← Quay lại trang sách

Một món quà gửi đến từ sông Nile

Ngôi đền Ai Cập được đặt giữa một bể nước nhân tạo hình chữ nhật với ba cánh cổng lớn phía trước. Nơi này cũng nhộn nhịp không kém những địa điểm chúng tôi thăm chiều nay.

– Đây là đền thờ Debod. Nó không thuộc về kiến trúc đặc trưng của Tây Ban Nha, nó đến từ Ai Cập nhưng lại là một trong những nơi thu hút nhất và tạo điểm nhấn cho cả thành phố Madrid.

Thêu phiên dịch xong, Antonio nói thêm.

– Hoang hon đep!

Anh chàng đang cố gắng học tiếng Việt, nghe yêu yêu làm sao! Chúng tôi đi vòng quanh ngôi đền, nó không quá rộng, ánh nắng chiều hắt xuống những bức tường và mặt nước một màu vàng vẫn còn tươi rói. Nắng còn đủ sáng để lấp lánh mỗi khi nước gợn sóng lăn tăn.

Phía trước có đôi trai gái đang đàn hát cho nhau nghe. Cô gái ôm cây đàn ukulele và hát, còn anh cứ nhìn say mê như thể cả vẻ đẹp của chiều vàng hôm nay đã thu vào cô ấy. Một cô nhà báo đeo máy ảnh trước ngực đang trầm tư viết những dòng cảm xúc vào cuốn sổ, thỉnh thoảng lại mơ màng nhìn ra xa xăm để lấy cảm hứng hoặc tìm từ, khuôn mặt cô hiển hiện một niềm hạnh phúc viên mãn.

Từ điểm này, có thể nhìn cả thành phố Madrid với những mái nhà chạy dài đến tận cuối đường chân trời.

Thời điểm hoàng hôn mây kéo đến nhiều hơn, màu nắng nhạt dần đi như bị pha nước trắng, chỉ có một vệt đỏ bé nhỏ khuất phía sau những tán cây. Ấy thế mà ai cũng chụp lấy chụp để. Antonio ngó nghiêng chụp cho được ánh sáng cuối cùng ấy bằng mọi cách. Chụp xong cậu còn hí hửng ra khoe bức ảnh, một khoảng đỏ nhòe như màu của một đứa trẻ tập tô bị hỏng nhưng với cậu ấy nó lại rất đẹp và đặc biệt. Mỗi khi chụp hoàng hôn tôi cần một không gian mênh mông và tĩnh lặng hoàn toàn, cạnh bờ sông hoặc trên đỉnh núi, nơi mặt trời có thể khúc xạ ở mức tối đa độ rộng dài của nó.

Chúng tôi quay về chỗ ngồi, không hy vọng thấy hoàng hôn rực rỡ hôm nay, bỗng một màu như dát vàng chạy qua ngôi đền đẹp đến ngỡ ngàng và cũng thật nhanh, khiến cho tôi có cảm giác như các vị thần Ai Cập vừa lướt qua đây. Mọi người lại nhao ra chỗ hàng cây chụp ảnh, nhìn cảnh tượng này đến ngộ. Antonio cũng chạy hết chỗ này đến chỗ kia ngắm ngắm chụp chụp không biết mệt. Tôi thấy tò mò nên hỏi chuyện Antonio

– Cậu thích hoàng hôn à, Antonio?

– Rất thích!

Antonio vừa nói vừa tìm chỗ ngồi và mở điện thoại ra cho chúng tôi xem thêm vài tấm hình cậu vừa chụp, những mảng màu có rực hơn trước một chút.

– Cậu thích ngắm hoàng hôn từ khi nào thế?

– Khi tôi khoảng 19 tuổi. Vào mùa hè tôi hay đạp xe đi tập thể dục, ngắm cảnh, lúc quay về thường vào thời điểm hoàng hôn xuống và phát hiện ra những địa điểm rất đẹp để ngắm.

– Ngoài đền thờ này còn những chỗ nào nữa?

