Phụ bếp
– Sáng mai sang dọn đồ sớm cho chị nhé.
– Chị đi đâu à?
– Đến Trung tâm Phật giáo.
– Chị tu à?
– Ừ.
– Ơ!
7 giờ sáng, Sang có mặt trước cửa nhà với đủ các loại túi phục vụ cho đồ đạc của tôi. Mặt vẫn bơ phờ như vừa từ trên giường xuống.
– Hơ…ơ...ơ, chị cần chuyển cái gì?
– Em vẫn còn buồn ngủ thế cơ à. Chỉ có các loại gia vị, đồ ăn em cầm về nấu nốt. Sách vở và vài đồ dùng cá nhân của chị thôi. Quần áo hầu như chị mang đi hết rồi.
– Hơ…ơ…ơ. Được rồi.
Nói xong Sang ngồi xếp mọi thứ cho vào túi. Thực ra tôi có phải là kẻ không gia đình ở thành phố này đâu. Máy tính hỏng tôi cũng kêu gào đến sửa, lạc đường tôi bắt đưa đi đón về, không nói được tôi bắt đi phiên dịch, chuyển nhà tôi bắt đến dọn đồ rồi lễ mễ kéo lê tất cả một mình, đi đâu tôi cũng lôi đi cùng, thằng bé thực hiện nó một cách vô điều kiện. Chẳng phải chị em họ hàng ruột thịt, cũng không kết nghĩa vườn gì. Mọi thứ cứ tự nhiên mà chân tình như thế. Trong thành phố này tôi luôn có một người em trai rất mực thương tôi.
– Mấy giờ chị đi? Chị có nghe em hỏi không đấy?
– Hả? À, 2 giờ chiều nay.
– Xong rồi, một cái va li nhỏ của chị với thêm hai túi này nữa. Em tự mang về nhà được, chị không cần phải đi cùng đâu. Chị nghỉ ngơi chiều còn đi.
– Được rồi, hy vọng sớm gặp lại em.
– Chị đi may mắn và vui vẻ! Em về ngủ tiếp đây. Hơ...ơ...ơ.
Tôi quay vào dọn dẹp phòng trước khi đưa chìa khóa cho Sonia. Tạm biệt khung cửa sổ, tạm biệt chiếc bàn xinh, tôi đến từng góc trong căn phòng nói lời tạm biệt với tất cả đồ đạc ở lại. Lá xanh cũng vẫy vẫy ngoài cửa sổ chào tôi. Có hội ngộ tất phải có chia li, một lẽ tự nhiên của đời người. Bạn phải chấp nhận chia li một nơi cũ bạn mới có cơ hội đến với một nơi mới. Cuộc đời chúng ta cũng lớn lên, tâm hồn chúng ta trưởng thành hơn bởi những lần gặp gỡ, chia li nối tiếp nhau như thế.
Xong xuôi mọi thứ cũng đã 12 giờ, tôi ra bếp làm bữa trưa với bánh mì, trứng ốp và salad. Sonia và bạn trai đang ngồi trò chuyện trong phòng khách, có lẽ cả hai ở nhà để chào tạm biệt tôi. Tôi sẽ luôn cầu mong cho họ được hạnh phúc.
– Sonia.
– Tôi đây.
– Tôi đưa chìa khóa nhà. Cô có muốn kiểm tra lại phòng không? Tôi đã dọn dẹp và lau chùi cả rồi. Nếu còn bẩn cô giúp tôi dọn dẹp lại nhé.
– Phòng sạch lắm rồi, chúng tôi cảm ơn!
Tôi đưa lại chìa khóa và ôm Sonia một cái thật chặt rồi kéo chiếc va li đỏ ra khỏi phòng, Farid chạy ra mở cửa giúp tôi. Mặt trời hôm nay như được một ngày tỏa sáng huy hoàng, nắng như rang trên mặt đường. Nó không khác cái nắng cháy khô ở Lào hay nắng tháng Sáu “nước như ai nấu” ở Việt Nam. Tôi hẹn với lái xe BlaBlaCar ở trạm xe buýt trung tâm Estación Delicias Autobuses như thường lệ, đi bộ từ nhà ra đó mất 15 phút.
