CHƯƠNG 13-16 Vĩnh biệt Alice
CHƯƠNG 13-16
vĩnh biệt alice
gày hôm sau, trong bữa ăn sang, người ta thấy ghế của Tácdăng bỏ trống. Stroong lấy làm ngạc nhiên. Bởi vì hôm trước, ngài Canđuen đã hẹn gặp cô để cùng ăn sáng. Cô vừa ngồi vào ghế. Tơran đã bước đến trò chuyện rất niềm nở. Có lẽ Tơran đang vui nên mới tỏ ra dễ mến đến thế. Khi Tơran đi khỏi, Stroong vẫn băn khoăn không hiểu vì sao Tơran lại thay đổi tính tình nhanh như vậy.
Ngày hôm ấy, Stroong cảm thấy dài lê thê. Bởi vì cô thấy thiếu ngài Canđuen - Một người mà cô có cảm tình ngay từ phút đầu gặp gỡ. Canđuen kể cho cô nghe về những đất nước mà chàng đã đặt chân tới. Chàng biết rất nhiều dân tộc, nhiều tập quán, phong tục ở từng vùng đất và đặc biệt là những loài thú rừng châu Phi. Nhưng, nếu như đối với các loài thú hoang dã, chàng tỏ ra rất hiểu chúng, thì đối với con người, chàng đánh giá có phần khe khắt, thậm chí thiếu công bằng.
Buổi chiều, Tơran đến chơi, trò chuyện. Stroong cảm thấy vui vui. Ít nhất thì Tơran cũng xua tan tâm trạng buồn chán của cô. Tuy vậy cứ mỗi lúc cô lại cảm thấy nóng ruột. Đã chiều rồi mà Canđuen vẫn hoàn toàn vắng bong. Cô có linh cảm rằng, sự vắng mặt của chàng có liên quan tới câu chuyện bóng đen rơi từ trên boong tàu xuống biển tối qua. Cô thổ lộ nỗi lo lắng của mình với Tơran và hỏi Tơran có thấy ngài Canđuen ở đâu không.
- Từ hôm qua tới giờ tôi không thấy Canđuen ở đâu cả - Stroong nói - Chưa bao giờ anh ấy bỏ ăn sang. Vậy mà...
- Tôi cũng tiếp xúc với Canđuen chỉ ít ngày - Tơran nói - nhưng tôi cảm thấy đấy là một chàng trai dễ mến. Có thể anh ấy khó chịu trong người nên nằm nghỉ trong buồng ngủ của mình đấy thôi. Điều đó cũng chẳng có gì lạ.
- Không phải, - Cô gái phản đối - Ốm đau là chuyện thường tình. Nhưng không hiểu sao tôi có cảm giác là Canđuen gặp chuyện không lành. Hình như anh ấy không còn ở trên tàu này nữa.
Tơran bật cười.
- Lạy Chúa! Thưa Tiểu thư Stroong! - Gã nói - Không ở trên tàu thì còn ở đâu nữa. Ngay cả đất liền mà bao nhiêu ngày chúng ta còn không trông thấy, huồng hồ...
- Tất nhiên tôi không phải là người dày dạn, từng trải - Cô gái nói - Nhưng tôi không thể ngồi yên được nữa. Tôi thử đi loanh quanh xem có thấy Can đuen không - Cô gái nói rồi gọi luôn nhân viên trên tàu lúc đó đang đi tới.
"Có trời mới tìm được, con ngốc!". Tơran nghĩ bụng. Nhưng hắn lại mở miệng, ra vẻ đồng tình:
- Có lẽ thế là tốt hơn cả.
- Anh hãy đi tìm ngài Canđuen hộ tôi vơi! - Cô gái nói với người nhân viên trên tàu - Hãy nói với Canđuen rằng bạn bè đang lo cho ông ấy đấy.
- Ông Canđuen mà nghe thấy thế thì cảm động vô cùng - Tơran cười dí dỏm.
- Tôi nghĩ rằng đó là một người đàn ông tuyệt vời - Cô gái không cần dấu diếm - Bà mẹ tôi rất mê Canđuen. Anh ta thuộc loại đàn ông mà có mặt nơi nào là người ta có cảm giác yên tâm vì tìm được nơi che chở trước mọi tai ương, bất trắc.
Một lát sau, người nhân viên trên tàu quay lại thông báo rằng Canđuen không có trong buồng ngủ.
- Tôi không thấy ông ta đâu cả, thưa tiểu thư - Anh ta nói - Hình như đêm qua giường của ông ấy bỏ trống, không có ai nằm. Tôi nghĩ, tốt nhất là báo cho thuyền trưởng biết.
- Tất nhiên rồi, - cô gái gật đầu tán thành - Tôi sẽ cùng bác đến gặp thuyền trưởng. Tôi tin rằng có chuyện dữ đấy. Hình như tôi không nhìn nhầm.
Stroong và người nhân viên ấy đứng trước mặt thuyền trưởng một lát. Viên thuyền trưởng im lặng lắng nghe cô gái nói. Ông ta có vẻ bình tĩnh. Nhưng đến khi người bồi tàu nói rằng không tìm thấy Canđuen đâu cả thì ông có vẻ hoảng hốt.
- Cô chắc chắn rằng đêm qua nhìn thấy có cái gì rơi xuống biển? - Thuyền trưởng hỏi.
- Bây giờ thì tôi không nghi ngờ gì nữa - Cô gái trả lời quả quyết - Tôi không dám chắc đó là một thân người. Vì tôi không nghe thấy tiếng kêu cứu. Có thể đó chỉ là một gói đồ cũ, một chiếc áo khoác chẳng hạn. Nhưng nếu như ông Canđuen không có mặt trên tàu thì tôi ngờ rằng cái mà tôi nhìn thấy rơi xuống biển chính là Canđuen.
Viên thuyền trưởng lập tức ra lệnh kiểm tra toàn bộ con tàu. Ông nhắc các thủy thủ lục soát mọi góc tối, kể cả những khe hở trên boong. Stroong trở về buồng ngủ của mình để chờ đội kiểm tra tới làm việc. Thuyền trưởng lại gặp cô và đặt ra rất nhiều câu hỏi về ngài Canđuen. Nhưng cô chẳng biết gì hơn ngoài sự quen biết ngắn ngủi của cô với Tácdăng trên tàu. Tuy vậy, trong khi trả lời viên thuyền trưởng, cô chợt nhận ra rằng Canđuen chưa bao giờ kể cho cô nghe về quá khứ của mình. Cô chỉ được biết đại khái là anh ra đời ở một vùng châu Phi nào đó nhưng lại được học hành chút ít ở Pari. Cô cũng chợt nhớ ra rằng Canđuen tuy mang quốc tịch Anh nhưng lại nói tiếng mẹ đẻ của mình pha trộn rất nhiều âm Pháp.
- Ngài Canđuen có nói cho cô biết về những người thù ghét ông ấy không? - Thuyền trưởng hỏi.
- Chưa bao giờ - Cô gái lắc đầu.
- Trong số hành khách trên tàu, ngài Canđuen không quen biết một ai ư?
- Gần như thế - Cô gái trả lời - Nói đúng ra là anh ấy có biết một vài người do vô tình đi tới và tôi giới thiệu để anh ấy biết theo phép lịch sự thôi.
- Cô có cho rằng ngài Canđuen đã uống rượu quá chén không?
- Tôi không biết chắc chắn. Nhưng khoảng nửa giờ đồng hồ trước khi tôi trông thấy vật rơi xuống biển thì Canđuen hoàn toàn không uống tí gì. Bởi vì suốt mấy tiếng trước đó, chúng tôi đã ngồi với nhau.
- Thật là kỳ quặc! - Thuyền trưởng thở dài - Canđuen bước lên tàu hoàn toàn khỏe mạnh, không có triệu chúng gì của một người mắc bệnh thần kinh. Mà nếu như ông ta có chứng bệnh hay bị chóng mặt thì cũng khó lòng mà ngã qua hàng lan can sắt. Chả lẽ ông ta lại leo qua đó. Cô Stroong ạ! Nếu như ông ta không còn ở trên tàu thì có lẽ ông ta đã bị vất xuống biển. Điều đáng ngờ là cô lại không nghe thấy một tiếng kêu cứu nào. Hay là ông ta đã bị giết chết rồi bị quăng xuống biển? Tức là trên con tàu này, trước đó đã có một vụ giết người!
Stroong khẽ rùng mình.
Một giờ sau, thủy thủ trưởng bước vào báo cáo kết quả kiểm tra.
- Ông Canđuen thực sự không còn ở trên tàu, thưa thuyền trưởng! - Thủy thủ trưởng báo cáo.
