← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 4-6 Chú báo Sêta

CHƯƠNG 4-6

chú báo sêta

rong mấy ngày tiếp theo, Tácdăng dành thời gian trau chuốt các loại vũ khí và đi dạo mấy vòng trong rừng sâu. Chàng đã thay sợi dây cung bằng một đoạn ruột hươu phơi khô. Thật ra dây cung tốt nhất là dây làm bằng ruột hổ. Nhưng hiện tại chàng chưa săn được con nào. Sẵn thời gian, chàng bện một cuộn dây thừng bằng một thứ cỏ khô rất dai. Ngoài ra, chàng còn nạo mỏng da hươu làm một chiếc quần ống lững và một sợi dây lưng rất đẹp. Xong xuôi công việc, chàng đi vòng xung quang, tìm hiểu địa thế khu rừng. Trông thấy sớm sớm mặt trời nhô lên từ mặt biển, nhưng chàng vẫn chưa tin rằng mình đang sống ở bờ tây của lục địa châu Phi. Còn nếu cho rằng nơi chàng sống là vùng Đông Phi thì cũng rất khó tin. Bởi vì con tài Kin xây chở chàng đến đây không thể bơi qua Địa Trung Hải, qua keeng đào Xuy ê và bờ biển Hồng Hải. Nó cũng không đủ khả năng bơi qua mũ Hảo Vọng.

Tácdăng hoàn toàn không biết mình đang ở nơi đâu. Càng lang thang trong rừng, chàng càng thấy lòng mình trống rỗng. Ước gì tìm được nơi đây một người bạn của thời thơ ấu! Nỗi khát khao tình bạn cồn daayj trong lòng làm cho cổ chàng tức nghẹn. Chàng biết rằng giữa chàng và những con vượn khôn ngoan nhất trong bộ lạc rất ít những điểm tương đồng. Nhưng dù sao có một con thú làm bạn thì vẫn còn hơn là cô độc, vò võ một mình giữa chốn rừng hoang.

Lang thang mãi cũng chán, chàng lại leo cây hái hoa quả và sục sạo quanh những gốc cây mục để tìm bắt những con bọ cánh cứng. Món thực phẩm tươi sống này đã bắt đầu hợp với khẩu vị của chàng. Đi khoảng một dặm, chàng chợt phát hiện ra mùi hôi của con báo Seeta. Rõ ràng là con báo này đang ở đầu chiều gió thổi. Thật may mắn ! Chàng đang cần một sợi dây cung và một bộ da làm quần áo che sương che nắng.

Vọt qua một vài cây cổ thụ, Tácdăng đã trông thấy con mèo khổng lồ đó đang nấp trong một lùm cây rậm rập. Cùng lúc ấy chàng cũng ngửi thấy mùi hôi của một đàn vượn lớn. Có thể con báo Seeta đang rình bắt vượn. Khi chỉ còn cách Seeta mấy mét, chàng trông thấy bộ lạc vượn của Acút đang nằm nghỉ ngơi trên một khoảng rừng trống. Bên cạnh những con vượn cái nặng nề, lười nhác, lũ vượn con hiếu động vẫn chí chóe nô dỡn với nhau. Một vài con vượn đực đang tuổi lớn thì luẩn quẩn bên mấy gốc cây, bóc vỏ nhặt trứng kiến. Con vượn đứng gần Seeta lại chính là Acút.

Từ một gốc cây đổ nghiêng, báo Seeta rón rén bò dần xuống thấp. Chú vượn Acút hoàn toàn bình thản, không hề hay có con báo trên đầu mình. Tác dăng thận trọng luồn xuống thấp hơn, cho tới khi chỉ cách đầu con báo vài bước chân. Thoạt đầu chàng định sử dụng mũi giáo để phóng. Nhưng thấy cành lá quá rậm,chàng quyết định dùng dao.

Báo Seeta vừa hạ thấp hai chân sau lấy đà thì cũng là lúc Tácdăng thét lên một tiếng rồi nhảy bổ xuống lưng con báo. Nghe tiếng thết, Acút giật mình nhìn lên cao. Nó trông thấy đè lên luwogn con báo là con khỉ da trắng đã từng xiết cổ, khuất phục nó cách đây mấy ngày.

Hai hàm răng của Tác dăng cắn ngập sau vào ốt con báo, cánh tay trái ghì chặt cổ, còn cánh tay phải thì thọc dao tới tấp vào bụng địch thủ. TRông thấy cảnh tượng dữ dội đó, Acút vội nhảy sang bên.

Trong giây lát, cả hai địch thủ rơi phịch xuống đất. Báo Seeta rống lên, nghiến răng giận dữ. Nhưng nó vẫn bị con khỉ da trắng siết chặt cổ họng. Mũi dao bằng đá cứ mỗi lúc một ngập sâu vào vùng tim của nó. Không đầy nửa phút sau, con báo rống lên một tiếng cuối cùng rồi nằm nhũn ra mặt đất. Chàng trai cảu rừng già đạp chân lên cổ báo, ngửa mặt lên cao, dồn đầy hơi trong lồng ngực rồi thét vang tiếng thét chiến thắng. Acút và đàn vượn giương tròn mắt, hết nhìn cái xác con báo lại nhìn cơ thể tráng kiện của chàng trai.

Tác dăng quyết định phải nói. Bởi vì chàng thừa biết cái trí nhớ ngắn ngủi và khả năng suy nghĩ chậm chạp của loài vượn.Chàng phải nói để làm sáng tỏ mọi điều cho chúng hiểu. Nếu chàng im lặng bỏ đi, chàng sẽ bỏ mất cơ hội kết bạn với chúng.

- Ta là Tácdăng – con trai của loài vượn – chàng quý tộc tên tuổi của Luân Đôn lớn tiếng giải thích – Ta là một người thợ săn tài ba – một võ sĩ ! Ở “vùng nước lớn” ta đã để cho Acút được sống. Ta đã có thể giết Acút và chiếm quyền thủ lĩnh. Nhưng ta đã không làm điều đó. Bây giờ ta đã giết Seeta để cứu Acút. Từ nay nếu Acút và bộ lạc Acút gặp nạn cứ gọi Tácdăng! Hãy gọi thế này! Chàng trai chụm môi hú lên một tiếng, đúng tiếng của loài vượn gọi nhau khi gặp nguy hiểm – Ngược lại, khi nào Tácdăng gọi như thế chúng mày cũng phải chạy đến giúp Tácdăng, được không?

- Hu hu hu ! Acút gật đầu đồng tình. CẢ đàn vượn cũng đồng thanh kêu lên theo Acút.

Hiệp ước hòa bình và tình hữu nghị đã được ký kết quá ư đơn giản và chóng vánh. Ngay sau đó cả đàn vượn lại tản đi, tiếp tục công việc tìm kiếm thức ăn. Tácdăng cũng nhập luôn vào đàn, hí húi bới tìm côn trùng bên các gốc cây. Trong lúc kiếm ăn, Acút gần như không rời xa Tácdăng. Thỉnh thoảng, đôi mắt hõm sâu, nhỏ tí của nó lại đăm đăm nhìn chàng trai. Hình như nó đang suy ngẫm điều gì đó. Cuối cùng nó bước lại bên Tácdăng và làm một việc mà bao năm sống cùng loài vượn Tác dăng chưa hề chứng kiến: Nó cầm một trái cây chín đỏ , thơm phức đặt vào lòng bàn tay vị ân nhân da trắng của mình.

Suốt dọc con đường tìm kiếm thức ăn, cơ thể cân đối vạm vỡ của chàng huân tước nước Anh cứ thấp thoáng khi ẩn khi hiện giữa những chiếc lưng khom của loài vượn. Thỉnh thoảng chàng lại vấp phải một con vượn , nhưng tất cả đều nhường nhịn và tỏ ra đã quen với sự có mặt của chàng. Tất nhiên, mỗi khi chàng đứng gần những con vượn mẹ đang nuôi con nhỏ, chúng cũng nhe răng hăm dọa chàng. Một vài con vượn trẻ cũng gầm gừ khó chịu khi chàng làm chúng giật mình. Nhưng xét cho cùng tất cả mọi hành vi của chúng không có biểu hiện gì của sự thù địch.

