ngừng lại.
Mỗi khi chiều xuống toả lưa thưa trong cành thông lại nghe tiếng chuông thu không. Nện một vồ rồi cô tiểu buông thõng tay, đứng nhìn thành chuông, niệm rì rào. Rồi chuông dồn những tiếng cuối, hoà tiếng tụng kinh, bóng người và bóng chuông. Tưởng như lúc ấy, người con gái đi tu kia, buồn quá chỉ còn dập đầu chết bên chuông hay là chợt tỉnh, dương xăm xăm xuống bậc tháp, theo tiếng chuông hoàng hôn đưa nỗi vui buồn đến trên mỗi mái nhà trong đồi. Cô tiểu bỏ chùa xuống với cuộc đời hay xuống với tôi chăng. Nhưng cũng chỉ có đôi mắt thế thôi.
Buổi tối, dưới nhà hậu, vang tiếng giã gạo thình thịch. Tôi nhòm trộm khe cánh cửa, thấy in bóng lên vách, hai cô tiểu đứng cối, cái đầu trọc trắng hếu nhấp nhô bên chiếc quang đèn dầu.
Tôi phải ngủ biệt tịch trên chùa chính, đắp chiếu nằm trong ruột bệ ông hộ pháp Thiện. Hôm đầu còn ẩm mùi đất mốc, sau chỗ nằm quen, có hơi người ấm như cái ổ.
Đêm tháng mười, trời rét buốt sắc như thuỷ tinh. Thế mà vẫn thoảng đâu đưa đến mùi hoa sói cúc vạn thọ, mùi hương.
Không biết mùi thơm bốc ra từ các bát nhang trên kia hay từ ngoài ánh trăng vào..
Có đêm thức dậy, trăng trong ngần qua cửa ngăn, lô nhô những đầu tượng, tôi có cảm tưởng chùa đông người hẳn lên.
Nhưng lại chợt lạnh ngắt. Tại trăng sáng, tại tiếng chày giã gạo của các cô sư nữ hay tại chiều nào tôi cũng đứng đón nhìn cô tiểu ra gánh nước rồi lại tương tư vụng cô tiểu lúc thỉnh chuông mà bâng khuâng không ngủ được.
Tôi đến chùa như khách vãng cảnh. Sư bà cũng ngỡ tôi là cậu học trò ngoài tỉnh. Sư bà gọi tôi bằng "cậu". Sư bà kể chuyện ngày trước còn ở nhà, sư bà cũng có cậu em trạc tuổi tôi nho nhã dáng học trò như tôi, "cậu cháu vừa đỗ giáo học”.
Một hôm khác, sư bà thở dài:
- Năm mô a di đà Phật, rồi có người nó hãm hại, vu cho cậu cháu đi “hội kín”. Phải toà áo đỏ bắt đi đày Côn Lôn. Đã mười năm rồi, chẳng biết có còn sống không.
Rồi sư bà "nam mô phật" liên tiếp, tiếng thở dài chìm xuống.
Tôi hiểu được nỗi sư bà mến tôi, để tôi quanh quẩn ở chùa như người nhà. Ấy chỉ vì sư bà nhớ thương người thân.
Suốt ngày tôi đi vơ vẩn ngoài đồng, trên đồi, chiều về, nhà chùa bưng lên cái mâm gỗ cơm gạo đỏ, muối vừng, đậu rán dầu lạc chấm tương và bát canh dưa nấu lạc. Ngày rằm được ăn oản chuối. Cứ hai buổi chiều ngày đầu tháng giữa tháng nhà chùa phải thắp hương, thật khó nhọc. Chiều mười tư tôi cũng xuống nhà hậu lấy hương đi cắm. Chùa Trăm Gian có đến mấy trăm bát hương phải cắm. Mỗi cửa một bát một nén, một trăm gian khuất dọc hai bên hành lang, trên chùa chính, dưới nhà tổ, chỗ thờ hậu, các tháp ngoài vườn. Các cô tiểu phải rảo bước cắm hương mới kịp lên thỉnh chuông chiều.
Ở chùa hồi này chỉ còn có sư bà với hai cô tiểu - sư bác và một tiểu đi khuyên giáo xa. Mỗi chuyến quang gánh đi thiên hạ xin ăn cũng biền biệt hàng tháng. Suốt ngày, sư bà và hai cô tiểu đi làm đồng, chiều về chưa vào bữa đã phải chạy lên đèn hương rồi vào tụng kinh, ra thỉnh chuông dai dẳng hàng giờ.