- Tôi sợ rằng đây không phải là một vụ tai nạn - Viên thuyền trưởng nhận định - Tôi ra lệnh kiểm tra hành lý của ông Canđuen. Chúng ta phải xác định xem đây là một vụ giết người hay là một vụ tự tử.
- Tuân lệnh ngài! - Thủy thủ trưởng nhận lệnh rồi vội vã quay gót giày.
Hadel Stroong vô cùng đau khổ. Suốt hai ngày sau, cô không ra khỏi buồng của mình. Tới khi cô bước ra ngoài, vòng mắt cô thâm quầng, da dẻ xám ngắt. Trong những lúc nhắm mắt chập chờn và cả những khi cô ngồi đọc sách, cô vẫn thấy trước mặt mình một vật gì đó lặng lẽ rơi xuống biển như một bóng ma.
Một hôm, Tơran đột ngột bước tới, có ý chia buồn với cô.
- Thật là kinh khủng, cô Stroong ạ! - Tơran nói - Ngay tôi cũng bị ám ảnh về chuyện buồn ấy.
- Tôi nghĩ rằng, Canđuen sẽ được cứu sống nếu như lúc đó tôi kêu lên, báo cho các thủy thủ biết.
- Cô không nên tự giày vò mình như thế, Stroong ạ - Tơran nói - Đấy không phải là lỗi của cô. Trong trường hợp ấy, bất kỳ người nào cũng sẽ hành động như cô cả thôi. Nếu như cô có kêu cứu thì lúc đó cũng không thay đổi được tình thế. Rất ít người nghĩ rằng đó là một thân người rơi xuống biển. Cô biết không? Nhiều người nghe cô nói đã cho rằng đó chỉ là một ảo ảnh trong mắt cô thôi. CÒn nếu như đó không phải là ảo giác, nếu như cô báo động thì cũng muộn rồi. Bởi vì khi người ta dừng được con tàu, thả thuyền cao su xuống thì cũng phải chèo trở ngược lại vài hải lý và rất khó xác định được vị trí đã xảy ra thảm kịch. Cô đừng ân hận nữa! Cô đã nghĩ ngợi về chuyện này nhiều hơn cánh đàn ông chúng tôi. Mọi người đều thừa nhận rằng, cô là người duy nhất trên tàu phát hiện ra thảm kịch và yêu cầu thuyền trưởng tiến hành những biện pháp cần thiết.
Stroong thầm cám ơn Tơran vì những lời an ủi có vẻ chân tình. Từ hôm đó, Tơran thường xuyên thăm hỏi, trò chuyện với hai mẹ con Stroong. Vì vậy Tơran đã phát hiện ra rằng: Cô gái xinh đẹp duyên dáng của vùng Bantimo này là người thừa kế một gia tài kếch xù và có rât nhiều cổ phần kinh doanh ở Mỹ. Nếu Tơran cưới được cô thì thật là một cuộc hôn nhân lý tưởng. Cứ nghĩ tới điều ấy là Tơran phải nén tiếng thở dài. Hắn càng ngày càng tỏ ra là một gã đàn ông phong lưu, lịch sự, nhất làkhi có mặt hai mẹ con Hadel Stroong. Thoạt đầu hắn định lên bờ khi co tàu dừng lại ở hải cảng đầu tiên. Bởi vì hắn đã có được hai tài liệu quý đoạt lại từ Tác dăng. Chuyến đi đã thành công. Không còn lý do gì để hắn phải lưu lại trên tàu nữa. Nhưng bây giờ, những mơ ước lớn đã đảo lộn kế hoạch của hắn. Một gia tài và nhiều cổ phần ở nước Mỹ đâu phải chuyện thường! Sau khi tiêu sạch mấy triệu đôla, cuộc đời lại mỉm cười với hắn. Hắn quyết định tiếp tục cuộc hành trình tới Capơtun để lo liệu các thủ tục xin cư trú dài hạn.
Hadel Stroong cho hắn biết rằng, mẹ con cô sẽ đến Capơtun thăm người cậu ruột. Cô cũng chưa quyết định được là sẽ ở đó bao lâu. Có thể cuộc thăm viếng này sẽ kéo dài vài tháng. Cô cảm thấy vui khi biết rằng Tơran cũng đến đó và ở rất gần nhà ông cậu mình.
- Tôi hy vọng rằng chúng ta lại gặp nhau ở đó trong không khí bạn bè - Stroong nói - Anh phải đến thăm chúng tôi, càng sớm càng tốt.
Nghe nói thế, Tơran như mở cờ trong bụng. Hắn cố trấn tĩnh để hứa với cô gái rằng hắn sẽ sắp xếp thời gian đến thăm. Cô vội vã về buồng khoe với mẹ. Nhưng bà mẹ lại chẳng tỏ ra vui mừng.
- Chả hiểu sao mẹ cảm thấy anh ta là người chẳng có gì đáng tin cậy, con gái mẹ ạ! - Bà mẹ băn khoăn nói - Anh ta thì lịch sự thôi. Nhưng trong đáy mắt anh ta, mẹ thây có cái gì đó rất khó tả. Cứ nhìn lâu vào mắt anh ta là mẹ cảm thấy khó chịu.
Cô gái bật cười.
- Mẹ là một bà già ngây thơ, mẹ ạ!
- Có thể thế thật. Nhưng mẹ cứ ước gì đang còn anh Canđuen ở đây. Thật tội nghiệp! Canđuen bất hạnh! Nếu anh ấy còn sống để chung cuộc hành trình và đến thăm chúng ta thay cho Tơran thì hay biết bao nhiêu!
- Chính con cũng thương tiếc anh ấy! - Cô gái thở dài.
° ° °
Ít lâu sau, Tơran đã trở thành vị khách thường nhật trong ngôi nhà của người cậu Stroong. Hắn lúc nào cũng sẵn sàng thực hiện mọi ý muốn của Stroong. Thỉnh thoảng hắn còn đoán trước được ý định của cô. Mối quan hệ giữa đôi trai gái càng ngày càng trở nên thân mật. Không những thế, bất kỳ người nào trong gia đình ông cậu cần người hộ tống đi đâu là y như rằng đã thấy mặt Tơran. Hắn không quản ngại công việc gì và lúc nào cũng giúp đỡ mọi người một cách vui vẻ. Ông chủ càng ngày càng mến "Tơran tốt bụng". Chính vì vậy hắn đã hóa thành một thứ đồ dùng quý giá, không thể thay thế được trong gia đình người cậu Stroong.
Tơran cảm thấy điều kiện đã chín muồi. Một hôm hắn liều mạng ngỏ lời cầu hôn với Stroong. Thoạt đầu cô gái sững sờ, như không hiểu hắn nói gì. Lát sau cô mới lên tiếng:
- Quả là tôi không hình dung được anh lại quý tôi đến thế. Bao giờ tôi cũng coi anh như một người bạn trai tốt bụng. Nhưng bây giờ tôi không thể trả lời ngay được. Vậy anh hãy tạm quên những câu anh vừa nói đi! Chúng ta coi như chưa có chuyện gì xảy ra. Hãy để cho thời gian thử thách chúng ta và thời gian sẽ quyết định chuyện này... Hãy để tôi suy nghĩ! Biết đâu tôi sẽ nhận ra rằng lâu nay tôi đã xử sự với anh không đơn thuần chỉ vì tình bạn. Tôi vẫn chưa dám chắc là tôi có thể yêu được anh không.
Tơran cảm thấy hài lòng. Hắn thầm trách mình đã hơi vội vã. Nhưng hắn lại nghĩ rằng hắn đã yêu Stroong một cách say mê, tận tụy và điều đó thì cả nhà ai cũng biết từ lâu. Vậy thì mở mồm lúc này có gì là dại.
- Vừa trông thấy em trên tàu tôi đã yêu em, Hadel ạ! - Tơran tiếp tục ngỏ lời - Tôi sẵn sàng chờ quyết định của em tới bao lâu cũng được. Tôi kiên nhẫn chờ đợi. Bởi vì tôi tin rằng tình yêu trong sáng và lớn lao của tôi sẽ được đền đáp. Tôi chỉ muốn biết một điều duy nhất, ngay bây giờ, là: em đã yêu người nào chưa? Em cứ nói thật cho tôi biết!
- Cho đến bây giờ, chưa ai yêu em.
Câu trả lời của cô gái làm cho gã muốn nhảy cẫng lên vì sung sướng. Suốt quãng đường trở về, hắn chỉ mơ tới cảnh hắn đi mua một chiếc thuyền buồm giá một triệu đôla và xây một tòa lâu đài ven bờ Hắc Hải.
° ° °
Ngay ngày hôm sau Hadel Stroong có một niềm vui thật bất ngờ. Cô gặp Gian Potơrôva đang bước ra khỏi hiệu kim hoàn.