Tácdăng cảm thấy dễ chịu trong sinh hoạt cộng đồng với bộ lạc vượn Acút. Chàng cố tự kiềm chế để không gây ra những xung khắc bất lợi. Trong những trường hợp cần thiết, để nhắc nhở những con vượn đực nóng nảy, dảng trí, chàng cũng nhe răng, cũng gầm gừ như chúng. Ngày mỗi ngày, chàng quen dần với cuộc sống bầy đàn, tưởng như xưa kia chưa bao giờ chàng biết tới cuộc sống của loài người văn minh. Từ sáng tới lúc mặt trời lặn, chàng lang thang bên những người bạn mới. Chàng biết rằng trí nhớ của loài vật rất ngắn ngủi, rất khó tạo ra được ở chúng một ấn tượng lâu bền. Chính vì vậy, ngoài nỗi nhớ Potơrôva và đứa con bé bỏng của mình chàng vẫn ước ao một ngày nào đó tìm ra dấu vết của loài người văn minh.

Có một buổi sáng chàng lên đường vào rừng cho tới tận xế chiều. Buổi sáng hôm sau khi tỉnh giấc, chàng thấy mặt trời mọc phía bên phải.Vì vậy chàng cho rằng bờ biển đang lượn dần ra hướng tây. Chàng lại vội vã lên đường, thoăn thoắt chuyền từ cành cây nọ sang cành cây kia như một con sóc. Ngay đêm hôm ấy mặt trời lại lặn xuống biển , đối lập với đất liền. Mỗi lúc Tácdăng một lo lắng hơn. Hình như bọn Rôcốp đã thả chàng xuống một hòn đảo hoang vắng! Rất tiếc là chàng đã biết điều đó hơi muộn! Thật khó mà chờ đợi được ở Rôcốp một điều gì tử tế. Bởi vì còn có gì tồi tệ hơn cuộc sống trên hoang đảo - một cuộc sống bị bao vây giữa bốn bề mây nước!

Chắc chắn là Rôcốp đã quay tàu đi một dải đất nào đó. Có thể hắn đã thả thằng Ghieecsh bé bỏng của Tácdăng vào một bộ tộc dã man đúng như hắn đã đe dọa trong thư. Tácdăng cảm thấy ớn lạnh cả thân thể, khi hình dung đứa con trai của mình đang nhảy nhót cuồng loạn giữa những người da đen mông muội. Biết rồi cái gì sẽ đến với nó? Bao nhiêu năm sống trong rừng già và chung đụng với những bộ tộc châu Phi, chàng thừa hiểu thế nào là cuộc sống bộ tộc. Bất kỳ cuộc sống nào cũng có những niềm vui, cũng có những giờ phút thảnh thơi, no đủ, đôi khi rất lãng mạn. Nhưng nếu nhìn nhận một cách toàn diện, cuộc sống của những bộ tộc châu Phi nơi đây vẫn chỉ là những chuỗi ngày cực nhọc, sợ hãi, đau khổ và tuyệt vọng.

Nếu như đứa con trai của chàng bị Rô cốp thả vào một bộ tộc dã man nào đó, có nghĩa là con đường trở về với loài người văn minh đã khép chặt trước mặt nó. Nó sẽ hoàn toàn không biết gốc tích của mình và lớn lên như một gã thổ dân man rợ. Còn có điều gì khủng khiếp hơn khi nó sống với những bộ tộc ăn thịt người. Chao ôi! Tácdăng thầm kêu lên khi nghĩ tới hàm răng nhọn lởm chởm dưới hai cánh mũi đục thủng, lủng liễng chiếng khong sắt nặng nề, bóng nhẫy và khuôn mặt loang lỗ những vết sơn xanh đỏ. Lẽ nào đứa con trai của chàng lại trở thành một người như thế?

Chàng cảm thấy cổ họng mình tắc nghẹn. Ước gì giờ này chàng tóm được Rô cốp trong tay!

Và còn Gian nữa ! Giờ này em ở nơi đâu? Chắc chắn là Gian đang vô cùng lo sợ và đau khỏ vì cùng một lúc mất cả chàng lẫn Giếch. Nỗi đau đớn của Giang chắc cũng chẳng kém những đau khổ mà chàng đang phải chịu đựng nơi đây. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, chàng lại tự an ủi rằng, ít nhất thì trong ba người, vẫn còn Gian chưa bị ám hại. Dù sao Gian của chàng vẫn sống an toàn ở Luân ĐÔn và không biết rõ những bất hạnh của chồng con…Thật tội nghiệp cho Tácdăng ! Chàng không hề hay biết số phận của vợ chàng. Mà có lẽ như thế còn hơn. Nếu như chàng biết rõ toàn bộ sự thật về Gian, nỗi đau xót , ân hận của chàng còn tăng lên gấp bội.

Tácdăng vừa đi vừa nghĩ. Chàng đi mà không hề biết mình đanh ở nơi đâu. Bước chân của chàng cũng buồn bã và rối bời như những ý nghĩ trong đầu chàng. Đột nhiên chàng nghe thấy có tiếng rên ri vang lên từ đâu đó , nghe rất lạ. Chàng nhẹ chân tiến về phía có tiếng động. Chỉ một lát sau chàng tìm ra nguyên nhân. Đó là một con báo rất to đang nằm mắc kẹt dưới một cành cây lớn bị gió làm gẫy. Con báo bị chặn ngang bụng. Trông thấy Tácdăng đến gần, con báo gầm gừ, nhe răng ra dọa.Nó cố vùng vẫy để thoát ra cành cây nặng. Nhưng dù giãy dụa đến mấy nó cũng chỉ làm bật được vài mảnh võ cây mà thôi. Khúc cây đồ sộ như đã dồn hết trọng lượng lên thân nó.

Tácdăng lùi lại mấy bước. Chàng rút một chiếc tên, đặt vào cung rồi kéo dây. Chàng ngắm mũi tên vào ngực con báo. Cần phải kết thúc nỗi đau đớn tuyệt vọng của nó.! Tácdăng nghĩ bụng rồi giương thẳng cánh cung. Nhưng đột nhiên chàng lại chùn cánh tay. Có một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu. Tại sao chàng lại không giải phóng cho nó, bảo vệ sự sống và tự do của nó? Một việc mà chàng hoàn toàn có thể làm được. Hình như con báo đã không chịu đựng nổi sức nặng của cành cây cổ thụ nữa. Nó chỉ còn biết động đậy bốn ống chân một cách yếu ớt.

Tácdăng đút ống tên vào ống,hất cánh cung chéo qua vai rồi bước lại gần con thú. Từ mép con thú vang lên một tiếng rên nho nhỏ. Tiếng rên vừa có vẻ nũng nịu vừa có vẽ như hài lòng, chẳng khác gì tiếng một con mèo ăn no, nằm sưởi nắng. Con báo mở to mắt nhìn Tácdăng .Ánh mắt của nó thật khó hiểu, nửa như đe dọa, nửa như van lơn, cầu cứu. Tình thế lúc này thật khó xử. Nếu Tácdăng cứu con thú, chàng phải tiến lại gần nó và tập trung sức lực nâng bổng cành cây lên cao. Khó mà lường hết điều gì sẽ xẩy ra. Có khi làm phúc phải tội. Sau khi con báo được giải thoát, nó có thể lao thẳng vào cắn xé người đã cứu nó. Nhưng Tác dăng không sợ. Chàng tin vào sức mạng của mình và tin vào những điều tốt đẹp do chính tay mình làm nên. Không do dự nữa, chàng tiến lại sát cành cây, chỉ còn cách con vật vài bước chân. Chàng lên tiếng an ủi con vật. Nghe tiếng người vỗ về, con mèo khổng lồ lập tức quay đầu trở ra rồi nhe hai hàm răng trắng lạnh. Nhưng rõ ràng cử chỉ của nó chỉ có vẻ như là một phản xạ tự vệ hơn là một phản ứng giận giữ. Tácdăng chọn một vị trí thuận lợi để nhấc cành cây lên. Chàng đứng sát con báo tới mức ống chân chàng đã chạm vào lớp lông mịn như nhung của nó. Chàng cúi đầu luồn qua cành cây, ghé vai vào rồi dồn sức đứng dậy. Cành câu thực sự nặng hơn rất nhiều so với dự đoán. Nhưng chỉ sau một vài giây cố gắng chàng đã nâng được cành cây từ từ lên cao. Con báo cảm thấy sức mạnh trên mình nó mỗi lúc một nhẹ dần. Nó đã thấy nhẹ nhõm dễ thở. Bất thình lình, nó vọt ra khỏi khúc gỗ. Ngay trong giây lát ấy Tácdăng cũng thả cành cây, đứng dậy thủ thế.