Ở chùa Trăm Gian, tuy được ăn uống no đủ, nhưng tôi cũng định khi nào sư bà không cho ở nữa thì tôi trở về Vạn Phúc. Không thể đi tiếp được nữa. Điều ngạc nhiên, tôi nhận ra sau cùng là không phải dễ chỗ nào cũng có chùa Trầm hay chùa Trăm Gian cho ta ăn. Kiếm ăn các chùa nào có dễ?
Thằng Điều ở Vạn Phúc lại trở lại cuộc đi với tôi và chúng tôi cùng nấn ná ở Trăm Gian. Nếu không có một việc bất ngờ xảy ra, chắc còn lần khân ở đấy.
Một hôm, lý trưởng, phó lý trong làng đem tuần ra hỏi nhà chùa xem có khách vãng lai đến ở không. Chúng tôi đưa thẻ thân cho bọn chức dịch.
Phó lý hất tay không xem thẻ, hạch:
- Các quan nhà binh sắp về "ma nớp" tập trận, người lạ mặt phải đi ngay bây giờ?
Nhưng lý trưởng tỏ ra kỹ lưỡng công việc hơn phó lý, lão xem thẻ thân rồi vặn:
- Chúng mày quê ở ngoài phủ loài vào đây làm gì? Ma cà bông ma cà cúi hả?
- Chúng tôi đi chơi.
Thế là ma cà bông rồi. Đem ra điếm, trói lại giải lên huyện.
Chúng tôi phải ra điếm thôn Tiên Lữ. Nhưng trai tuần không trói. Chúng tôi chỉ phải ngồi chịu rét, làm mồi cho muỗi đói suốt đêm. Hôm sau, bị giải lên huyện Chương Mỹ.
Từ Tiên Lữ ra, đã thấy lố nhố từng tốp lính khố đỏ, lính da đen đi cùng đàn lừa và la kéo những khẩu đại bác xủng xoảng vào con đường đồi gồ ghề đất bùn như pha son. A, lính đi tập trận. Sau những cái tường đá ong nhợt nhạt, người làng đứng lặng lẽ nhìn ra. Đi với mỗi đám lính, có một ả me Tây, gánh hai thùng nặng chĩu bánh mì xúc xích, giăm bông, các thứ kẹo, chuối trứng và bia, rượu. Mỗi me lại mướn hai ba người gánh theo các đồ ăn uống như thế. Có me thuê hẳn một xe tay lùn "Ô mích" cái mặt bự phấn và cặp môi đỏ chót cao vắt vẻo ngồi trên mui. Đó là những me Tây được nhà binh cho thầu bán thức ăn uống cho các quan làm "ma nớp" đánh trận giả.
Những cảnh xe thức ăn uống và lính tráng đủng đỉnh như thế, tôi đã quen mắt từ hơn mười năm trước, khi còn học trường Yên Phụ. Buổi sáng, tôi thường đứng xem lính trong thành ra tập thổi kèn "bú dích" và tập trận giả ở đường Cổ Ngư bên Hồ Tây. Cạnh mỗi đám lính bao giờ cũng phấp phới xanh đỏ mấy me Tây quang gánh và xe cộ bán bánh, bia rượu... Đấy gần trại, có lần lính khuân cả bàn ghế ra bãi bày các thứ ăn uống. Các quan Tây mề đay óng ánh, lon vàng choé, uống rượu đỏ lự mặt, ngồi quát tháo và ra quất roi, đá đít đán lính tập trận rên bờ hồ.
Nước Pháp đã thua trận bên châu Âu. Toàn quyền Đờ cu đã mở cửa Đông Dương rước Nhật vào. Nước cờ đương đổi, thế mà cảnh tập trận của lính Tây vẫn ngềnh ngàng bấy nhiêu súng ống, vẫn các me quẩy thức ăn uống đi theo. Chẳng khác ngày trước.
Anh tuần đinh nói:
- Nhân thể tớ ra chợ Đơ, chứ hơi đâu giải người lên huyện!
Chúng tôi đi với anh ta như người trong làng ra tỉnh.
Đến thị xã Hà Đông, anh bảo:
- Bây giờ các đằng ấy đi đâu thì đi!
Thì ra phó lý thôn Tiên Lữ và lý trưởng khác cánh nhau, đâm phiền người ta. Thế cũng là thật tan cuộc du lịch phiêu lưu. Tôi trở về Nghĩa Đô.