- Ối! Gian! - Hadel sửng sốt kêu lên rồi lao đến với cô bạn gái - Cậu chui từ đất lên đấy à? Tớ phải dụi mắt mấy lần. Không thể tin được nữa.
- Lạy Chúa! Tớ cũng không ngờ! - Potơrôva đứng sững lại, ôm lấy vai bạn - Tớ viết hàng đống thư cho cậu theo địa chỉ cũ, vì vẫn tưởng cậu đang ở Bantimo - Cô nói rồi hôn như mưa vào má bạn.
Hai cô gái líu ríu kể cho nhau nghe vì sao họ lại đến đất này. Hỏi đi hỏi lại nhiều lần Hadel mới biết là con thuyền buồm "Tiểu thư Alice" của huân tước Teningtơn vừa cập bến cảng Capơtun. Thuyền sẽ đậu lại ít nhất là một tuần lễ. Sau đó tiếp tục hành trình dọc theo bờ biển phía tây để quay về Anh.
- Khi thuyền về tới Anh, - Potơrôva nói ngập ngừng - tớ sẽ phải lấy chồng.
- Cậu vẫn chưa lấy chồng? - Hadel ngạc nhiên.
- Vẫn chưa, - Potơrôva lắc đầu - Tớ ước gì nước Anh nằm cách xa đây vài triệu hải lý nữa.
° ° °
Bạn bè trên con thuyền buồm và gia đình Stroong đã qua lại thăm nhau nhiều lần. Họ thường tổ chức những bữa tiệc trưa và đi dạo quanh vùng. Tơran thường được mời tham dự như một vị khách chung của cả hai bên. Hắn cũng tự tổ chức một bữa ăn chiều dành cho cánh đàn ông của cả hai bên. Hắn còn tận dụng mọi cơ hội để tranh thủ tình cảm của chàng huân tước Teningtơn tốt bụng. Một lần, ngồi cùng Teningtơn, hắn giả vờ lỡ lời để cho Teningtơn biết hắn là chồng chưa cưới của Stroong.
- Ôi, xin lỗi! - Tơran giả vờ hoảng hốt, đưa hai ngón tay lên che môi - Teningtơn quý mến! Ngài đừng nói với ai, đừng hé một lời!
- Xin hứa! Tôi hiểu rồi bạn ạ! - Teningtơn trả lời - Nhưng trước hết xin chúc mừng bạn. Đó là một cô gái tuyệt vời, thức tuyệt vời!
Ngày hôm sau, hai mẹ con Stroong và Tơran được mời tới thuyền "Tiểu thư Alice". Trong bữa ăn, bà mẹ Stroong thông báo rằng mặc dù bà rất thích ở Cap ơtun nhưng viên luật sư kinh tế vừa gửi thư khuyên bà trở về càng sớm càng tốt.
- Khi nào bà trở về? - Teningtơn hỏi.
- Đầu tuần tới, tôi nghĩ rằng...
- Thật thế? - Tơran kêu lên, ngắt lời - Rất đáng tiếc! Nhưng chính tôi cũng phải về ngay. Vậy thì nhân tiện, cho phép tôi đưa bà về.
- Điều đó rất đáng quý, anh Tơran! - Bà Stroong trả lời - Chúng tôi rất mừng vì có sự giúp đỡ của anh ở dọc đường.
Tuy nói thế nhưng trong thâm tâm, bà chỉ muốn hai mẹ con trở về không có Tơran đi theo. Lý do tại sao thì chính bà cũng không giải thích được.
- Có Chúa trời soi sáng! - Teningtơn nói - Thật là tuyệt vời.
- Tất nhiên rồi, huân tước thân mến! - Clâytơn cười mỉa mai - Ý định của anh thật tuyệt vời. Nhưng thật ra là thế nào? Anh định bơi xuyên qua Nam Cực tới Trung Quốc hay sao?
- Ồ, bạn thân mến của tôi! - Teningtơn cau mày - Bạn không phải châm chọc làm gì. Từ khi chúng ta nhổ neo lên đường tới giờ, chẳng lúc nào bạn vui lên được. Tất cả cùng chung một con thuyền xuyên đại dương là một sáng kiến tuyệt vời. Ai cũng nghĩ như thế. Tôi muốn mời bà Stroong, cô Hadel và anh Tơran lên thuyền của tôi tới nước Anh. Thế nào? Chẳng lẽ đấy không phải là một sáng kiến tuyệt vời hay sao?
- Thế thì tha lỗi cho tôi, Teny! - Clâytơn nói - Đúng là một sáng kiến. Tôi không ngờ đấy.
- Đầu tuần tới chúng ta sẽ nhổ neo. Chả lẽ điều đó không hợp với bà Stroong? - Chàng trai người Anh nói rất thản nhiên. Dường như ngoài thời hạn nhổ neo, tất cả đã được quyết định xong xuôi, không cần bàn cãi gì thêm nữa.
- Rất tiếc là... thưa huân tước Teningtơn! - Bà Stroong ngập ngừng - Chúng tôi cám ơn ngài, nhưng...
- Tại sao bà lại không đi? - Teningtơn ngắt lời - Thuyền buồm của tôi có thể sánh ngang với bất cứ chiếc tàu thủy hiện đại nào. Bà sẽ thấy rất thảnh thơi trên biển. Còn nói chung thì tất cả chúng tôi đều muốn có bà đi cùng. Vì vậy không ai muốn nghe bà từ chối nữa.
... Thuyền buồm "Tiểu thư Alice" nhổ neo ngay vào ngày thứ hai.
Hai ngày sau, Hadel Stroong và Gian Potơrôva ngồi với nhau trong căn buồng nhỏ trên thuyền. Hai cô cho nhau xem những bức ảnh chụp ở Capơtun. Po tơ rôva hỏi luôn mồm. Còn Hadel thì hào hứng giải thích từng tấm ảnh.
- À, còn đây nữa! - Hadel nhặt riêng ra một tấm ảnh - Anh chàng này biết cậu đấy. Thật là một chàng trai bất hạnh. Tớ định khi nào gặp cậu thì hỏi ngay xem anh ta là người thế nào. Vậy mà suốt mấy ngày qua tớ quên béng đi mất.
Hadel ngắm nghía chiếc ảnh trên tay.
- Anh ấy tên là Giôn Canđuen. Chắc cậu còn nhớ anh ta. Anh ta nói rằng đã quen biết cậu ở châu Phi. Nhưng anh ta là một người Anh.
- Tớ không nhớ cái tên ấy - Potơrôva trả lời - Đưa tớ xem mặt nào!
- Nhưng thật tội nghiệp! Anh ấy bị rơi xuống biển.
- Sao, cậu nói sao? - Potơrôva nhìn bức ảnh rồi kêu lên hoảng hốt - Anh ấy chết trên biển? Cậu đùa tớ phải không? Cậu nhận đi! Cậu đùa đấy chứ?
Hadel không kịp nhổm dậy, Potơrôva đã buông tấm ảnh và ngã lăn ra đất, ngất đi.
Tới lúc tỉnh dậy, Potơrôva không nói một lời.
- Tớ không hề biết, Gian ạ! - Hadel nói với bạn bằng một giọng day dứt - Ai biết được là cậu lại quen chàng Canđuen tới mức nghe tin anh ta chết, cậu lại xỉu đi như vậy.
- Giôn Canđuen ư? - Cuối cùng Potơrôva cũng phải lên tiếng - Hình như cậu muốn dấu, không cho mình biết...
- Cậu nghĩ gì lạ vậy, Gian! Tớ đã trò chuyện với anh ấy rất nhiều. Anh ấy, Giôn Canđuen, nhà ở Luân Đôn.
- Trời ơi, Hadel! Tớ cũng mong đấy là một người xa lạ, tên là Canđuen. Nhưng nhìn kỹ đi Hadel! Những đường nét trên khuôn mặt yêu dấu này ai mà quên được. Khuôn mặt ấy từ lâu đã nằm trong trái tim này của mình. Đó là khuôn mặt mà tớ sẽ nhận ra ngay khi đặt giữa hàng nghìn khuôn mặt thân quen trên thế giới này.
- Cậu nghĩ gì thế, Gian? - Hadel kêu lên - Người ấy là ai?
- Tớ không phải nghĩ gì thêm nữa. Người ấy là Tácdăng, con của rừng xanh châu Phi, sống cùng loài vượn.
- Gian!
- Tớ không thể nhầm được, Hadel ơi! Cậu chắc chắn là anh ấy đã chết? Có thể nhầm không?
- Tớ sợ là không nhầm - Hadel trả lời buồn bã - Tớ cũng mong rằng đó không phải là sự thật. Nhưng bây giờ thì tớ tin rằng anh ấy không phải ở Luân Đôn. Anh ấy nói với tớ rằng anh ấy sinh ra ở châu Phi và học hành tại Pháp.