Hai con thú nhìn thẳng vào mặt nhau. Đứa con trai của rừng xanh tự nhiên bật cười. Thật là một việc làm ngộ nghĩnh và liều lĩnh. Chàng đã chơi một canh bạc lớn, đã đem sự sống của mình ra để đánh cược lấy sự sống cho một con thú dữ - một con thú mà ngay trong giây phút này, sau khi được cứu mạng, nó có thể xông vào cắn chết chàng tức khắc. Nhưng con báo Seeta đã không làm điều đó. Sau khi thoát khỏi cành cây đáng ghét nọ, nó đứng im nhìn Tácdăng đang thong thả leo lên cành cây cao. Ánh mắt của nó giống như cái nhìn của một con chó trung thành dõi theo bước chân ông chủ.

Đi được một lúc, Tácdăng vẫn thấy con báo Seeta lẽo đẽo bám theo mình. Chàng dừng lại trên cành cây, cúi xuống nhìn con báo phía dưới. Phải chăng Sêta đang đói và đang chuẩn bị tấn công chàng? Nhưng sau một giây quan sát, chàng hiểu rằng Sêta đang muốn tiễn chàng. Hành động đó chỉ có ý nghĩ bộc lộ lòng biết ơn.

Một lát sau Tácdăng đánh hơi được mùi hươu. Từ trên cành cao chàng nhảy bổ xuống cổ con hươu rồi cất tiếng gọi Sêta. Đó là tiếng gọi săn mồi mà chàng đã thuộc sau bao lần tiếp xúc với loài báo Sêta. Chàng vừa dứt tiếng kêu, từ phía bên trái đã vang lên tiếng cây rừng sột soạt. Cơ thể mềm mại, uyển chuyển của Sêta đã lộ ra bên lùm cây. Vừa ngửi thấy mùi máu hươu, Sêta đã vọt tới bên cạnh Tácdăng.

Không đầy nửa phút sau, cả hai con thú, kẻ dùng tay, kẻ dùng mõm cùng vui vẻ thưởng thức món thịt hươu tươi nóng.

Từ ngày hôm đó, Tácdăng và báo Sêta đã trở thành một cặp thợ săn lão luyện gắn bó với nhau, cùng lang thang trong rừng già. Một hôm Sêta bắt được một con trâu rừng. Sêta gọi Tácdăng đến cùng ăn. Đôi bạn tri kỷ đang vui vẻ xé thịt trâu rừng thì từ lùm cỏ lau , sư tử Numa xông ra. Thét lên một tiếng hăm dọa, Numa nhảy bổ vào cướp mồi. Báo Sêta buộc phải chạy vào bụi rậm gần đó. Tácdăng cũng nhảy lên cành cây bên cạnh. Sau khi chọn được tư thế thuận lợi, Tácdăng rút sợi dây thòng lọng trên vai xuống, buộc một đầu dây vào cành cây rồi tung vòng thòng lọng xuống đầu sư tử. Khi võng dây đã chụp đúng cổ sư tử Tácdăng rút mạnh sợi dây và lên tiếng gọi Sêta. Ngay lập tức Sêta quay trở lại. Tácdăng nhảy xuống đất, rút dao tấn công từ bên trái. Trong khi đó Seeta tấn công từ bên phải. Con sư tử chưa kịp định thần đã thấy mình bị treo lên khỏi mặt đất. Móng vuốt của Sê ta và mũi dao của Tácdăng tới tấp bổ vào hông sư tử. Chỉ vài phút sau cả dải rừng già đã vang lên tiếng thét chiến thắng của loài vượn người và loài báo hoa.

Cách đó không xa có một đoàn thuyền độc mộc của những chiến binh da đen, bôi mặt sặc sỡ đang thong thả bơi dọc bờ sông. Các chiến binh đang bơi, đọt nhiên phải dừng tay chèo nghe ngóng. Chưa bao giờ họ nghe thấy một thứ âm thanh lạ tai đến thế. Tất nhiên không phải tiếng song ca mà chỉ là tiếng hả hê của hai loài thú dữ.

Thủ lĩnh Mugambi

Càng đi sâu vào lục địaTácdăng càng tin rằng mình là thành viên duy nhất trên trái đất đang sống trên hoang đảo.Chàng không hề tìm thấy một vết tích nào của cuộc sống loài người.Những rừng cây,đồng tim mình đập rộn rã vì trước mặt có dấu chân người.Nhưng cuối cùng chàng lại hoàn toàn thất vọng vì đó chỉ là một ảo ảnh, một dấu chân chỉ do đôi mắt quá mong mỏi và nổi niềm khát khao cháy bỏng của chàng.

Sau khi giết chết sư tử Numa, một hôm Tácdăng và báo Sêta gặp bộ lạc vượn của Acút. Vừa trông thấy Sêta, cả đàn vượn bỏ chạy toán loạn. Nhưng Tácdăng vội gọi đàn vượn trở lại. Chàng nảy ra ý định tạo điều kiện cho đàn vượn kết thân với kẻ thù truyền kiếp của chúng. Mặc dù vốn từ ngữ của đàn vượn rất ít ỏi, nhưng cuối cùng chàng cũng tìm cách làm cho chúng hiểu ý định của mình. Chàng vừa nói vừa ra hiệu cho chúng biết rằng Sêta là một người bạn tốt của chàng, vì vậy cũng có thể trở thành bạn tốt của cả bộ lạc. Sau một hồi cố gắng thuyết phục cuối cùng đàn vượn cũng đã hiểu. Điều nan giải hơn cả đối với chàng là thuyết phục Sêta - kẻ hoàn toàn bất đồng ngôn ngữ. Chàng ra hiệu cho Sêta hiểu rằng, từ nay phải nhớ không được săn bắt loài vượn. Sêta quả thực là loại vật ương bướng và chậm hiểu. Mặc dù Tácdăng đã dặn dò kỹ lưỡng mấy ngày sau chàng vẫn thấy Sêta bắt nạt đàn vượn. Bực mình, Tácdăng phải dùng tới một biện pháp có lẽ là hiệu quả nhất đối với Sêta. Chàng đẽo một chiếc dùi cui rất chắc, thủ bên hông. Mỗi lần trông thấy Sêta chuẩn bị gây sự với một con vượn nào đó, Tácdăng lại rút dùi cui cho Sêta một bài học. Thật kỳ lạ là mặc dù bị dùi cui quật vào mõm, Sêta vẫn không hề nổi nóng, chống lại Tácdăng. Con mèo khổng lồ ấy vẫn tỏ ra ngoan ngoãn, trung thành. Có lẽ chiếc dùi cui của Tácdăng đối với Sêta cũng chẳng khác gì chiếc thước kẻ của ông thầy đối với một chàng học trò lớn tuổi.

Thế rồi ít lâu sau, giữa rừng già nguyên sinh đã xuất hiện một cộng đồng tam thể: Một con người, một con báo và một đàn vượn. Cộng đồng ấy kề vai sát cánh bên nhau,cùng nhau săn mồi,nhặt nhạnh hoa quả và thỉnh thoảng lại cùng nhau chia sẽ miếng ăn. Thật khó mà hình dung nổi lại có một xã hội kỳ quặc thế! Tất nhiên kẻ được tôn trọng nhất trong xã hội ấy là một con thú có làn da mịn màng, trắng hồng- một người mà cách đây mấy tháng đi tới bất kỳ một salông quý tộc nào cũng dễ làm các tiểu thư bối rối tâm can.

Mấy tuần trôi qua, dần dần cộng đồng thú rừng ấy tan rã, mỗi kẻ bỏ đi kiếm ăn một hướng,Tácdăng cũng leo lên cây, hướng ra bờ biển. Tới nơi chàng nằm trên bãi cát, ngửa mặt nhìn lên trời, sưởi nắng. Vẫn vơ trong ý nghĩ về Luân Đôn, chàng không phát hiện ra một cặp mắt từ góc núi đang căng lên quan sát chàng. Đó là cặp mắt của một chiến binh da đen. Người chiến binh da đen nhìn Tácdăng,mồm cứ há ra vì kinh ngạc. Chưa bao giờ anh ta trông thấy một người rừng da trắng cao lớn như thế. Tại sao gã người rừng da trắng này có thể nằm trên cát nóng mà chịu đựng ánh mặt trời thiêu đốt?

Người chiến binh da đen quan sát giây lát rồi lại ra hiệu cho nhóm người sau lưng mình. Ngay lập tức từ các bụi cây rậm rạp nhô lên những tấm lưng trần, cúi lom khom di động lặng lẽ về phía Tácdăng. Nằm trên bờ cát biển, Tácdăng không hề biết mình đang bị bao vây. Các chiến binh da đen này là những người đàn ông cao lớn, đầu đội lông chim, tóc tai rũ rượi, mặt mũi loang lỗ những vết sơn đủ màu. Vong vây mỗi lúc môt xiết lại hẹp dần. Các chiến binh da đen đã xiết chặt vũ khí trong tay.