Kỳ lạ thật, cứ như thể tôi sẽ không quay lại đây nữa, mọi thứ như đang nhìn tôi với cái nhìn cuối cùng.
Bên rìa đường, một người vô gia cư đang rúm ró ngồi né vào bóng râm ít ỏi của bức tường lan can. Chỗ này nắng nhất nhưng cũng nhiều người đi bộ qua đó để vào trạm xe buýt. Bà gầy gò, đen đúa, chùm chiếc khăn nâu dài trên đầu, chiếc váy đã tã vì lê lết nhiều chỗ, đôi tay gầy guộc đưa ra cầu xin lòng hảo tâm của người đời. Tôi vét những đồng xu cuối cùng còn lại trong ba lô đưa cho bà một cách trân trọng nhất như tôi dâng vật phẩm cúng dường lên Đức Phật. Bà nhìn tôi ngạc nhiên, có lẽ chưa ai dâng cả hai tay đưa như thế. Tôi chỉ đang thực hành tín ngưỡng của một Phật tử khi bố thí cho người khác với tâm không phân biệt ai là người bố thí và đâu là người được nhận. Bà chắp hai tay để lên trán và nói điều gì đó như cảm ơn và cầu mong thần linh sẽ mang điều tốt lành đến cho tôi. Tôi cúi chào tạm biệt bà rồi đi tiếp. Được vài bước tôi chạy quay lại vui mừng vì trong ba lô vẫn còn một đồng 20 cent đưa nốt cho bà, rồi chạy đi không kịp nhìn xem phản ứng của bà ra sao. Giờ tôi mới là kẻ cháy túi nhưng bà chính là điều may mắn cho hành trình sắp tới của tôi.
7 giờ chiều tôi có mặt ở Madrid, Thêu và Antonio đã chờ sẵn để đón về nhà. Tây Ban Nha giờ thân thương và gần gũi hơn với tôi bởi những người bạn, người em thân thiết. Tôi không đơn độc ở đâu cả bởi chỗ nào đi cũng có người tiễn đưa, nơi nào đến cũng có ai đó đứng chờ. Đó chẳng phải là hạnh phúc lớn nhất của một kẻ đang lang thang trên những miền đất lạ như tôi sao. Thêu hỏi tôi khi cả ba đã ngồi trong ô tô:
– Chị mệt không?
– Không, chị đang rất hào hứng.
– Xem chị kìa. Giờ về nhà em nấu ăn, nghỉ ngơi. Chiều mai anh Antonio làm xong việc sẽ đưa chị xuống đó.
– Antonio. Cảm ơn!
– Không co gi!
Nói thế thôi chứ tôi hồi hộp lắm, cứ như con gái sắp về ở nhà chồng, vừa hạnh phúc vừa lo lắng, vừa bồn chồn lại hân hoan. Chả gì thì cũng lần đầu tiên trong sáu tháng ở xứ này tôi được sống trong một cộng đồng người bản xứ và người nói tiếng Tây Ban Nha một cách thân thiết nhất. Chả gì đây cũng là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi được trải nghiệm môi trường Phật giáo ở phương Tây. Chả gì thì họ cũng sẽ nhìn tôi như nhìn một phần văn hóa của người Việt Nam. Nhiều thứ chả gì này khiến tâm trạng tôi hỗn tạp.
Chiều hôm sau, Antonio và Thêu đưa tôi xuống đó. Tôi run run, hít một hơi thật sâu rồi bấm chuông. Chao ôi, bao nhiêu là hồi hộp! Không biết nói gì đây. Một anh chàng gầy với đôi mắt to và nụ cười rộng ra cổng đón tôi vào nhà ăn ngay bên phải cổng. Lúc tôi đến là 8 giờ tối, một vài người đang ở đó nói chuyện. Tôi làm động tác chắp tay xá chào trong Phật giáo và chỉ chào hỏi cơ bản như cô Marta dạy còn chủ yếu là Thêu nói, như mẹ chồng gửi gắm con gái về nhà thông gia. Có lẽ Antonio cũng lần đầu tiên đến một trung tâm Phật giáo nên có chút ngại ngùng không biết ứng xử ra sao. Nhưng tôi có cảm giác thân thiện và tin tưởng tuyệt đối. Đó là điều tôi thích nhất khi đến bất kỳ một địa chỉ Phật giáo nào, bởi tôi luôn tin ai đến đây cũng đều muốn phát khởi những điều tốt đẹp nhất trong bản thân và học cách sống thật nhất với chính con người mình nên giả dối không hiện hữu ở nơi này.