- Điều ấy... đúng thôi! - Potơrôva thì thầm nói.
- Viên sĩ quan kiểm tra hành lý của anh ấy không tìm được dấu hiệu gì chứng tỏ rằng nạn nhân mang tên Canđuen. Tất cả đồ dùng, tư trang của anh ấy đều là đồ mua ở Pari. Các đồ dùng đều đánh dấu bằng chữ cái T hoặc J.C.T. Tớ và mọi người đều cho rằng chuyến đi của anh ấy là một chuyến đi có nhiều điều bí ẩn. Cái tên ấy chắc cũng là tên giả. J và C có nghĩa là Giôn Canđuen.
- Anh ấy là Tácdăng. Anh ấy đã đồng ý nhận tên mình là Gian C. Tácdăng - Potơrôva ngậm ngùi - Còn bây giờ anh ấy chết rồi sao? Hadel! Thật là kinh khủng! Chết một mình giữa đại dương? Làm sao tin được cánh tay săn chắc ấy lại có thể buông xuôi. Anh ấy là hiện thân của sức sống, hiện thân của tuổi trẻ. Làm sao anh có thể bị nhấn chìm trong sóng đại dương! - Potơrôva nức nở một hồi rồi ôm mặt ngã xoài xuống sàn thuyền.
Suốt mấy ngày sau Potơrôva thẫn thờ như kẻ mất hồn. Cô không muốn nhìn mặt ai ngoài Hadel Stroong và cô người hầu của mình. Gần như cô nằm lì trong buồng. Khi cô bước ra ngoài, mọi người đều kinh ngạc vì sự tiều tụy của cô. Chẳng còn ai nhận ra cô gái Mỹ xinh đẹp ngày nào vẫn thường làm đàn ông se lòng mỗi khi trông thấy. Đôi má hồng của Potơrôva đã ngả màu xám vàng. Trên khuôn mặt lạnh giá là đôi mắt u tối, nặng nề như đóng kín nỗi đau đớn trong lòng. Cô im lặng suốt ngày, không nói chuyện với ai. Tất nhiên Hadel là người duy nhất hiểu được nỗi đau khổ của bạn mình. Trừ Hadel, tất cả mọi người trên thuyền đều cố gắng làm cho Potơrôva vui vẻ lên. Chàng huân tước Teningtơn thật thà, tốt bụng đã đạt được mong muốn. Anh ta khiên cô gái bật cười một đôi lần. Nhưng anh không thể kéo cô ra khỏi tâm trạng buồn bã, cô độc. Gần như cả ngày cô ngồi trên sàn thuyền, mở mắt nhìn đăm đăm xuống biển.
Phải chăng nỗi đau buồn của Potơrôva đã mở màn cho hàng loạt những rủi ro của con thuyền? Thoạt đầu, động cơ của con thuyền buồm chẳng hiểu vì sao lại tự nhiên ngừng làm việc. Con thuyền bị những luồng nước biển cuốn trôi hết chỗ này tới chỗ khác. Tới khi sửa được buồng máy thì một cơn gió bất thần nổi lên quét sạch mặt thuyền. Tất cả các thứ đồ dùng, vật dụng trên mặt thuyền không được buộc chặt đều bị hất bay xuống biển. Tiếp đến là hai thủy thủ xông vào đánh nha một trân tơi bời. Kết quả, một người bị thương rất nặng, một người bị trói vào cột buồm để khỏi tiếp tục hành hung. Nỗi bất hạnh cuối cùng xảy ra vào lúc nửa đêm: một sĩ quan trên thuyền bị đánh ngã xuống biển và bị nhấn chìm. Con thuyền phải chạy ngang dọc giữa biển rộng suốt mười tiếng đồng hồ liên tục mà không tìm thấy dấu vết gì của viên sĩ quan bất hạnh.
Tất cả những người còn lại trên thuyền đều hoảng hốt. Biết đâu rồi lại có những chuyện tồi tệ hơn sẽ diễn ra. Sau hàng loạt những sự kiện buồn bã ấy, cánh thủy thủ già nhận định rằng con thuyền khó lòng tránh khỏi một tai họa lớn. Bằng kinh nghiệm đi biển lâu năm, những con sói biển đó đã tiên đoán không nhầm.
Ngay hôm sau khi viên sĩ quan chết đuối, nhiều thủy thủ đã linh tính thấy một chuyện chẳng lành. Trong lòng mọi người bồn chồn như lửa đốt. Quả nhiên chỉ lát sau, con thuyền như lên cơn co giật rồi nghiêng hẳn sang bên. Toàn bộ hệ thống máy ngừng làm việc. Cột buồm lệch tới 45 độ. Sau đó cánh buồm căng phồng, cột buồm đua nhau rít lên kèn kẹt, đẩy con thuyền tàn tật lao vút lên phía trước, giống như một con cá khổng lồ hóa điên. Cánh đàn ông chạy nháo nhác trên khoang thuyền, hy vọng cứu vãn tình thế. Trời ngả bóng hoàng hôn. Gió thổi không mạnh lắm. Nhưng ngay lúc đó nhiều người nhìn thấy có một vật đen đen, lập lờ trên mặt nước.
- Xác thuyền! - Viên sĩ quan trực ban thét lên.
Một thợ máy chui ra khỏi buồng động cơ, hoảng hốt đi tìm thuyền trưởng.
- Dây an toàn ở nắp trục đã bị giật đứt - Người thợ máy báo cáo - Nước đang chảy vào đầu thuyền.
Vài giây sau, một thủy thủ lại lao lên mặt thuyền.
- Lạy Chúa tôi! - Anh ta kêu to - Cả đáy thuyền bị phá thủng rồi. Không thể giữ được thuyền quá hai chục phút đâu.
- Bình tĩnh! - Huân tước Teningtơn quát lên - Tất cả phụ nữ chạy về buồng sửa soạn đồ dùng của mình. Tình thế nguy kịch rồi, nhưng chúng ta có thể sự dụng các thuyền con. Phải chuẩn bị chu đáo! Thuyền trưởng Giơ rôn đơ! Ông phải cử người kiểm tra xem thuyền còn nổi được bao lâu nữa. Tôi đề nghị chuyển ngay thực phẩm xuống các thuyền con.
Giọng nói tự tin của vị chủ thuyền có làm cho các thủy thủ và khách trên thuyền bình tĩnh được chút ít. Mọi người vội vã làm theo lệnh Teningtơn. Ngay trước khi phụ nữ bò được vào lòng thuyền, lần tìm đồ đạc, mấy chiếc thuyền con đã được chất đầy thực phẩm. Một sĩ quan dạn dày kinh nghiệm đi kiểm tra tình hình con thuyền. Tuy kết quả kiểm tra có khả quan đến mấy thì mọi người cũng tin rằng "Tiểu thư Alice" đã đến giờ tận số.
- Thế nào, ngài! - Viên thuyền trưởng cất tiếng hỏi viên sĩ quan vừa đi kiểm tra quay lại.
- Báo cáo thuyền trưởng! Tôi không muốn làm đám phụ nữ hoảng loạn. Nhưng đúng là thuyền chỉ còn vài phút nữa là chìm. Lỗ thủng ở hông thuyền rất to. Một con bò cái cũng chui lọt.
Thuyền mỗi lúc một nghiêng. Bánh lái đã nhô lên khỏi mặt nước. Không ai đứng thẳng được trên mặt thuyền nữa. Bốn chiếc thuyền con đã được thả xuống nước. Sau khi thoát khỏi chiếc thuyền buồm, nhảy được vào thuyền con, Gian Potơrôva quay lại nhìn. Đúng lúc đó, từ trong lòng thuyền vang lên một tiếng động lớn. Tiếng rạn nứt nghe thật đau đớn như tiếng rên xiết, trăng trối của con thuyền. Các bộ phận của con thuyền bị gãy gập. Bánh lái nhô cao khỏi mặt nước, chĩa thẳng lên trời. Cuối cùng toàn bộ con thuyền chúi mũi rồi lặn sâu vào lòng biển.
Trên chiếc thuyền con, huân tước Teningtơn đưa tay lau nước mắt. Anh không tiếc tiền mà chỉ thương người bạn gái khổng lồ và xinh xắn của mình. Vĩnh biệt "Tiểu thư Alice" - con thuyền của một thời mơ ước!
Đêm đại dương qua đi lúc nào không biết. Trời đã sáng. Mặt trời nhiệt đới tỏa chiếu trên mặt sóng mênh mang. Gian Potơrôva đã trải qua một giấc ngủ chập chờn. Cô thức giấc vì ánh nắng cháy bỏng chiếu vào mặt. Trong chiếc thuyền con, bên cạnh cô là ba thủy thủ, Clâytơn và Tơran. Cô nhìn bốn phía xung quanh xem những người còn lại ở đâu. Nhưng nhìn mãi cô vẫn không thấy chiếc thuyền nào khác. Bốn bề chỉ có những con sóng trập trùng, đơn điệu. Cô giật mình hoảng hốt. Con thuyền mỏng mảnh của cô đang bập bềnh một mình giữa Đại Tây Dương.