Tácdăng thở dài. Chàng đang nhớ tới cái miệng thơm mùi sữa mẹ của thằng Giếch, con chàng. Chàng nhớ tới những cử chỉ dịu dàng và tiếng nựng con của vợ. Gian Potơrôva! Chắc giờ này em đang đau khổ vì nhớ tơi con và anh. Những khóm hoa hồng đại đoá anh trông bên cửa sổ phòng ăn cho em đã đã nở hoa chưa? Những bông hồng liệu có làm em khuây khoả nỗi nhớ thương?... Tácdăng đắm mình trong hồi ức. Những ý nghĩ và kỷ niệm xa vời đã làm cho các giác quan của chàng trở nên chai lỳ, mất hết độ nhạy cảm. Nhóm người da đen đội cỏ nguỵ trang trên đầu tiến tới gần chàng, thỉnh thoảng gây ra tiếng động sột soạt mà chàng không hề biết. Chỉ tới khi chúng áp sát tới sau lưng chàng mới sực tỉnh.

Như một con hổ giật mình, Tácdăng chồm dậy, ngả người về sau sẵn sàng nghêng chiến. Gã da đen đầu tiên vừa xông tới gần đã bị ngã vật xuống vì ngọn giáo của Tácdăng. Đám người tua tủa gươm giáo và lông chim vây quang Tácdăng chẳng khác gì một cuộc khiêu vũ. Đứng giữa vòng vây, chàng khổng lồ da trắng phải sử dụng đủ các thứ vũ khí có trong tay và vũ khí cướp được của đối phương. Những mũi đâm chính xác, những cú đá mạnh mẽ như trời giáng của Tácdăng làm cho đám chiến binh da đen gục ngã như rạ. Vòng vây mỗi lúc một náo loạn rồi giãn rộng ra ngoài. ĐÁm người da đen quyết định rút lui khỏi bãi cát tụ tập phía mép rừng, bàn mưu tinh kế. Tácdăng không bỏ đi,chàng vứt vũ khí, buông tay lặng lẽ đứng nhìn thèo đám người.

Không đầy nửa phút sau, đám người da đen lại mở đợt tấn công thứ hai. Lần này, mỗi đứa đều có một mũi lao cực dài. Chúng kề vai sát cánh bên nhau, kết chặt thành một mũi tiến công hình cánh cung. Nhìn tư thế tấn công của chúng, Tácdăng biết rằng chàng khó lòng thoát khỏi trận mưa lao mà chúng chuẩn bị phóng tới. Nếu như chàng muốn sống, chẳng còn cách nào khác là xông thẳng vào giữa hàng rào người. Điều đó quá mạo hiểm và rất ít hy vọng... Tình thế mỗi lúc một nguy kịch. Đám người vẫn mím chặt môi lừ lừ tiến đến gần. Bốn bề yên tĩnh. Chỉ có tiếng chân kẻ thù gẫm trên cát lạo xạo phía trước và tiếng sóng biển rì rao sau lưng.

Chợt một ý nghĩ loé lên trong đầu Tácdăng. Cái ý nghĩ ngộ nghĩnh đó khiến chàng bật cười.

Đám người cảm tử đang chuẩn bị phóng lao thfi giật mình đứng lại. Trước mặt họ, người khổng lồ da trắng đột nhiên thét lên một tiếng vang động cả bãi biển. Tiếng thét thật man dại, nửa như tiếng vượn hú nửa như tiếng báo gầm. Đám người da đen dừng chân,nhìn nhau. Rõ ràng từ xưa tới nay họ chưa bao giờ nghe thấy tiếng kêu thét kỳ quái thế. Làm sao mà từ cổ họng người có thể phát ra thứ tiếng động khủng khiếp như vậy?

Mặc dù kinh ngạc và do dự, đám người da đen chỉ dừng cân một lát rồi hích vai nhau tiến lên. Cái gã da trắng kia có phải là thần thánh gì! Xét cho cùng thì gã vẫn chỉ là một con người bằng xương bằng thịt.

Đột nhiên từ cánh rừng sau lưng vang lên tiếng cành cây gẫy răng rắc. Chính cái tiếng động quen thuộc của rừng già này mới làm những người da đen của bộ tộc Oagambi sợ hãi. Họ trợn tròn mắt, nhìn nhau hoảng hốt. Như bị một dòng nước lạnh chảy xuyên qua cột sống, cuốn trôi mất lòng can đảm còn sót trong máu,đám người Oagambi bủn rủn chân tay,quay đầu về phía cánh rừng. Con báo Sêta hung dữ đã vọt tới. Sau lưng con báo, một đàn vượn đen ngòm bám theo.

Đàn thú của Tácdăng đã có mặt kịp thời.

Đám chiến binh Oagambi chưa kịp hoàng hồn đã bị Tácdăng và đàn thú của chàng tấn công từ cả hai phía. Họ quẳng lao xuống đất, dùng dùi cui chống đỡ. Nhưng những mẫu dùi cui ngắn ngủn có nghĩa lý gì trước hàm răng trắng nhở của báo Sêta. Đàn vượn của Acút cũng xông vào túm chân, giật vũ khí của đám người da đen. Tácdăng tả hữu xung đột ,với dao nhọn trong tay lần lượt hạ từng tên một. Vững tin vì có ông chủ bên canh, Acút- thủ lĩnh của đàn vượn - hào hứng chiến đấu, cố gắng chứng minh ưu thế của mình trước bộ lạc. Cứ mỗi lần quật ngã được đối thủ nó lại kêu lên thật to cho Tácdăng quay sang nhìn mà ghi nhận công lao của nó.

Những người da đen không chịu đựng nổi hàm răng khát máu của báo Sêta và đàn vượn đực. Họ vứt bỏ vũ khí chạy thục mạng. Nhưng vì kiệt sức,không ai chạy thoát khỏi chiến địa. Kẻ duy nhất chạy được là Mugambi - thủ lĩnh của đám chiến binh Oagambi. Tácdăng chạy theo Mugambi. Phải mất công sục sạo tìm kiếm khá lâu,chàng mới phát hiện ra chàng thủ lĩnh cao cẳng này trên mỏm núi cong cong hình lưng lược. Mugambi đang lom khom bám vào vách đá tụt xuống bờ biển. Phía dưới chân anh ta là một chiếc thuyền độc mộc đang lắc lưng trong sóng.

Nhẹ nhàng như một cái bóng, Tácdăng bám sát theo kẻ sống sót. Nhìn con thuyền đang nằm chờ kẻ chạy trốn, Tácdăng chợt loé lên trong đầu một ý nghĩ: Nếu như những người da đen dã man đã đi thuyền từ đất liên tới hòn đảo này, tại sao chàng lại không dùng thuyền để thoát khỏi hòn đảo? Nếu như họ có quan hện với sự sống của hòn đảo này, tất nhiên họ phải có quan hệ với thế giới văn minh!

Mugambi đang chạy thì thấy có bàn tay ai đó cứng như sắt chộp vào vai mình. Tới lúc đó anh chàng mới biết là từ nãy giờ mình vẫn bị kẻ thù truy đuổi. Anh chàng quay đầu lại, chuẩn bị kháng cự thì đã bị quật ngã và bị đè nghiến xuống đất.

- Mày là ai? Tácdăng cất tiếng hỏi. Chàng sử dụng thứ tiếng nói thổ dân bờ biển Tây Phi.

- Tôi là Mugambi, thủ lĩnh của bộ lạc Oagambi. - Người da đen hoảng hốt đáp

- Tao sẽ tha chết cho mày- Tácdăng nói - Tao tha chết nếu như mày giúp tao thoát khỏi hòn đảo này. Mày nghĩ sao?

- Tôi sẽ giúp ông - Mugambi gật đầu - Tôi rất muốn giúp. Nhưng bây giờ ông đã giết chết hết các chiến binh của tôi rồi, tôi không biết làm cách nào để đưa ông vượt biển. Nếu muốn đi phải có người cầm chèo, cầm lái.

Tácdăng thả cho Mugambi đứng dậy. Hoá ra chàng da đen này cũng cao lớn, vạm vỡ chẳng kém gì Tácdăng. Khi đứng thẳng dậy,đối mặt với người da trắng Mugambi vẫn chưa hết sợ. Ánh mắt anh ta vừa hoảng hốt vừa lộ vẻ thán phục

- Đi theo ta,quay lại! Đứa con của loài thú lên tiếng,vẫy Mugambi theo mình về chỗ cũ.

Mugambi rụt rè đứng lại.

- Mày định trốn phải không? Tácdăng hất hàm hỏi.

- KHông phải thế. Đàn thú dữ ấy sẽ giết nốt ông và tôi đấy.