Mùa nước to, trai tráng dương bị các trương phiên, khán thủ đốc đi hộ đê sông Cái. Làng tôi canh điếm nước trên địa phận Tú Tổng. Tôi có bằng “xécvica”(7) nhưng vì chưa sửa được cái lễ mâm xôi con gà vào hộ tư văn – có chân tư văn được mỗi năm hai lần ra văn chỉ chia phần dự lễ đức Khổng Tử. Vẫn bạch đinh, cho nên phải chịu phu phen tạp dịch và tuần phiên cắt lượt đi đê như trai làng chân trắng.
Cảnh canh đê, trống giục trống dồn, năm nào cũng thế.
Chánh tổng cưỡi ngựa dong nhan trên đê cao. Lý trưởng xách batoong bước lừ lừ, đến điếm là giơ gậy lên hét.
Buổi tối, cái đèn ba dây chong giữa điếm. Các cụ chức việc mò ra đánh tổ tôm. Đã cho phu canh gác, thấy quan phủ Hoài hay Tây lục lộ Hà Nội về khám thì tang vật tổ tôm hay tài bàn, xóc đĩa đều biến mất. Trong điếm chỉ có khay nước để các cụ thức nhắp canh đê. Ở bãi cỏ sườn đê, phu các làng ngủ lăn lóc.
Các xóm dưới bãi chạy nước lên, người lớn và gà lợn, trẻ con rúc ráy bên vệ vỏ. Ngày nào cũng có người chết đuối.
Nước lớn, củi rều trôi về nhiều. Những người tiếc của trời đã chạy nước lên lại nhảo xuống bãi, bơi ra vớt củi, có người bị cuốn đi.
Sông Hồng chướng đỏ như pha máu, cuồn cuộn giữa hai bên làng mạc đợi tai vạ đến. Trống ngũ liên, tù và nổi sùng sục giữa đêm, rợn gáy.
Tôi viết cái truyện ngắn Nước lên, hôm đi hộ đê ở Tứ Tổng về. Tôi tả quang cảnh bi thảm của một năm sông Hồng nước lớn. Truyện ngắn này tôi gửi tuần báo Hà Nội Tân Văn.
Về sau, chị Hằng Phương kể cho biết truyện tôi viết vào giấy lèm nhèm, chữ tôi lại gẫy nét, khó xem. Chị tình cờ lấy trong đám truyện loại lên đọc và thấy đáng chú ý. Đấy là truyện ngắn đầu tiên của tôi in trên báo được trả tiền nhuận bút. Hồi ấy, không phải cứ có bài đăng báo thì toà báo trả tiền người viết như thể lệ bây giờ. Toà báo chỉ trả tiền người nào được mời, còn như mình gửi bài "lai cảo" thì người ta đăng đến bao nhiêu bài cũng thế thôi. Bởi vì đấy là anh gửi cho báo chứ người ta có mời anh viết đâu! Bởi vậy, đồng tiền báo Hà Nội Tân văn "mở hàng" cho tôi vào nghề và những quyển tiểu thuyết Đỏ và đen của Stăngđan, tiểu thuyết của Panai Istrati mà anh Vũ Ngọc Phan khuyên tôi đọc, đó là cái duyên quyến tôi vào nghề văn.
Tôi không thể so sánh và tưởng tượng ra giá một bài báo với công sá những công việc đã làm bấy lâu để kiếm sống.
Hãng giày Bata mỗi tháng trả lương tôi sáu đồng. Bấy giờ, một cái truyện ngắn tôi được mười đồng, lại có băng quấn quanh tờ giấy bạc, ngoài để tên ông... Ôi, lịch sự? Mà một tháng, tôi có thể viết mấy cái truyện ngắn! Điếc không sợ súng, tôi cứ lia tràn. Tôi khoắng một đêm xong cái truyện ngắn, là thường Tôi vào nghề văn từ truyện ngắn Nước lên - nếu có thể nói truyện đăng được trả tiền, là vào nghề. Rồi tôi gửi liên tiếp cho báo Hà Nội Tân văn những truyện ngắn Bụi ô tô, Một đêm sáng trăng suông, Bệnh già, những truyện thiếu nhi, Trê và Cóc, ông Trạng Chuối và một cái kịch loài vật. Tôi thành cộng tác viên của báo được trả tiền bài. Nhưng môi lần đến toà báo, tôi vẫn phải vòng quanh phố Hàng Buồm không biết bao nhiêu lần mới mạnh bạo bước vào cửa nhà in Trung Bắc, nơi hàng ngày anh Vũ Ngọc Phan đến làm việc toà soạn.
Cũng hồi này, tôi gửi cho Tự Lực văn đoàn truyện ngắn Con gà ri. Truyện ngắn này đầu tiên tên là Mê gái đăng số 1 tuần báo Chủ Nhật của văn đoàn ấy.