Trở lại rừng già
Vừa rơi xuống nước, Tácdăng cố bơi thật nhanh ra xa để tránh nguy hiểm bởi chân vịt con tàu. Chàng ân hận vì mất cảnh giác, để cho Rôcốp hãm hại dễ dàng đến thế. Con tàu vẫn lao đi vùn vụt. Ánh đèn pha mờ dần nhưng Tácdăng không lên tiếng kêu cứu. Đó là thói quen của chàng. Cả đời, chàng chưa bao giờ cầu xin sự giúp đỡ của ai. Chàng tin vào sức mạnh và sự khéo léo của chính bản thân mình. Từ khi Kala - người mẹ thân yêu của chàng qua đời, mỗi khi gặp nguy hiểm, chàng chưa thấy ai lao đến giúp chàng. Bây giờ chàng chỉ hy vọng có ai đó trông thấy chàng, hoặc chàng chạm được đất. Chàng quyết định không đầu hàng biển cả. Hít mạnh một hơi thật sâu, chàng sải tay bơi về phía đất liền. Biết đâu, dọc đường bơi, sẽ có một con tàu nào đó ngẫu nhiên xuất hiện.
Chàng bơi bình tĩnh, nhịp nhàng. Mấy tiếng đồng hồ trôi qua. Chàng cảm thấy thấm mệt. Trên trời, sao vẫn nhấp nháy như vẫy gọi chàng bơi mãi về phương đông. Đã tới lúc chàng cảm thấy đôi giàu trở nên vướng víu, nặng nề. Chàng thận trọng tụt giày rồi cởi luôn cả quần dài. Chàng không cởi áo khoác vì trong túi áo khoác có hai tài liệu quý. Chàng sờ túi kiểm tra lại cho yên tâm. Nhưng thật lạ lùng, túi áo chàng trỗng rỗng. Bỗng chàng hiểu ra rằng Rô cốp và bạn hắn vứt chàng xuống biển không đơn giản chỉ là trả thù. Chúng muốn thủ tiêu chàng sau khi đã đoạt lại hai tờ giấy mà chúng chịu để lọt vào tay chàng ở Bu Sađi. Lầm bầm chửi một mình, chàng tụt áo khoác rồi vứt nốt cả sơmi để bơi được nhẹ nhàng, thoải mái hơn.
Bình minh đang lên. Những tia nắng đầu tiên đã nhuốm màu vàng mặt sóng. Chợt Tácdăng trông thấy một vật gì rất to, đen đen nhô lên khỏi mặt nước. Bằng một vài sải tay mạnh mẽ, chàng đã tới gần vật lạ. Hóa ra là cái đáy một con thuyền bị lật úp. Tácdăng trèo lên. Đáy thuyền rất rộng, lởm chởm vỏ sò. Chàng nằm ngửa, nghỉ ngơi lấy sức. Chàng không thể chấp nhận cái chết vì đói khát. Nếu phải chết, chàng sẽ chết trong hành động, chết trong đấu tranh để tự vệ. Đó mới là cái chết đẹp đẽ, đúng nghĩa của con người.
Biển yên tĩnh, dập dờn muôn ngàn ngọn sóng. Đáy thuyền bồng bềnh đu đưa như cánh võng. Đại Tây Dương ru Tácdăng thiếp đi trong giấc ngủ ngon lành...
Ánh nắng gay gắt của mặt trời ban trưa làm Tácdăng thức giấc. Tỉnh dậy chàng thấy khát kinh khủng. Cơn khát cứ mỗi lúc một dữ dội. Nhưng kìa giữa đám gỗ vụn của xác thuyền, chàng phát hiện ra một chiếc thuyền con bị lật úp. Cũng ngay lúc đó, chàng nhìn thấy từ phía chân trời một đường viền mờ mờ của đất liền. Nỗi vui sướng làm cho cơn khát như biến đi.
Chàng nhào xuống nước, bơi xung quanh chiếc thuyền con ấy. Những con sóng lạnh của đại dương làm chàng tỉnh táo, sảng khoái như vừa được uống một ngụm nước ngọt. Chàng vừa bơi, vừa kéo chiếc thuyền con đến sát hông chiếc hải thuyền bị vỡ. Hì hục, xoay xở mãi, cuối cùng chàng đã kéo được chiếc thuyền con lên đáy chiếc thuyền lớn rồi lật ngửa nó. Chàng ngồi vào thuyền con, bơi xung quanh xác thuyền lớn. Xung quanh xác thuyền không biết bao nhiêu là ván gỗ. Chàng chọn vài mảnh làm mái chèo rồi chèo thẳng về dải đất phía đông.
Xế chiều, Tácdăng đã tiến gần tới đất liền. Chàng nhận rõ từng thứ cây trên mặt đất. Ngay trước dải đất là một cửa sông nhỏ. Phía bắc dải đất có một cánh rừng nhô ra biển. Quang cảnh trước mắt có gì đó rất quen thuộc với Tácdăng. Chàng chèo mạnh tay tới một lúc thì nhận ra trong bóng rừng già có một ngôi nhà gỗ. Đó chính là ngôi nhà mà cha chàng - huân tước Giôn Clâytơn Grâyxtâu khi xưa dựng nên. Chàng chèo hối hả. Đầu thuyền vừa chạm cát, đứa con của rừng xanh nhảy phốc lên đất cứng. Trái tim Tácdăng nhẩy lên trong lồng ngực vì niềm sung sướng vô bờ. Chàng háo hức đảo mắt nhìn bốn phía. Ôi! Quê hương thân thuộc của chàng! Ngôi nhà của chàng đây! Bốn phía quanh chàng ríu rít tiếng chim kêu. Những con chim sặc sỡ lúc thì len lỏi qua kẽ lá, lúc thì sải cánh lướt quanh những chùm hoa muôn màu của rừng già.
Tácdăng - con của rừng xanh - đã trở về vương quốc của mình! Để cho toàn thế giới biết điều đó, Tácdăng kiêu hãnh ngẩng cao đầu, thét vang tiếng thét chiến thắng của mình ngày trước. Tiếng thét của chàng làm rưng già đột nhiên im lặng. Chim chóc ngừng tiếng hót. Lá rừng xào xạc. Tácdăng vừa im tiếng một lát thì nghe thấy có tiếng thét khác nối tiếp. Tiếng thét rất sâu và khàn. Đó là tiếng thét của sư tử Numa đáp lại tiếng dọa dẫm của "con vượn đực".
Tácdăng chạy tới bờ sông, vục đầu xuống một lúc để dập tắt cơn khát. Nước sông rất trong và ngọt. Chàng uống như cả đời chưa được uống bao giờ. No nê, chàng bước tới ngôi nhà gỗ. Cho đến bây giờ, cửa nhà vẫn đóng kín và chốt chặt, đúng theo lời yêu cầu của trung úy Ácnốt. Tácdăng vén mành, bước vào trong. Tất cả mọi đồ dùng vẫn còn nguyên ở vị trí cũ: bàn viết, giường ngủ, chiếc nôi, giá sách, tủ đứng...
Lúc này hai mắt Tácdăng nhìn đã no. Nhưng dạ dày chàng thì rỗng tuếch. Chàng quyết định đi kiếm ăn. Trên bức vách vẫn còn treo một sợi dây thừng bện bằng một thứ cỏ dai. Đoạn thừng có nhiều chỗ đã gần đứt. Chàng vứt xuống đất và ước ao có một con dao. Nếu chàng nhớ không nhầm thì có thể tìm thấy con dao cũ ở đâu đó trong bụi rậm. Ngoài ra, chàng còn có cả chiếc lao, cung tên và ống đựng tên. Chàng thiếu tất cả những thứ đó. Biết làm thế nào? Nhưng cơn đói thôi thúc chàng phải kiếm ngay cái gì cho vào miệng.
Chàng nhặt lại sợi dây, xoắn lại cẩn thận từng đoạn hỏng rồi vắt lên vai, rảo bước ra khỏi nhà, sát vách nhà đã là rừng rậm. Tácdăng đi vào rừng một cách thận trọng, lặng lẽ, giống như sư tử đi săn. Chàng bước qua một vài khoảng đất trống nhưng vẫn không tìm ra một dấu vết của con mồi nào. Chàng bèn leo lên lùm cây cao. Sau vài cú nhảy chuyền càng, niềm vui và tình yêu cuộc sống đã trở lại với chàng. Trong phút chốc tất cả những lo âu phiền muộn lâu nay biến khỏi lòng chàng. Cuối cùng thì chàng lại sống, lại ngây ngất vì cuộc sống tự do phóng khoáng giữa núi rừng. Không dại gì quay lại với thế giới văn minh đầy những mưu toan giả dối, khi mà rừng xanh đem đến cho chàng hòa bình và tuyệt đối tự do! Ai ham hố cái "xã hội văn minh" thì cứ việc, riêng chàng, dứt khoát là không!