- Ta nghĩ là không - Tácdăng mỉm cười hài lòng- Chúng nó là bạn của ta đấy.

Người da đen vẫn do dự, chưa tin. Nhưng trông thấy thái độ dứt khoát của Tácdăng anh ta buộc phải đi theo.Thế là chỉ một lát sau,trên bãi biển của một hòn đảo Tây Phi đã diễn ra một cảnh tượng lý thú chẳng khác gì một màn diễn trong rạp xiếc. Đàn thú dữ vừa trông thấy hai người đàn ông,chúng đã xông tới, nhe răng gầm gừ. Tácdăng vẫn tiến thẳng vào giữa bầy thú,kéo theo người đàn ông da đen đang run lẩy bẩy.

- Đây là bạn mới của chúng ta - Tácdăng dõng dạc tuyên bố bằng ngôn ngữ của bộ lạc Acút.

Nghe Tácdăng nói, đàn vượn dừng chân, lắc lư cái đầu ra vẻ ngẫm nghĩ. tuy vậy, phải nghe Tácdăng nói một lúc nữa chúng mới đòng tình chấp nhận người đàn ông da đen sống sót làm bạn mới. Chuyện này xét ra ra cũng chẳng có gì là lạ. Cách đây ít ngày, nghe theo ông chủ, chúng đã kết bạn với báo Sêta tốt bụng.

Việc thuyết phục đàn vượn không mấy nặng nhọc. CÁi khó là thuyết phục được Sêta. Rõ ràng Sêta không đủ khả năng hiểu vì sao Tácdăng lại không cho nó xé xác nốt kẻ thù vừa dẫn về.Hắn ta cũng có màu da như thế, cũng đội vòng lông chim trên đầu như thế. Tại sao ông chủ Tácdăng lại tha cho hắn nhỉ?

Báo Sêta băn khoăn. Cũng may là Sêta lúc này không đói.Trong trận chiến đấu vừa rồi,nó đã tranh thủ chén thịt kẻ thù nên bụng vẫn còn no. Vì vậy nó chỉ lượn quanh Mugambi vài vòng, mắt lấp láy,miệng gầm gừ, ra vẻ bất bình.

Thấy Mugambi không dám rời mình nửa bước. Tácdăng không nhịn được cười. Chàng túm lấy cổ con mèo khổng lồ, kéo nó lại gần Mugambi cho nó ngửi hơi, làm quen. Sêta chấp nhận điều đó có vẽ miễn cưỡng. Còn Mugabi thì dựng hết cả tóc gáy. Từ thời cha sinh mẹ đẻ đến giờ, chưa bao giờ anh ta bị một con ác thú gí mũi, hôn vào lưng thế này! Nhưng rồi mọi việc cũng ổn thoả. Chỉ một lúc sau, Mugambi thấy Sêta hết gầm ghè với mình. Nó bắt đầu nhìn anh ta bằng cái nhìn thờ ơ, coi anh ta bình đẳng như một con vượn trong đàn. Tuy nhiên,chẳng dại gì mà đùa với lửa, Mugambi vẫn phải thận trọng giữ gìn, cố gắng không làm điều gì khiến Sêta phật ý. Bởi vì đôi lúc Sêta vẫn đảo mắt nhìn Tácdăng rồi lại nhìn Mugambi. Từ hai hốc mắt Sêta vẫn thỉnh thoảng vằn lên những tia máu đỏ.

Dưới sự điều khiển của Tácdăng, Mugambi, Sêta và Acút lên đường ra vùng đầm lầy săn hươu. Khi nghe tiếng Tácdăng vỗ tay ra lệnh, cả đoàn thợ săn cùng lao bổ về phía con mồi.Thật là một đòan thợ săn kỳ quái! Có rất nhiều con mồi vừa trông thấy đòan thợ săn đã co rúm mình, mất hết cả phản xạ tự vệ. Có con mồi trông thấy đã sợ tới mức tắt thở, Thần chết đã đến với nó ngay tức khắc, trước khi đòan thợ săn kịp đụng tới da. Mugabi có tài lấy lửa. Mỗi khi bắt được con mồi, anh ta thường nhanh tay nhóm lửa, nướng thịt. Món thịt nướng là món yêu thích nhất của Mugabi. Trong khi chàng da đên thổi lửa nướng thịt, Tácdăng đã ăn được nửa bữa. Chàng cùng ngồi ăn thịt sống với Acút với Sêta. Cả người và thú vây quanh con mồi còn ròng ròng máu tươi, dùng răng xé thịt, thỉnh thoảng vẫn gầm gừ, cáu kỉnh mỗi khi kẻ khác đụng vào phần thịt của mình.

Trong thấy Tácdăng ăn thịt sống,Mugabi lấy làm kiêu hãnh, mặc dù chẳng dám nói ra. Nhưng xét cho cùng thì Mugabi không thể coi thường Tácdăng vì điều đó. Từ bé đến lớn,Mugambi chưa bao giờ ăn thịt sống. Còn Tácdăng thì đã quen nhai thịt sống gần hai mươi năm liền. Đây không phải là một thói quen, mà là vì thịt tươi là món ăn chàng cảm thấy ngon miệng nhất. Khi ăn thịt chin,bao giờ Tácdăng cũng cảm thấy cái vị ngon ngọt của thịt tươi đã bị tiêu huỷ, chỉ còn lại cái bã. Đối với một số loài sâu bọ khác,như giun,dế,cào cào,bọ cạp - những thứ mà người văn minh mới nhìn qua đã thấy lợm giọng – Tácdăng lại rất thèm ăn. Điều đó có gì khó hiểu! Nếu ai đã quen ăn từ thuở lọt long, giun dế, cào cào vẫn có thể là một thứ cao lương mỹ vị.

Thật ra, thức ăn của loài người vô cùng phong phú. Người ta không biết tới nhiều thứ thức ăn chỉ vì không được làm quen với nó và không được ăn ngay từ thủa lọt long. Xung quanh hồ Rôdônphơ có một dân tộc nuôi rất nhiều trâu bò, cừu,lợn nhưng lại không bao giờ ăn thịt chúng. Nghĩ tới các thứ thịt đó là họ chỉ muốn nôn oẹ. Và chỉ cách đó không xa có một bộ tộc lại coi thịt lừa là thức ăn ngon nhất trên đời. Một khi người ta có thể ăn thịt chuột nướng, thịt ếch nhái,sò huyết,lẽ nào thịt tươi vừa săn được lại không thể là thức ăn ngon.

Một vài ngày sau Tácdăng lùng sục khắp khu rừng để tìm kiếm các thứ vỏ cây mềm. Chàng muốn làm một chiếc buồm cho con thuyền độc mộc của Mugambi. Sau khi khâu được một mảnh buồm rất to làm từ vỏ cây, Tácdăng cột chặt vào thuyền rồi gọi mấy con vượn to nhất xuống thuyền, đặt vào tay mỗi con một mái chèo. Nhóm thuỷ thủ lông lá cầm chèo rất lóng ngóng nhưng lại rất khoái chí. Chúng hào hứng tập chèo dưới sự hướng dẫn của Mugambi và ông chủ Tácdăng. Công việc dạy dỗ đàn vượn không phải lúc nào cũng trơn tru,thuận lợi. Thoạt đầu , mới ngồi vào thuyền, đàn vượn rất khoái trá. Nhưng cả thèm thì rất chóng chán,chỉ một lúc su chúng đã quay sang đùa nghịch,chọc ghẹo lẫn nhau. Tácdăng vừ kiên nhẫn dạy bảo vừa dùng vũ lực đe doạ. Phải mất hai tùân liền,việc học tập của đoàn thuỷ thủ lông xồm này mới đi vào nề nếp. Tácdăng cảm thấy hài lòng. Chàng cũng không ngờ rằng trong đám học trò của mình,Acút lại trở thành một học trò xuất sắc nhất. Ngay từ buổi đầu tiên, Acút đã được Tácdăng chỉ định làm lớp trưởng. Vừa nghe Tácdăng nói mấy câu, Acút đã hiểu ngay ý nghĩa của thanh gỗ bẹt trong lòng nước. Nó hiểu vì sao phải chèo đều tay và tất cả những nguy hiểm của con thuyền nếu như trong thuyền có xảy ra chuyện lộn xộn. Acút thực sự là một con vượn thông minh,khéo léo nhất trong đám bạn bè đồng loại. Khi nhận ra điều đó, Tácdăng dành rất nhiều thời gian để huấn luyên cho Acút trở thành một người cầm lái cừ khôi.