– Quảng trường Plaza de Oriente, nơi có vị trí đắc địa được bao quanh bởi cung điện Hoàng gia, khu vườn Sabatini và nhà hát Teatro Real. Mọi người có thể nhìn thấy mặt trời lặn xuống và ẩn phía sau công viên Casa de Campo. Hoặc đến đồi Cerro del Tío Pío nếu muốn nhìn toàn cảnh thành phố Madrid. Từ ngọn đồi đó có thể thấy đường chân trời Madrid và dãy núi Guadarrama, sẽ rất tuyệt để ngắm khoảnh khắc hoàng hôn xuống núi và cả thành phố lên đèn. Phía bắc của Madrid có khu rừng lớn El Pardo, hoàng hôn sẽ đi qua một cây thông, những cây sồi, cả những con nai và lợn rừng cũng muốn chạy theo ánh chiều vàng. Hay đến Fuente de Cossio, Tres Olivos,… có rất nhiều nơi quanh Madrid có thể nhìn thấy hoàng hôn đẹp, thậm chí trên một chiếc cầu vượt trong thành phố đông đúc xe cộ.

– Cậu nghĩ gì khi ngắm hoàng hôn?

– Chiêm nghiệm về màu sắc của chúng, nhìn ánh sáng của chúng mờ dần rồi biến mất. Bầu trời mang một hình hài khác giống như một hành tinh khổng lồ phía trên, song song với Trái Đất. Ánh sáng của nó kết hợp với những đám mây để kiến tạo nên đồi núi, sông hồ hay nó cũng có thể là phản chiếu của vùng đất trong một ngày. Bây giờ ngày nào tôi cũng ngắm hoàng hôn, nó giống như một bức tranh biết biến hình và không khi nào lặp lại lần hai. Khoảng 300 ngày trong năm Madrid có ánh sáng mặt trời, tôi có thể được chiêm ngưỡng ít nhất 300 bức tranh hoàng hôn mỗi năm.

– Màu sắc của hoàng hôn giữa các mùa khác nhau như thế nào?

– Vào mùa xuân và mùa thu, có nhiều đám mây, chúng chuyển sang màu da cam. Vào mùa đông, mặt trời yếu, ánh sáng mang màu lạnh rất đẹp. Mùa hè, mọi người sẽ được ngắm hoàng hôn rất dài.

– Vậy thời điểm nào để ngắm hoàng hôn đẹp nhất?

– Hạ chí khoảng gần 10 giờ tối và đông chí từ 5 giờ 30 đến 5 giờ 45 chiều. Khoảnh khắc đẹp nhất là 10 phút cuối cùng trước khi mặt trời lặn hẳn xuống đường chân trời.

– Làm sao mà tôi biết lúc nào là 10 phút huy hoàng ấy?

– Mặt trời rất gần với đường chân trời hoặc viền những ngọn núi.

Antonio chia sẻ cho tôi xem những tấm ảnh cậu đã chụp mỗi lần đi ngắm hoàng hôn ở Tío Pío, trong trường đại học, trên ngọn núi tuyết ở Rascafría, bên mặt hồ Zamora. Cái tịch lặng trong những bức ảnh làm xao lòng người. Tôi thấy một Madrid bình lặng, hiền hòa. Bỏ sau những ồn ào của xe cộ tấp nập, người như mắc cửu, nói cười rộn cả thành phố là một Madrid yên ả trong ánh hoàng hôn.

– Cậu thích ngắm hoàng hôn ở đâu nhất?

– Ở trong công viên cạnh nhà và trong hồ nước Sanabria ở Zamora.

– Vậy khoảnh khắc đẹp nhất của hoàng hôn cậu nhìn thấy ở đâu?

Đợi cho Thêu đi ra chỗ khác nghe điện thoại Antonio mới trả lời câu hỏi này của tôi.

– Trong đôi mắt của Thêu! Khi chúng tôi ngồi bên bờ hồ, nắm tay nhau nhìn hoàng hôn buông xuống, nó như đẹp hơn khi phản chiếu vào đôi mắt của cô ấy.

Mặt Antonio đỏ lên làm Thêu thấy khó hiểu, còn tôi nhìn hai người ngưỡng mộ. Khoảnh khắc này có lẽ mới là hoàng hôn đẹp nhất trong tôi vì nó mang màu sắc của một tình yêu rất chân thành, giản đơn mà vẫn đủ tinh tế, đầy lãng mạn giữa một cô gái Việt với anh chàng Tây. Bất giác tôi thấy ngôi đền huyền bí, thâm nghiêm trở nên gần gũi lạ kỳ. Một nơi vốn chỉ dành cho vua chúa tiến hành những nghi lễ linh thiêng ngày xưa, nay dành cho tất cả mọi người. Không còn khoảng cách về không gian và thời gian, chỉ còn vẻ đẹp của tình yêu ở đó.