Chàng đi ra đoạn sông chảy xuyên rừng. Chàng vẫn nhớ ở đó có một chiếc đầm nhỏ, có thể lội qua. Các loài thú thường hay đến đấy uống nước. Sư tử Sabo và Numa vẫn rình bắt sơn dương ở đây. Nơi này đã trở thành bãi săn chung của sư tử, lợn rừng và của cả chàng trai người vượn.
Tácdăng ló đầu ra khỏi một cành cây rậm, mọc ngả trên đường mòn. Chàng rình suốt một tiếng đồng hồ. Trời mỗi lúc một tối. Bóng đêm ập xuống rừng già. Trong bụi cây gần đầm nước bỗng vang lên một âm thanh yếu ớt. Đó là tiếng chân bước và tiếng cọ mình vào búi dây leo. Nếu một người bình thường, không ai nghe được những tiếng động nhỏ như vậy. Nhưng với Tácdăng, chàng không chỉ nghe thấy mà còn biết ngay đó là Numa, một con sư tử dữ tợn. "Cũng như mình, Numa đến đây là vì dạ dày rỗng tuếch" - Ý nghĩ đó khiến chàng phì cười.
Vừa lúc đó, chàng lại nghe thấy tiếng bước chân bước của một con vật khác. Nó đang đi dọc theo lối mòn, tới khúc lội. Nhìn kìa, Hota - lợn lòi độc thân! Thịt lợn rừng rất ngon. Vì thế vừa trông thấy Hota, Tácdăng đã chảy nước miếng. Trong lúc đó, ở bụi rậm mà Numa đang rình hoàn toàn im ắng. Chắc con sư tử đang nín thở. Hota đi lanh quanh. Chỉ còn vài bước chân nữa nó sẽ rơi vào tầm vồ của Numa. Tácdăng hình dung ngay cảnh con sư tử già lóe mắt rồi tung mình về phía trước. Chàng biết con sư tử sẽ rống lên như thế nào để làm con mồi khiếp đảm, và vuốt trước của sư tử sẽ bấu vào đâu để giữ chặt con mồi.
Sư tử Numa chưa kịp nhún mình, nó đã nghe thêys một sợi dây mỏng manh bay vèo trong không khí. Chiếc thòng lọng đã thắt gọn cổ Hota. Con lợn rừng rống lên eng éc vì khiếp sợ. Sư tử Numa giật mình, giương mắt nhìn con mồi của nó đang bị lôi ngược trở lại đường mòn. Sau giây lát bàng hoàng, Numa quyết định phải vồ nhanh. Nó nhún mình nhảy bổ lên phía trước. Nhưng muộn mất rồi! Bộ vuốt nhọn của nó chỉ chụp vào bãi cọ. Ngay trước mũi nó, con lợn rừng bị lội tuột lên cành cây. Ở trên đó có một khuôn mặt người hình như đang cười nhạo nó.
Numa rống lên tức tối. Cơn đói và sự tức giận vì mất mồi khiến nó lồng lộn, làm nát cả bãi cỏ. Được một lát, nó dừng lại, lặng lẽ bước tới gốc cây.
Nó nhìn thấy kẻ thù của mình đang ngồi trên cây. Nó bức bội đứng thẳng lên bằng hai chân sau. Hai chân trước cào xoàng xoạc vào thân cây. Nó muốn leo lên. Nhưng sau bao nhiêu cố gắng, nó chỉ được vài mảnh vỏ cây và một mảng gỗ cây lộ trắng, bốc mùi nhựa hăng nồng.
Tácdăng đã kéo được Hota lên cành cây bên cạnh. Bị nghẹt thở, con lợn đã chết nhũn mình. Tácdăng không có dao. Nhưng thiên nhiên đã phú cho chàng đôi cánh tay mạnh mẽ và cứng hơn sắt thép. Chàng moi móc một lúc thì xé được bộ lông cứng của con lợn rừng. Chàng dứt ra những miếng thịt mỡ màng còn nóng hổi cho vào miệng. Trong khi đó, dưới gốc cây, con sư tử tức tối ngửa cổ nhìn lên, nước miếng ứa ra, nhỏ ròng ròng xuống cỏ.
Trời tối hẳn, Tácdăng đã no nê. Bữa tiệc đầu tiên ở quê hương thật ngon lành! Cho tới lúc này, chàng mới ngẫm ra là mình chưa bao giờ quen được với các thứ đồ ăn chín mà loài người văn minh đặt trước mặt chàng. Trong thâm tâm, chàng vẫn thèm thịt sống. Ngay cả với trung úy Ác nốt, chàng cũng không thổ lộ điều đó.
Tácdăng chùi đôi tay dây máu lợn rừng vào một búi lá rồi vác con lợn ăn dở lên vai, thoăn thoắt chuyền từ cành nọ sang cành kia, đi về phía ngôi nhà gỗ. Có lẽ vào giờ này, cách xa khoảng một nghìn hải lý, ở đâu đó trên Đại Tây Dương, Gian Potơrôva và Uyliam Clâytơn vừa đứng dậy sau bữa ăn chiều trên con thuyền buồm mang tên "Tiểu thư Alice".
Dưới đất, sư tử Numa lại rón rén bước theo Tácdăng. Chàng trai nhìn xuống và bắt gặp ánh mắt màu xanh của con thú đói đang lóe lên trong bóng tối. Nó vẫn bám theo chàng từng bước, dai dẳng như một con mèo khổng lồ. Chàng nghĩ nó có thể theo chàng tới tận ngôi nhà gỗ. Nếu vậy, chàng phải ngủ trên cành cây, cho dù lúc này chàng muốn được ngả lưng trên một thảm cỏ mềm. Chàng chỉ mong có một con thú nào đó cuốn hút sư tử Numa hoặc bình minh đến thật nhanh để xua Numa và rừng.
Điều chàng mong ước đã đến. Sư tử Numa đang đi thì chợt dừng bước. Nó rống lên một hồi. Sau tiếng rống mệt mỏi, hình như máu trong mình nó nguội đi. Nó quay đầu trở lại rừng sâu để tìm một con mồi nào đó dễ bắt hơn.
Không bị sư tử quấy rầy nữa, Tácdăng nhảy xuống đất đi nhanh về nhà. Chàng thiếp đi trên đệm cỏ khô. Đó là chỗ nằm của chàng từ ngày sống bên trung úy Ácnốt. Và chỉ một lúc sau, ngài Gian C. Tácdăng đã giũ sạch tất cả những gì dính dáng với nền văn minh loài người. Đêm ấy chàng nằm cuộn mình trên thảm cỏ, ngủ ngon lành như một con sư tử no bụng. Những lúc chàng ngủ như thế, có lẽ chỉ trừ Gian Potơrôva, không ai trên đời có thể đánh thức nổi chàng.
Chàng ngủ tới tận buổi chiều hôm sau. Chàng rất mệt mỏi sau một chặng đường thử thách. Sau hai năm sống với xã hội loài người, cơ bắp của chàng có phần mềm đi vì ít hoạt động.
Vừa tỉnh dậy, chàng lao ra sông uống nước cho đã cơn khát vì ăn quá nhiều thịt lợn rừng. Chàng nhảy xuống nước, bơi ra biển. Lát sau, chàng quay về ăn thêm một tảng thịt rồi đặt số thịt còn lại vào một mô đất mềm trước cửa nhà. Xong xuôi mọi việc, chàng cầm sợi dây thòng lọng đi vào rừng.
Lần này chàng không đi săn thú mà đi tìm dấu vết của một loài động vật cao cấp nhất - con người. Chàng cần một thứ mà các công dân bốn chân của rừng già không thể có. Đó là vũ khí. Chàng băn khoăn, không biết sau cuộc hành quân trừng phạt của người Pháp, làng của thủ lĩnh Bônga có còn sót lại trẻ em và phụ nữ nữa không. Lâu nay chàng vẫn đoán rằng để trả thù cho trung úy Ácnốt, thủy thủ Pháp đã giết sạch các chiến binh da đên trong làng.