Qua Mugambi, Tácdăng biết rằng hòn đảo mà chàng đang sống cách đất liền không xa. Chẳng qua là tháng trước, Mugambi và đoàn chiến binh của anh ta bị lạc biển. Họ chỉ chủ định bơi dạo ven bờ biển nhưng một trận gió đã cuốn con thuyền của họ ra khơi và làm họ mất phương hướng. Họ đã chèo suốt đêm không nghĩ và đinh ninh rằng họ đang quay về quê hương. Tới lúc mặt trời hửng họ trông thấy đất liền và đã reo hò,sung sướng. Rồi một lúc sau, khi đã nghỉ ngơi thoải mái trên bờ,họ đã trông thấy Tácdăng nằm sưởi nắng trên bãi cát. Rủ nhau tấn công gã đàn ông da trắng,họ không ngờ là mình đã chuốc lấy thảm hoạ…

Cho tới lúc này Mugambi,người duy nhất sống sót vẫn không tin rằng mình đang sống cùng Tácdăng và đàn thú trên một hòn đảo. Anh ta nghĩ rằng cứ đi sâu vào rừng vài ngày, anh ta sẽ tìm thấy quê hương. Nghe Tácdăng thuyết phục anh ta vẫn nửa tin nửa ngờ. Nhìn Tácdăng hì hục treo mảnh buồm vào thuyền,anh ta hết sức ngạc nhiên. Đúng là từ bé đến giờ chàng thủ lĩnh da đen này chưa bao giờ chứng kiến cái việc làm kỳ quặc như vậy. Làng quê của anh ta nằm sâu trong lục địa, ở vùng châu thổ của sông Ugam. Chuyến bơi đầy phiêu lưu và bất hạnh của anh ta vừa qua là chuyến bơi giúp anh ta trông thấy biển lần đầu. Chính vì vậy, trông thấy Tácdăng treo mảnh buồm nham nhở lên thuyền,sửa soạn vượt biển,chàng thủ lĩnh không khỏi lo lắng. Ngược lại,chàng trai da trắng hết sức tự tin. Chàng tin rằng chỉ cần một đợt gió tây nổi lên ,chàng sẽ lái được con thuyền nhỏ bé của Mugambi đi tới đất liền. Trong thâm tâm,chàng thầm hứa với mình: “Chẳng thà chấp nhận mọi rủi ro trên biển dữ,còn hơn là sống một cuộc sống bình an mà vô nghĩa trên hoang đảo”.

Vài ngày sau,cái điều mà Tácdăng mong chờ đã đến.Trời chuyển hướng gió. Tácdăng vội vã xuống thuyền vượt biển. Cùng tham dự cuộc hành trình với chàng là một đội thuỷ thủ lạ mắt,có lẽ chưa từng thấy trên đời. Dó là chàng thủ lĩnh da đen Mugambi, thủ lĩnh bộ lạc vượn Acút,chú báo Sêta và mười hai con vượn dũng cảm nhất của đảo hoang.

Đoàn thủy thủ bốn cẳng

Chiếc thuyền độc mộc chở đội thủy thủ kỳ quái từ từ rời bờ cát. Con thuyền hướng mũi ra eo biển. Tuy vậy,thoạt đầu của cuộc hành trình nó phải vượt qua khá nhiều ghềnh đá mới thoát được ra ngoài biển lớn. Tácdăng, Mugambi và vượn Acút phải cầm chèo bởi vì ven bờ biển lúc này gió vẫn thổi quẩn quanh. Tấm buồm vá víu của Tácdăng chưa phát huy tác dụng.

Ở đầu mũi thuyền,báo Sêta nằm thu mình co quắp ngay dưới chân Tácdăng. Chàng phải gọi Sêta đến nằm bên cạnh để cách ly st với đội thủy thủ còn lại. Đối với các loài thú dữ,cảnh giác đến mấy cũng không thừa. Đối với st chỉ cần ai đó vô tình làm phật ý,nó có thể chồm lên cắn đứt cổ họng. Mugambi ngồi bên tay lái. Ngay trước mặt anh ta, Acút ngồi xổm,chờ thay ca. Trong lòng thuyền là mười hai con vượn khỏe mạnh,vui tính. Cả mười hai chàng thủy thủ này cứ quay ngang quay ngửa,quan sát mặt nước biển đang mỗi lúc một trải rộng về phía chân trời.

Chuyến đi đã khởi đầu hết sức tốt đẹp. Sau khi vượt qua những mỏm đá ven bờ,cánh buồm bắt đầu no gió. Mũi thuyền phăng phăng cắt sóng tiến lên. Nhưng chỉ một lúc sau,sóng biển mỗi lúc một lớn. Con thuyền bắt đầu chao đảo ngả nghiêng. Trông thấy sóng lớn,mười hai con vượn mất hết cả nhuệ khí thủy thủ. Chúng bắt đầu la hét,ôm đầu,nhắm mắt,chẳng khác gì hành khách của chuyến đi. Chính lúc này A cút đã thể hiện vai trò thủ lĩnh của mình. Ac phải len lỏi đến vỗ về từng thành viên của bộ lạc mình. Bỗng một con sóng lớn lừng lững xô tới bốc con thuyền nhảy vọt lên cao. ĐÀn vượn sợ quá,rú lên ầm ĩ. Có con bị hất lên cao,rơi chúc đầu xuống lòng thuyền. Rất may là Tácdăng và ac kịp thời đưa tay ra đỡ rồi thu xếp cho đàn vượn ngồi thật cân đối,bám chắc vào mép thuyền. Sau một hồi náo loạn,con thuyền đã ổn định được trật tự.. Gió vẫn lớn,sóng vẫn cả,nhưng đàn vượn đã quen dần với sự chao đảo,bập bềnh trên biển lớn.

Nhìn chung,cuộc hành trình diễn ra tương đối thuận lợi. Nửa giờ sau,từ phía chân trời đã xuất hiện những vệt tím thẫm của đất liền. Vì ngồi ở mũi thuyền, Tácdăng là người trông thấy đầu tiên. Nhưng lúc này trời đã xế chiều, Tácdăng và Mugambi không thể nhận ra nơi nào là cửa sông Ugam. Tácdăng quyết định lái thuyền đi thẳng vào rẻo đất gần nhấtđể các chiến hữu của mình ngủ một đêm hồi sức.

Chỉ một lúc sau, con thuyền đã chạm cát,lật nghiêng sang bên hông. Hành khác trên thuyền lần lượt nhảy xuống nước,lội vào bờ. Thủy triều đang xuống. Tuy vậy sóng biển vẫn cồn cào không yên. Những con sóng cuồn cuộn đổ vào bờ cát rồi lại đột ngột hất mình ra khơi. Chỉ một lúc sau con thuyền của Tácdăng đã bị cuốn ra biển xa.

Đêm hôm đó,đàn vượn ôm nhau cho đỡ lạnh để ngủ. Vào lúc gần sáng, Mugambi thức dậy nhóm một đống lửa. Chỉ một lúc sau đàn vượn đã thức giấc lục đục kéo tới ngồi sưởi. Tácdăng và Seta không thấy rét. Cả hai đã quá quen với cái nóng lạnh thất thường của rừng già châu Phi nên lúc này chỉ thấy bụng đói cồn cào. Tácdăng rủ Seta đi săn.

Cả hai đi sâu vào trong rừng. Chỉ một phút sau, Tácdăng đã trông thấy một con trâu rừng đang ngủ gà ngủ gật trong một bụi cây ven suối. Hai chàng thợ săn rón rén tiến lại gần,mỗi người xuất phát từ một hướng,bao vây con mồi. Bởi vì đã cùng đi săn với nhau nhiều lần Tácdăng và Seta rất hiểu nhau, đều biết cần phải làm gì trước mỗi loại mồi săn. Chỉ cần một cái vẫy tay hoặc một cái nháy măt, hai bên đã đủ hiểu nhau.

Hai chàng thợ săn đã áp sát tới bên con trâu. Vừa trông thấy Tácdăngvẫy tay ra hiệu Seta đã chồm lên, phóng hàm răng sắc nhọn vào cổ họng con thú. Con thú rống lên một tiếng đau đớn rồi ngã chổng bốn vó lên trời. Ngay lúc đó, Tácdăng chạy vụt tới với con dao nhọn trong tay. Chàng tóm chặt lấy đám lông bờm, vung dao đâm. Seta vẫn bám chặt cổ trâu. Hàm răng chắc khỏe của Seta mỗi lúc một ngập sâu vào cổ họng con trâu. Bị mất máu,nổi khùng,con trâu lồng lên như hóa điên,kéo lê hai chàng thợ săn đi hàng chục mét. Nhưng sự điên khùng đó chỉ là cố gắng cuối cùng của một sự sống. Một vài giây sau, con trâu rống lên một tiếng yếu ớt rồi ngã vật ra mặt đất, lên cơn co giật. Không cần phải đợi cho con mồi chết hẳn Tácdăng và Seta moi thịt ăn luôn.