Một hôm, Đinh Hùng và Huyền Kiêu dẫn tôi đến làm quen với toà báo Chủ Nhật và nhà xuất bản Đời Nay.
Khái Hưng reo ầm lên, gọi hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, nhà văn Thạch Lam và nhiều người xung quanh đến:
- Tôi đã bảo mà? Tác giả truyện ngắn này còn rất trẻ! Rất trẻ!
Tôi cảm động run cả tay, khi bắt tay mọi người. Nhưng ông Khái Hưng chỉ khen tôi mà không trả tôi đồng nào, cũng chẳng cho tôi một tờ báo biếu? Vẫn cái lệ toà báo chỉ trả tiền và biếu báo người được mời viết.
Tôi đến với nghề văn đại khái như vậy. Tôi không có cảm tưởng nào mới lạ hơn khi tôi nghĩ lại những nghề bán giày làm kế toán, đánh máy chữ, coi kho hay dạy trẻ học và những khi thất nghiệp với những mong ước của một người lương thiện muốn có một công việc làm.
Tôi bắt đầu làm quen với nhiều người trong nghề mới của tôi Nhưng không dễ quen được đâu. Cánh Tự Lực văn đoàn thì ăn mảnh. Vài người tìm cách chơi với họ "thấy người sang bắt quàng làm họ", ra vẻ hí hửng. Những ông kiểu như ông Lưu Thần thuộc đám trác táng cao đạo, cũng không để mắt đến tôi.
Bọn lau nhau chúng tôi thì khá đông, có anh đã viết, có anh chưa viết và những anh không biết viết chuyên điếu đóm chạy hiệu để các đàn anh sai bảo. Mỗi đứa - có một biệt hiệu lố lăng: Cát Noát, Zannine Lệ Thuỷ, hoặc tên bố mẹ đặt cho lại đem lộn ngược lên cho lạ kiểu, như Thái Kim Điên, Thái Đình Gia (Đinh Gia Thái). Tôi ở trong đám đó.
Nghe anh em nói uống một chén nước mắm rồi uống rượu, không bao giờ say. Tôi cũng uống hẳn một chén nước mắm. Nhưng chỉ nhấp một ngụm rượu đã say đừ ra như mọi khi. Có khi đi đánh nhau lối đòn hội chợ nữa. Hồi ấy, làng văn hay đánh nhau lắm. Thiết Can viết một bài trên báo Hà Nội Tân văn chê Nguyễn Doãn Vượng. Vượng đón Thiết Can đánh Thiết Can ngay trước cửa nhà in Trung Bắc giữa phố Hàng Buồm, Nguyễn Bính đương in truyện ký Ngậm miệng trên báo Tiểu thuyết thứ năm. Thượng Sĩ viết phê bình, đọc sách cho báo Tin Mới, nhắn Nguyễn Bính: không nộp tiền "mãi lộ" sẽ phết cho một bài chửi. Nguyễn Bính nhắn lại: chửi thì đánh. Rồi đánh thật. Tôi cũng hung hăng trong đám đánh hôi ấy.
Những cái vỡ lòng trong nghề văn cũng là những bông lông la đà của đám này.
Tôi quen Đinh Hùng và Huyền Kiêu ở nhà xuất bản Tân Việt. Kim Hà dắt tôi đến nhà xuất bản ấy ở phố Hàng Cót.
Nhà xuất bản ở trong Sài Gòn mới ra làm ăn ngoài này. Ông Lê Văn Văng chủ nhà xuất bản đương cắm cờ chiêu mộ đám trẻ. Nhà xuất bản đã ra quyển Đám ma tôi của Hoài Điệp (Đinh Hùng) và Những đêm sầu của linh hồn của Phiêu Linh (Nguyễn Đức Chính), hai ngòi bút mới nhoi ra trong đám trẻ.
Chúng tôi xúm đến nhà xuất bản ấy, coi như nhà mình. Các bạn chữ tốt như Huyền Kiêu thì viết thơ của mình lên những tờ giấy hồng điều treo đầy tường. Các bạn hay chim gái như Đinh Hùng, Nguyễn Bính thì gạ gẫm ve vãn cô em gái chủ nhà xuất bản đương học trường đạo La Coócđe trên Quần Ngựa.
Một hôm, trước cả bọn chúng tôi, ông Tân Việt cao hứng, tuyên bố.
- Tôi sẽ cho hai anh này đi học đến đỗ “bắc"(8).