Chàng đến khu rừng nơi làng của Bônga định cư vào một buổi trưa. Nhưng chàng đã thất vọng. Sân làng cỏ mọc um tùm. Những chiếc lều trống trải, tan hoang. Chàng lục lọi khắp mọi xó xỉnh, hy vọng tìm được một thứ vũ khí nào đó bị bỏ quên, nhưng chẳng nhặt được gì. Kinh nghiệm cho chàng biết rằng, các loài động vật và cả con người thường sống gần nguồn nước. Chàng quyết định đi về hướng đông - nam, ngược lên thượng nguồn dòng sông. Dọc đường, chàng vừa đi vừa kiếm ăn, theo thói quen của bộ lạc vượn mà chàng học được từ mẹ Kala. Chàng lật các gốc cây mục, nhặt sâu bọ, côn trùng, trèo lên cây tìm tổ chim lấy trứng và bắt các loài gặm nhấm nhanh như một con cáo. Trong chốc lát, chàng trở lại là đứa con khôn ngoan, tinh nhanh của bà mẹ vượn thuở nào. Chàng bật cười khi nhớ đến mấy người bạn cũ của mình trong thành phố. Có lẽ giờ này họ đang mặc những bộ y phục chật chội, nặng nề và ngồi trang trọng trong các lô ghế nhà hát giao hưởng hoặc các câu lạc bộ ở Pari.
Đêm ấy, chàng ngủ trong rừng sâu - Một giấc ngủ ngon lành, không mộng mị, trên một tán cây cao, đu đưa trong những cơn gió biển thanh bình. Sáng sớm, chàng lại ăn sáng rất tử tế, một bữa sáng bằng thịt con nai mới rơi vào thòng lọng của chàng. Ăn xong chàng lại tiếp tục đi dọc bờ sông. Chàng đi liên tục ba ngày và cuối cùng bước vào một khu rừng mà chưa bao giờ chàng đặt chân tới. Rừng ở đây trùm lên những dãy núi đồi. Đứng ở giữa khoảng rừng thảo mộc nhìn lên có thể trông thấy những ngọn núi nhô lên chót vót. Khu rừng nguyên sinh này là vương quốc của muôn loài động thực vất. Rừng có rất nhiều sơn dương và những đàn ngựa vằn. Trước quang cảnh ấy, Tácdăng như bị thôi miên. Chàng quyết định lưu lại đó vài ngày.
Một buổi sáng, ngửi thấy có mùi mồ hôi của người, trống ngực Tácdăng đập rộn ràng. Tất cả các giác quan của chàng đều như căng lên để chờ đón cái giây phút gặp gỡ bất ngờ này. Chàng nhảy lên cây cao, quan sát. Chỉ trong giây lát, chàng đã trông thấy một chiến binh đơn độc đang lặng lẽ bước trên thảm cỏ. Chàng đuổi theo người đàn ông bằng lối đi qua các cành cây cao và cố tìm một vị trí thuận lợi để tung dây thòng lọng. Người chiến binh thổ dân không hề biết rằng sau lưng mình có một mái đầu bối rối, đắn đo. Lúc này, trong lòng Tácdăng chợt vang lên tiếng gọi của lương tri. Tácdăng chưa bao giờ giết người vô cớ. Chàng rất thèm vũ khí và mấy đồ trang sức của người chiến binh nọ. Nhưng chẳng lẽ chỉ vì mấy thứ ấy mà bắt người ta phải chết? Càng suy nghĩ, Tácdăng càng thấy việc giết người là một tội lỗi không thể tha thứ. Đang suy nghĩ, chàng bỗng giật mình vì trước mặt là một khu rừng bị đốn. Xa xa phía cuối bãi trống là một khu làng được vây quanh bởi một bức lũy, nhìn vào chẳng khác gì một bọng ong.
Khi chiến binh bước ra khỏi rừng rậm, Tácdăng trông thấy thấp thoáng một cơ thể màu vang đang lướt qua những đám cỏ lau. Tưởng là ai, hóa ra lại là Numa - sư tử! Con thú đã lần theo dấu vết của người đàn ông da đen. Mối hiểm nguy đang trùm lên đầu người trước mặt. Đối với người đàn ông da đen thái độ của chàng hoàn toàn thay đổi. Từ một người bị truy đuổi, người da đen đã trở thành một người thân cận, đáng thương vì cùng có chung một kẻ thù. Numa chuẩn bị vồ mồi. Tácdăng không còn thời gian để do dự nữa.
Ngay lập tức, trên vạt rừng thưa xảy ra một cuộc huyết chiến. Con sư tử vọt ra khỏi bụi rậm, hạ thấp cổ đuổi theo người trước mặt. Tácdăng kêu lên một tiếng để báo động cho người đồng loại. Người da đen quay đầu lại đúng vào lúc con sư tử đang ở giữa đường bay của cú nhảy vồ mồi, nhưng cổ nó đã mắc một vòng thòng lọng. Người da đen thoát nạn. Vì phải hành động gấp, Tácdăng không kịp níu đầu dây vào thân cây, bị giật ngã xuống đất và bị kéo bổ về phía con thú. Numa lập tức bỏ con mồi, quay mặt lại với kẻ thù mới.
Tácdăng bỗng trở nên tay không vũ khí. Cái chết đến với chàng trong tấc gang. Nhưng người da đen đã bước tới. Trong tích tắc, anh ta hiểu rằng, chính vì tính mạng mình mà người đàn ông da trắng kì lạ này đã quăng sợi dây và đang phải đối mặt với hàm sư tử. Người da đen phóng ngọn lao. Những múi cơ cuồn cuộn nổi lên như sóng dưới làn da màu gỗ mun bóng loáng. Mũi lao rít lên trong gió, cắm phập vào khoảng phổi trái của con sư tử. Gầm lên tiếng thét đau đớn và giận dữ, con sư tử quay đầu lại, xông vào kẻ phóng lao. Nhưng nó đã bị giật bắn lại vì sợi dây thòng lọng trong tay Tácdăng. Nó quay lại với Tácdăng. Nhưng chưa kịp nhảy, nó bỗng rùng mình đau đớn. Một mũi tên cắm ngập qua xương sườn. Nó đứng sững lại. Trong khi đó Tácdăng đã kịp quấn chặt đầu dây vào gốc cây. Hiểu được ý của Tácdăng, người da đen bật cười.
Chàng nhảy đến bên người bạn chiến đấu, rút nhanh con dao của anh ta ra khỏi bao. Người da đen nghiêng người để cho bạn mình rút dao cho dễ rồi giương cung bồi thêm cho con thú hai phát tên nữa. Hai người tấn công sư tử từ hai phía. Con vật như hóa điên, lồng lộn, gầm thét vang rừng, nhưng không thể nào chạm được đến chân lông hai chàng trai đang tung hoành như hai con mãnh hổ. Cuối cùng, Tácdăng cũng áp sát đến sau lưng con thú. Chàng dùng tay trái ôm chặt cổ nó. Mũi dao chàng đã thọc sâu vào vùng tim sư tử. Máu đỏ phun ra và vị chúa tể rừng xanh đổ vật xuống.
Tácdăng rút dao đứng dậy. Hai người đàn ông - một da đen, môt da trắng - nhìn nhau bỡ ngỡ qua cái xác to lớn của con sư tử màu vàng. Người da đen mỉm cười giơ tay làm tín hiệu hòa bình và tình bạn. Tácdăng đáp lại người bạn mới bằng tín hiệu quen thuộc của mình: Chàng vung tay, ngửa mặt lên trời và thét lên tiếng thét của bộ lạc vượn Kétchác.
Ông khách da trắng
Cuộc huyết chiến giữa hai người với con sư tử làm kinh động cả rừng già. Chỉ một lát, sau khi Numa tắt thở, các chiến binh của khu làng da đen đã chạy ra, vây quanh hai người chiến thắng. Họ nhảy múa, trò chuyện và hỏi người đồng tộc của mình hàng trăm câu hỏi. Tiếp đến là đám đàn bà, trẻ con cũng kéo tới xem sư tử và xem người đàn ông da trắng. Người bạn mới của Tácdăng phải vất vả lắm mới dẹp được trật tự. Chờ cho mọi người im lặng, anh ta quay lưng sang Tácdăng, nói rành rọt từng lời rằng cả bộ lạc của anh ta đều biết ơn và tỏ lòng kính trọng Tácdăng - người chiến thắng sư tử và là người cứu tinh của anh ta cũng như của cả dân làng. Bởi vì lâu nay, sư tử Numa vẫn là nỗi kinh hoàng đối với mọi người trong bộ lạc.