Sau bữa ăn sáng no nê, cả hai nằm lăn trên bãi cỏ, ngáp dài. Seta ngoan ngoãn nghiêng mình cho Tácdăng gối đầu vào cái hông mềm ấm như nhung của nó.

Mặt trời lên cao, Tácdăng đánh thức Seta dậy chén bữa nữa. Ăn xong, Tácdăng và Seta quay về bờ biển dẫn bạn bè tới ăn thịt trâu. Thật ra đàn vượn không thích ăn thịt trâu,nhưng vì đói quá, chúng vẫn chén một cách ngon lành. Sau bữa ăn lót dạ, đàn vượn lại tản ra bãi cỏ, nằm ngủ tiếp.

Tácdăng cùng Mugambi lên đường đi tìm con sông Ugam. CHỉ đi vài dặm rừng họ đã bắt gặp một dòng sông rất rộng. Ngắm nghía, quan sát một lúc, Mugambi đã nhận ra đó chính là con sông mà chàng ta đã đi qua để thông ra cửa biển. Tácdăng vội kéo Mugambi đi xuôi theo dòng nước. Hóa ra dòng sông này đổ ra vình, cách nơi con thuyền cập bến chiều qua không đầy một dặm. Trong lòng Tácdăng bừng lên một hy vọng lớn. Chàng có linh cảm rằng đi dọc bờ sông này chàng có thể gặp những làng thổ dân Châu Phi. Nếu gặp họ có thể biết đôi điều về Rôcốp và biết đâu có thể dò ra tung tích đứa con bé bỏng của chàng. Chẳng hiểu sau chàng không bao giờ nghĩ rằng Rô cốp có thể giết chết đứa bé.

Tácdăng lại cùng Mugambi đi tìm con thuyền bị sóng cuốn chiều hôm trước. Tìm được thuyền,cả hai cầm chèo bơi dọc bờ sông. Chuyến bơi sông này khá vất vả vì khúc sông này có nhiều vùng nước xoáy và rất nhiều ghềnh thác. Mãi tới chập choạng tối hai người mới bơi ra được cửa sông. Cột chặt con thuyền vào một gốc cây to, hai người đi vào rừng. Chỉ lát sau họ đã gặp đàn vượn của mình đang lang thang hái quả. Vừa trông thấy Tácdăng đàn vược đã thông báo ngay là Seta không thấy quay trở lại. Hơn một ngày rồi Seta gần như đã mất tích. Sau một đêm chờ đợi, không thấy về Tácdăng đoán là Seta đã lên đường chỉ vì khao khát tình yêu. Từ bao lâu nay Seta chưa hề gặp một người bạn nào đồng loại với mình.

Sáng sớm hôm sau Tácdăng dẫn cả đoàn đi dọc bờ sông,vừa đi vừa cất tiếng gọi vang rừng. Gọi được một lúc, từ nơi nào đó trong rừng thẳm bắt đầu vang lên tiếng đáp nghe rất xa xôi. Vài phút sau, Seta xuất hiện,chạy thẳng đến chỗ Tácdăng. Chạy tới nơi, Seta gầm gừ làm nũng, dụi đầu vào chân Tácdăng.

Cả đoàn lại lục tục lên thuyền. Có hai thủy thủ trong bộ lạc của Acut đào ngũ. Mặc dù thủ lĩnh Acut và Tácdăng đi gọi suốt một tiếng đồng hồ, hai chàng vượn đực đó vẫn không hề hé răng lên tiếng đáp. Rõ ràng là hai chàng vượn đực này cố tình bỏ trốn. Ngay từ đầu cuộc hành trình rời hoang đảo, chúng đã tỏ ra nhát nước. Trận say sóng vừa qua đã làm chúng mất hết can đảm. Tácdăng quyết định không tìm chúng nữa. Chàng gọi cả đàn vượn quay lại con thuyền.

Thuyền đi được một ngày, Tácdăng ra lệnh dừng lại lên bờ tìm kiếm thức ăn. Mãi mê săn bán,họ không biết có một người thổ dân gầy com đang quan sát họ qua kẽ lá. Vừa trông thấy đoàn quân của Tácdăng, người thổ dẫn đã nhanh chân biến mất trong rừng tối. Những cái mà anh ta trông thấy thật kỳ quặc và đáng sợ. Anh ta phóng mình qua từng bụi cây,nhanh như con nai bị săn đuổi. Làng quê của anh chỉ cách chỗ Tácdăng săn bắn không đầy ba dặm.

- Có một người đàn ông da trắng nữa đang đến đây – Người thổ dân về tới làng,kêu ầm lên,báo tin cho thủ lĩnh – Hắn ta kéo theo một đội lính đen ngòm. Bọn chúng còn có một chiếc thuyền độc mộc rất to. Có thể chúng lại giết người và cướp bóc giống như gã râu đen lần trước.

Thủ lĩnh Kaviri đứng bật dậy. Ấn tượng về cuộc tiếp xúc với những người da trắng lần trước vẫn còn tươi rói trong trí nhớ của thủ lĩnh. Từ ngày đó đến giờ,cứ nhắc đến người da trắng là trái tim Kaviri lại đau nhói lên vì thất vọng và căm thù. Kaviri ra lệnh nổi trống khắp làng. Tiếng trống trận giục giã những người đi săn ở rừng sâu và nông dân từ các cánh đồng nhanh chóng chạy về làng. Kaviri quyết định thả xuống sông bảy chiếc thuyền độc mộc chứa đầy binh sĩ. Trên đầu các chiến binh tua tủa những mũi lao dài. Kaviri ra lệnh ngừng tay trống. Vốn là một chiến binh dạn dày kinh nghiệm trận mạc,ông không muốn gây tiếng động một cách thừa thải làm kẻ thù chú ý. Ông nghĩ rằng cần phải tấn công ngay con thuyền của người da trắng,trước khi mũi súng của người da trắng kịp khai hỏa. Thuyền của ông dẫn đầu đội thuyền chiến. Thuyền vừa bơi qua khúc ngoặt của dòng sông,các chiến binh trên thuyền đã trông thấy chiếc thuyền của “kẻ xâm lược”.

Hai con thuyền lúc này đã tiến đến gần nhau. Chỉ cần liếc mắt nhìn qua,Kaviri đã trông thấy mặt của kẻ thù da trắng. Các chiến binh da đen đứng cả dậy, hét lên như những người mất trí,tay huơ huơ ngọn lao về phía kẻ thù. Nhưng vừa trông thấy rõ mặt binh lính của gã đàn ông da trắng đầu thuyền, các chiến binh của Kaviri đã muốn vứt hết giáo mác mà nhảy xuống sông bỏ trốn.

Mọi sự dường như đã muộn. Thuyền của Tácdăng vừa chạm vào thuyền của Kaviri,đàn vượn của ac đã nhảy bổ sang thuyền cướp vũ khí của các chiến binh da đen. Trong tình thế cùng quẫn,các chiến binh da đèn không còn cách nào khác là phải cố gắng chống chọi. Theo dòng nước xiết,các chiến thuyền khác của Kaviri cũng trôi tới vùng thủy chiến. Trông thấy cảnh tượng náo loạn trên sông nước,các chiến binh đều kinh ngạc như chẳng thể tin đước mắt mình nữa. Trước đó họ vẫn nghĩ rằng kẻ thù của họ là những người da trắng ăn mặc bảnh bao kèm theo những nô lệ da đen làm công việc khuân vác. Vì hình dung như vậy họ mới bao vây chiến thuyền của Tácdăng. Tới khi nhận ra trên thuyền đối thủ không có mấy mặt người mà toàn là mặt quỷ,họ định bỏ chạy nhưng không kịp nữa. Do sức đẩy của dòng nước và theo quán tính chuyển động,thuyền của hai phía va vào nhau. Tácdăng phất tay ra lệnh cho Acut và Seta. Những người da đen chưa kịp nhảy xuống nước, một con báo khổng lồ và một con đười ươi vạm vỡ đã nhảy vọt vào thuyền. Con thuyền chao đảo, muốn lật úp xuống vì những cú nhảy tung hoành của hai con mãnh thú. Hàm răng nhọn của Seta ròng ròng máu tươi. Vượn Acut thì vui vẻ bốc từng đối thủ ném xuống lòng sông.