Bóng tối bắt đầu bao phủ vạn vật xung quanh. Ngôi đền sáng rực lên bởi ánh điện vàng. Tôi cứ ngỡ mình vừa có chuyến hành trình thần tốc sang Ai Cập, đang ngồi ở Ai Cập và chạm tới linh thiêng. Tôi mê và bị hút vào những đền đài, kim tự tháp, lăng mộ, những hình vẽ đầy bí ẩn và huyền hoặc của Ai Cập xa xưa. Những câu chuyện thực thực hư hư của miền đất bên dòng sông Nile huyền bí, một trong những con sông dài nhất thế giới.

Vào đầu thế kỷ thứ II TCN, Vua Adijalamani của Meroe cho xây một đền thờ nhỏ dành cho Thần Amun của Debod và Nữ thần Isis của Philae, ở Aswan gần thác nước lớn thứ nhất của sông Nile, hạ Nubia, miền nam Ai Cập. Sau đó nó bị cả thế giới lãng quên trong hơn 1.000 năm. Tại sao ngày hôm nay, ngôi đền lại ở đây? Tôi không chắc mình có buột câu hỏi ra khỏi miệng hay không nhưng lại có câu trả lời từ Antonio:

“Chính phủ Ai Cập đã trao tặng Debod cho Tây Ban Nha để tỏ lòng biết ơn đất nước này trong đợt giải cứu các công trình của Ai Cập có nguy cơ biến mất. Quá trình vận chuyển các khối đá từ Ai Cập về Tây Ban Nha mất mười năm với tổng cộng 1.350 hộp đá. Năm 1972, công trình này chính thức được mở cửa, đón chào du khách tham quan.”

Dù thế nào tôi cũng không thể đào bới đến tận cùng một mảnh đất. Nó có quá nhiều lớp lịch sử gối tiếp nhau hoặc đã hòa trộn vào nhau. Cơn đói bắt đầu nổi lên, tôi không thể đắm chìm thêm được nữa, hiện thực nhắc tôi phải chăm sóc cái dạ dày. Antonio dẫn chúng tôi đến quán Chocolatería San Ginés với chiếc cửa cũ màu xanh, hai chiếc đèn cổ treo hai bên, phía trên ghi năm 1894. Một lúc sau người phục vụ bê ra ba cốc socola nâu nóng hổi và một đĩa những chiếc bánh nhỏ và dài có phủ lớp đường mỏng.

“Đây là món churros chấm với socola, một món ăn nổi tiếng của Madrid đó chị.” Thêu giải thích, còn Antonio ăn trước để tôi biết cách làm theo. Cậu cầm thanh churros dài bằng bàn tay quệt vào cốc socola cho ngập kín đoạn cần ăn rồi thưởng thức ngon lành. Tôi bắt đầu làm theo, socola này không phải loại socola mọi người thường uống. Nó đặc và sánh mịn hơn rất nhiều. Vị ngọt có chút nhằng nhặng của socola quyện với vị béo ngọt, giòn dai của bánh churros, cắn một miếng, có cảm giác như mọi thứ trong miệng tôi quyện lấy nhau trước khi tan ra, rồi lấp đầy cổ họng, ngọt và ngậy cho đến tận dạ dày.

“Socola thường được phục vụ ở độ nóng 75-800C, trong một cốc sứ, churros có thể nóng hoặc lạnh. Nguyên liệu chính của churros là một loại bột nhào và được chiên vàng. Người Madrid rất thích món này, thường dành cho bữa sáng nhưng ở quán Chocolatería San Ginés, họ phục vụ 24 giờ.” Antonio vừa ăn vừa giới thiệu một cách tự hào. Nhìn cậu ấy và những người xung quanh tôi hiểu họ yêu thích món ăn này thế nào. Tôi ăn ngon lành cái churros thứ nhất nhưng đến cái thứ hai bắt đầu nghẹn ứ ở cổ vì ngọt, khát và ngấy.

Nhưng nếu ai đó dám liều làm điều giống người Madrid vẫn làm họ mới thực sự khám phá được tận cùng hương vị đặc biệt của món ăn này.

Hoàng hôn ở đền thờ Debod.