Một lúc sau, mọi người cầm tay Tácdăng đi về làng. Đoàn người đi như một đám rước. Bọn trẻ con tranh nhau chạy lên trước. Chúng đi giật lùi để nhìn cho rõ mặt người khách da trắng. Cỏ bị xéo nát và lũ trẻ nhỏ thay nhau ngã dúi dụi. Về tới làng, mọi người lại tranh nhau thết đãi Tácdăng đủ các món thịt gia cầm. Tất cả đều là đồ nấu chín, vì vậy Tácdăng chỉ nếm qua mỗi thứ một tí. Khi chàng chỉ tay vào mấy thứ vũ khí, các chiến binh sốt sắng mang đến cho chàng một đống lao, cung, tên, mộc để chàng tự chọn. Người bạn mới của chàng tặng luôn con dao của mình như một kỷ niệm về chiến công giết sư tử. Cả làng ai cũng sẵn lòng tặng Tácdăng bất cứ thứ gì mà chàng tỏ ra thích thú. Chàng đã có tất cả những thứ cần thiết mà chẳng cần dùng bạo lực để chiếm đoạt. Vậy mà xuýt nữa thì chàng giết chết người đàn ông da đen - một người dũng cảm, lúc này đang hết lòng chiều chuộng và mến yêu chàng. Nhìn con người đáng mến ấy, chàng cảm thấy xấu hổ. Chàng thầm hứa rằng, từ nay chàng sẽ không bao giờ giết người nếu như người đó không phải là kẻ thù quá ư tàn bạo đối với mình và với người khác. Chợt chàng nhớ tới Rôcốp. Chàng ước gì chàng gặp Rôcốp trong rừng sâu này. Những người như Rôcốp thì không đáng sống. Hình ảnh gã trai xun xoe lấy lòng Hadel Stroong lại hiện lên trước mặt chàng khiến chàng càng ghê tởm. Còn có kẻ nào đáng trừng phạt hơn hắn nữa!
Ngay trong đêm ấy cả làng không ngủ. Mọi người đốt lửa đến tận sáng và mở một đại tiệc để chào mừng vị khách da trắng. Tácdăng ăn thit ngựa vằn và phải uống mấy gallon rượu ngô nặng đến cháy cổ. Trong khi ngắm nhìn các chiến binh da đen cầm đuốc nhảy múa, Tácdăng chợt nhận ra những nét độc đáo trên khuôn mặt và cơ thể của họ. Người nào cũng cân đối, cao lớn. Mũi họ không ngắn, môi họ không dày như những người da đen lạc hậu ở vùng biển phía Tây. Khuôn mặt họ có vẻ thanh tú, lịch sự và trung thực hơn. Phụ nữ và một số đàn ông mang những đồ trang sức bằng vàng rất nặng trên ngực và cổ tay. Thấy Tácdăng nhìn các đồ trang sức có vẻ tò mò, một người đang nhảy liền tháo chiếc vòng vàng của mình ra, bắt Tácdăng phải nhận như một món quà kỉ niệm. Chàng xem chiếc vòng cẩn thận và khẳng định rằng nó là vàng nguyên chất. Chàng rất ngạc nhiên vì lần đầu tiên chàng gặp một bộ lạc châu Phi đeo đồ trang sức bằng vàng. Chàng hỏi mọi người lấy vàng ở đâu, nhưng chàng không hiểu câu trả lời của họ.
Một vũ điệu vừa kết thúc, Tácdăng đứng dậy và ra đi, mặc cho mọi người khăng khăng giữ chàng ở lại. Chàng cảm thấy khó chịu với các thứ ruồi muỗi lúc nào cũng luẩn quẩn quanh chàng. Không khí trong làng tuy ấm cúng tình người nhưng lại đủ các thứ mùi ô nhiễm.
Những người da đen tiễn chàng, khi đến một cây cao, cành lá xum xuê rủ xuống tận hàng rào đầu làng, chàng vẫy tay chào rồi nhảy vọt lên ngọn cây, nhanh như con khỉ Manu. Mọi người ngửa mặt nhìn theo, kêu lên kinh ngạc. Họ gọi ầm lên, nhắc chàng sớm quay lại chơi với họ nhưng không nghe thấy chàng trả lời. Chỉ có ngọn cây khẽ rung lên, vị khách của họ đã biến mất như một cơn gió thoảng.
Đêm ấy, Tácdăng ngủ trên một ngọn cây cao. Một ngày của chàng qua đi với bao nhiêu biến cố. Vì vậy vừa đặt mình vào một chạc cây, chàng đã thiếp đi. Sáng sớm hôm sau, chàng quay vào làng. Chàng vào làng cũng bất ngờ như đêm qua chàng đột ngột bỏ đi. Thoạt đầu mọi người hoảng hốt vì thấy có bóng người lạ. Nhưng khi nhận ra chàng, họ reo ầm lên, chạy ra đón. Cả ngày hôm ấy, chàng cùng các chiến binh của bộ lạc tiến hành một cuộc đi săn thật quy mô. Sử dụng các thứ vũ khí thô sơ của bộ lạc, chàng làm mọi người thán phục vì sự khéo léo và dũng mãnh của mình.
Một tuần liền chàng sống với những người bạn mới, cùng họ đi săn trâu rừng, ngựa vằn và sơn dương. Các loài thú đó là nguồn thực phẩm chủ yếu của bộ lạc. Ngôn ngữ của bộ lạc này khá đơn giản, nên chẳng mấy ngày chàng đã học được và làm quen nhanh chóng với các tập quán, nghi lễ của dân làng. Chàng rất mừng vì đây không phải là một bộ lạc ăn thịt người. Nghe Busuli, người bạn chiến đấu của chàng kể lại, Tácdăng mới biết rằng họ vốn là một bộ tộc lớn, sống ở Bắc Phi, vì sự săn đuổi, tàn sát của bọn chúa nô lệ, bộ tộc bị chết dần chết mòn và trôi dạt tới rừng này.
- Chúng đã giết chúng tôi như giết súc vật - Busuli nói - Đàn ông thì chúng đánh cho đến chết. Còn đàn bà thì chúng vồ lấy như vồ những con cừu. Chúng tôi đã nổi dậy chiến đấu nhiều năm liền. Nhưng cung tên giáo mác không thắng nổi những cái ống thổi lửa biết giết người từ xa. Người khỏe nhất trong bộ lạc chúng tôi ném lao cũng không xa bằng cục chì của chúng thổi ra. Khi bố tôi còn trẻ, bọn Ả rập lại kéo đến lần nữa. Lúc đó Khambi đang làm thủ lĩnh liễn kêu gọi mọi người theo ông ta đi về phương nam. Chúng tôi đến một nơi thật xa để bọn Ả rập không thể tìm thấy. Mọi người ra đi. Dọc đường, núi cao và rừng rậm, nhiều người đã chết vì đói, vì hổ vồ, vì trượt chân rơi xuống vực thẳm. Chúng tôi đã đi tìm nhiều chỗ, nhưng không đâu tốt bằng đây.
- Từ hồi đó đến giờ, bọn cướp không đến chứ? - Tácdăng hỏi.
- Cách đây một năm, có một đám Ả rập mang lính Mãn Châu mò tới đây. Chúng tôi đã đánh đuổi và giết được mấy đứa.
Busuli vừa kể vừa mân mê chiếc nhẫn trên ngón tay. Chiếc nhẫn gợi cho Tácdăng nhớ tới cuộc sống của người văn minh. Họ coi nhẫn vàng là biểu hiện của sự giàu sang và đẹp đẽ.
- Mẩu vàng này anh lấy ở đâu, Busuli? - Tácdăng chỉ tay vào chiếc nhẫn.
Chàng da đen chỉ tay về hướng tây - nam, trả lời:
- Cách đây khoảng một tháng đường đi.
- Bạn đến đấy rồi à?
- Không, cách đây mấy năm có một nhóm người trong bộ lạc chúng tôi tới đó. Lúc bấy giờ bố tôi còn là một chiến binh trẻ tuổi. Ông cùng mọi người đi tìm đất ở cho bộ lạc. Nhóm người này đã gặp một làng có rất nhiều nhà to. Nhà dựng bằng đá, tường xây rất dày. Họ có nhiều thứ bằng vàng như thế này. Trong họ thì đẹp, nhưng họ rất ác. Họ tấn công chúng tôi. Người làng tôi phải đánh trả và bỏ chạy lên núi cao, chờ trời tối. Khi đám người độc ác đó trở về làng, người làng tôi mới bò xuống và lấy được những thứ vàng này ở các xác chết. Từ đó đến giờ, không ai đến đấy nữa. Chúng tôi gọi bọn người ở đấy là quỷ. Họ không trắng như bạn, không đen như tôi, nhưng có nhiều lông giống như vượn ấy. Họ xấu lắm. Khambi không thích đến đấy.
- Những người đi cùng Khambi hồi ấy có ai còn sống không? - Tácdăng hỏi.
- Oadiri, thủ lĩnh của chúng tôi - Busuli trả lời - Lúc bấy giờ Oadiri còn trẻ. Ông ấy đi bảo vệ Khambi là cha mình.
Ngay đêm ấy Tácdăng ngồi nói chuyện với Oadiri. Ông già nói cho Tácdăng biết rằng c