Thủ lĩnh Kaviri như đang sống trong cơn ác mộng. Ông bất lực tới mức không còn biết chỉ huy thế nào nữa. Mọi mệnh lệnh lúc này đều vô nghĩa. Một lúc sau, trông thấy màu lông chim sặc sỡ của ông, gã khổng lồ da trắng đã nhảy sang cướp chiếc lao trong tay ông. Hắn ta cướp chiếc lao như cướp một thứ đồ chơi trận giả của lũ trẻ. Không còn vũ khí nhưng ông vẫn chiến đấu kiên cường. Chả lẽ ông lại bán rẻ tính mạng mình đến thế! Chả lẽ một thủ lĩnh đáng kính như ông lại hạ mình, cúi đầu trước mặt kẻ thù một cách nhục nhã? Gã khổng lồ da trắng đánh nhau với ông bằng tay không. Con thuyền chòng chành, va đập vào ghềnh đá. Nhưng rồi Kaviri đuối dần. Mọi cố gắng của ông đều trở nên vô nghĩa trước sức mạnh rừng rú của thằng quỷ da trắng. Thằng quỷ ấy đã chộp được cổ họng ông, dí đầu ông xuống đáy thuyền. Ông thấy trời đất quay cuồng, ngực đau tới mước không thở được nữa. Một làn sương đục loang dần trong mắt,một lúc sau ông đã hoàn toàn mê man, bất tỉnh…

Tới khi mở mắt tỉnh dậy, Kaviri thấy mình đang nằm sấp trên đáy thuyền độc mộc của mình. Bên cạnh ông, một con báo hoa to đùng đang ngồi canh chừng. Tia mắt của con báo dọi thẳng vào ông, không bỏ sót một cử động nhỏ của ông. Ông khẽ rùng mình nhắm chặt mắt. Một lát sau ông lại mở mắt, chờ đợi con báo xông vào xé ông ra thành trăm mảnh. Ông cầu mong con báo giúp ông kết thúc nỗi đau đớn, nhục nhã mà ông đang chịu đựng. Nhưng rồi mãi không thấy chuyện gì xảy ra. Bên con báo, ông trông thấy gã đàn ông da trắng đang quỳ xuống, mải miết chèo. Ông còn trông thấy hai bên mép thuyền có rất nhiều chiến binh của ông. Điều đáng buồn là trong tay họ không phải là ngọn giáo mà là chiếc bơi chèo. Ngồi sát sau lưng họ là một lũ đười ươi lông lá lồm xồm

Vừa phát hiện ra Kaviri đã tỉnh dậy, Tácdăng lên tiếng hỏi:

- Người làng ông nói rằng ông là thủ lĩnh của họ. Ông là Kaviri? Đúng không?

- Đúng vậy! – Kaviri gật đầu và ngạc nhiên không hiểu vì sao gã đàn ông da trắng này nói sõi đến thế.

- Tại sao ông lại tấn công chúng tôi? Chúng tôi đến đây như những người lương thiện,vì mục đích hòa bình cơ mà- Tácdăng hỏi tiếp.

- Có một người da trắng đến đây cũng nói như ông,cũng chỉ tay và ngực và nói rằng:”Đến vì tình bạn và mục đích hòa bình” – Kaviri trả lời – Chúng tôi đã đón tiếp và tặng cho hắn rất nhiều bội ngô,sữa bò,bạc trắng. Vậy mà ngay sau đó hắn đã bắn vào chúng tôi. Hắn giết khá nhiều người của chúng tôi. Trước khi bỏ đi, hắn đã cướp của chúng tôi một đàn gia súc, một lũ thanh niên và rất nhiều con gái.

- Tôi không như người đàn ông đó – Tácdăng nói. Tôi không muốn xúc phạm đến ai nếu như không bị xúc phạm. Hãy nói cho tôi biết,mặt mũi người đàn ông da trắng đó thế nào? Tôi đang đi tìm kẻ đã xúc phạm tôi. Biết đâu kẻ tôi cần tìm chính là người đàn ông da trắng đó.

- Đó là người đàn ông khỏe mạnh nhưng mặt mũi trông rất nham hiểm và có bộ râu đen xồm xoàm.

- Hắn có mang theo đứa trẻ da trắng nào không?

Tácdăng nôn nóng hỏi. Một câu hỏi khiến trái tim chàng đau thắt lại.

- Không thấy – Kaviri trả lời – Hắn không đem theo đứa trẻ nào. Nhưng có một tốp người khác mang theo một đứa trẻ.

- Có cả tốp khác? – Tácdăng kêu lên – Những người đó ra sao?

- Đó là những người mà hắn truy bắt. Họ đi ngược dòng sông trước hắn ba ngày đường. Tôi nghĩ rằng họ muốn chạy trốn khỏi hắn.

Một người đàn ông da trắng, một người đàn bà và một đứa trẻ? Tácdăng bối rối. Đứa trẻ đó có thể là thằng Giếch bé bỏng của chàng. Nhưng còn người đàn ông và người đàn bà đó thì… là ai? Có thể đó là một trong số người đi cùng Rôcốp, nhưng đã chống lại hắn, đã cướp của hắn đứa bé. Nếu đúng như thế thì chắc chắn là họ muốn trở về với xã hội văn minh. Họ giữ đứa trẻ trong tay là vì muốn một khoản tiền chuộc lại, hoặc là chỉ muốn giữ như một con tin. Rôcốp có thể đã dồn họ vào sâu trong lục địa hoặc là đã bắt được họ. Và biết đâu họ đã lọt vào tay những kẻ ăn thịt người!

Trong khi Tácdăng trò chuyện với Kaviri, con thuyền đã ngược dòng nước trở về đến khu làng. Cùng trở về làng còn có ba chiếc thuyền độc mộc nữa. Cách chiến binh thất trận của Kaviri ngồi trên ba chiếc thuyền cứ nhìn như dán mắt vào các vị khách lạ. Mặc dù trong trận thủy chiến vừa qua có ba con vượn bị chết, nhưng trong lòng thuyền vẫn còn tám con vượn đực rất to khỏe, cộng thêm báo Seta và chàng trai thủ lĩnh Mugambi. Vì chưa bao giờ có bạn đồng hành là những nhân vật kỳ quái như thế, nên các chiến binh da đen không khỏi lo lắng. Tácdăng, Mugambi và cả vượn Acut đều phải canh chừng đàn thú, không dám để chúng ngồi gần những người da đen. Câu chuyện đổ máu trên sông vừa qua vẫn chưa làm đàn thú nguôi giận. Thậm chí sự hoảng hốt lo sợ của những người da đen cũng có thể làm cho Seta và cả đàn vượn nổi nóng.

Tácdăng chỉ lưu lại trong làng của Kaviri vài ngày cho đội quân của mình hồi sức. Sau đó chàng yêu cầu Kaviri cung cấp cho mình mấy người chèo thuyền. Vị thủ lĩnh vui vẻ nhận lời ngay. Trong thâm tâm, ông chỉ muốn đội quân của Tácdăng cuốn xéo khỏi làng sớm ngày nào tốt ngày nấy. Nhưng chỉ một lúc sau ông mới nhận ra rằng,hứa thì rất dễ,còn chuyện thực hiện lời hứa là điều nan giải. Các chiến binh của ông vừa nghe phong phanh tới chuyện phải cầm chèo chở đội quân Tácdăng đã lặng lẽ chạy tuốt vào rừng. Kaviri sục sạo tìm kiếm nhưng không lo liệu đủ số người mà Tácdăng yêu cầu. Chỉ vài phút ngôi làng của ông còn nhí nhéo tiếng đàn bà,con trẻ,tịnh không thấy một gã đàn ông nào. Khi biết chuyện, Tácdăng không nhịn được cười.

- Hóa ra là họ không cảm thấy vinh dự khi hộ tống chúng tôi! – Tácdăng cười dí dỏm – Nhưng Kaviri,ông cứ yên tâm! Rồi ông sẽ thấy binh sĩ của ông phải ra trình diện ngay tức khắc.

Nói xong, Tácdăng đứng dậy. Chàng cử Mugambi ở lại với Kaviri trong làng rồi quay sang thì thầm với đàn thú của mình. Một lát sau, Tácdăng đi vào rừng saau. Nối sau gót chàng là báo st và tam con vượn đực. Đội quân của Tácdăng vừa khuất sau ngôi làng từ rừng sâu đã vang lên tiếng kêu thét rùng rợn. Mugambi và Kaviri ngồi trong bản doanh nghiêng tai nghe ngóng, không hiểu có chuyện gì xảy ra. Chỉ một lát sau, Mugambi đã nhận ra tiếng thét đó là tiếng thét của ai.


Nguồn: vnthuquan-thuvienOnline
Được bạn: Mọt sách đưa lên
vào ngày: 12 tháng 3 năm 2012