Hai anh này là tôi và Kim Hà, Kim Hà còn dốt hơn tôi. Anh không hề được cắp sách đến trường. Hai chúng tôi vui sướng và vui lây cả đến Nam Cao - khi này, Nam Cao đương là ông giáo trường tư Công Thanh ở làng Thuỵ. Ba chúng tôi đã bao lần ngồi ghế đá vườn hoa Écke cạnh chùa Quán Thánh trông ra Hồ Tây ban đêm. Gió hồ cuối thu thổi vào rào rạt như nguồn cơn của lòng người. Ngỡ như ngọn gió đương thổi cái tương lai tốt đẹp đến cho mình.
Tôi biết Kim Hà từ hồi "Bình dân". Anh chính trị phạm Giang Đức Cường thợ ảnh báo Tin Tức giới thiệu tôi với Kim Hà trong cuộc mít tinh ở nhà Đấu Xảo ngày 1 tháng 5 năm 1938. Anh Cường nói Kim Hà viết văn. Kim Hà hăng hái đi mít tinh trong đoàn thất nghiệp như tôi. Rồi quen Kim Hà tôi cũng không thấy anh viết văn. Suốt ngày, Kim Hà gò cổ gõ trang kim. Nhà anh có nghề làm vàng mã.
Thế rồi, một hôm anh đưa cho tôi quyển tiểu thuyết anh viết dày đến ba bốn tập giấy kẻ. Truyện tên là Cái nhà gạch. Chữ to tướng. Bởi mắt anh toét lèm nhèm, lại toàn viết đêm.
Cái nhà gạch là chuyện Kim Hà kể sự tích mẹ anh ký cóp, xoay xoả để làm nên cái nhà gạch hai gian mà anh đương ở đấy.
Ít lâu sau, Kim Hà đến bảo tôi:
- Cái nhà gạch của tao được giải thưởng Tự Lực văn đoàn.
Kim Hà mở tờ tuần báo Ngày nay đăng tin giải thưởng văn chương hàng năm của Tự Lực văn đoàn cho tôi xem. Kim Hà được giải thưởng thật. Mà giải nhất. Đọc báo xong, tôi cũng chưa tin hẳn. Phải đến hôm Kim Hà đưa tôi ra nhà Mạnh Phú Tư là người có cuốn tiểu thuyết Làm lẽ cũng được giải thưởng. Mạnh Phú Tư giỏi tiếng Pháp, viết văn bằng đánh máy, ở trong cái ngõ gần Cửa Nam một mình một buồng, mặc áo ngủ láng đen lưng thêu con rồng vàng, thế mà chỉ được giải ba. Bấy giờ tôi mới thật tin, nhưng vẫn lạ lắm.
Quyển Cái nhà gạch của Kim Hà viết sự thực, sự thực mạnh mẽ đến nỗi người đọc không thấy chữ nữa, chỉ gặp xù xì toàn cuộc sống. Nào Kim Hà gò trang kim. Nào Kim Hà bị mẹ chửi, phải nhịn đói. Nào Kim Hà đi chơi nhà thổ, mắc bệnh lậu, mẹ lại chửi thế nào... Cũng phải, Kim Hà làm gì có chữ. Kim Hà chỉ có đời thực của mình thôi.
Kim Hà được lĩnh trăm bạc tiền thưởng. Trăm bạc Đông Dương hồi ấy còn to lắm. Khoái quá, một độ anh vứt cả đục trang kim vàng mã. Chơi bời thế nào mà lại mắc bệnh lậu lần nữa, người cứ ốm rê đi như cái tã.
Tiểu thuyết Cái nhà gạch, nhà xuất bản Đời nay bảo để nhà văn Thạch Lam chữa rồi in. Nhưng cả mấy năm cũng chẳng thấy in. Anh đến đòi bản thảo mấy lần, không được.
Anh không đến nữa. Nhưng anh cũng không bực mình mà lại có một bằng lòng giản dị. Cũng như công mình đục trang kim bán cho hàng mã, đã lấy được tiền rồi thì thôi. Anh viết quyển khác.
Anh viết Tiếng còi nhà máy, Nhà xuất bản Tân Việt in.
Tiếng còi nhà máy, anh ngồi ở nhà nghe còi tầm ở Nhà máy thuộc Da, nhà máy Bia ô Mền, nhà La Pho rồi anh tưởng tượng ra truyện. Cái tài tự nhiên của Kim Hà đã trút tất cả cho Cái nhà gạch, quyển này tuy được in nhưng không còn gì nữa. Chủ nhà xuất bản Tân Việt trả Kim Hà mỗi tháng mười đồng. Anh cũng lại bằng lòng. Anh ngỡ Tân Việt bắt đầu nuôi anh lương t