Tôi không nhớ tên ai cả, trên hai người giới thiệu cùng một lúc là bài toán khó cho tôi để ghi nhớ, hoặc tôi sẽ cố nhớ tên một người, hoặc tôi quên luôn tất cả. Lúc đó có một ni cô và một thầy tu trẻ, hai phụ nữ trung tuổi.
Tôi nói muốn đi dạo với Thêu và Antonio một lát quanh đây rồi tiễn họ về vì đã muộn nên để đồ đạc lại nhà ăn. Trời đã nhập nhoạng, mọi thứ khoác lên mình một lớp đen mờ, màu sắc của cảnh vật cũng nhờ đi.
– Thích thật đấy. Mọi người thân thiện, cởi mở, dễ gần chị ạ. Chỗ này hay thật.
– Ừ, chị cũng cảm thấy thế, hy vọng chị học hỏi được nhiều điều.
– Khung cảnh ở đây cũng đẹp. Nhất chị rồi đấy, tự nhiên lại tìm được chỗ này. Giờ em với anh Antonio phải về rồi, mười ngày sau quay lại hy vọng nhìn thấy chị với một diện mạo mới. Ha ha. Mà nhớ cập nhật thường xuyên cho em đấy.
– Biết rồi, hai người về đi không muộn.
Tôi quay lại phòng ăn. Anh chàng mở cửa lúc đầu vẫn đang đợi ở đó để dẫn tôi đi nhận phòng, anh ấy phụ trách công việc tình nguyện ở đây và nói tiếng Anh tốt. Nhưng giờ tôi không quan trọng ai nói được tiếng Anh mà là tôi sẽ nói được bao nhiêu tiếng Tây Ban Nha với mọi người. Anh dẫn tôi đi qua hành lang chính, đến phòng thiền chúng tôi gặp một thầy tu nữa đi ra, ông đã đứng tuổi. Nhìn ông mà tôi định phá lên cười. Họ trao đổi với nhau rồi ông nhìn tôi hóm hỉnh chào. Nhưng may gặp ông ấy mà tôi nhớ được tên anh chàng dẫn tôi đi là Gerard. Chúng tôi đi xuống tầng hầm, có một bức ảnh Phật đặt phía trước.
“Chúng ta rẽ tay trái, phòng cô ngay đầu này thôi.”
Một hành lang nhỏ, hai bên là phòng cá nhân của mọi người. Gerard gõ cửa, một cô gái xuất hiện. Tôi kéo va li vào trong và Gerard đi ra.
– Xin chào, tôi là Rocío.
– Tôi tên là Uyên.
– Uyen.
– Đúng rồi.
– Cô thích giường nào.
– Bên tay phải, tôi thích gần cửa sổ.
– Tôi cũng thế, giường tôi đối diện cô.
Căn phòng có hai giường tầng, tôi và Rocío ở phía dưới.
– Phòng này có bao nhiêu người vậy?
– Có ba người, còn một cô gái nữa, nhưng hôm nay cô ấy có việc bận nên không ở đây. Cô ấy cũng tên Rocío, giống tôi.
Nói xong Rocío chỉ cho tôi tủ để quần áo và nhà vệ sinh. Tôi mang vỏ chăn nhưng không dùng đến vì đã có đủ. Buổi tối đầu tiên được sống trong không khí như có gia đình bên cạnh.
Rocío nhìn sang tôi mỉm cười.
– Uyen, chúc ngủ ngon!
– Chúc ngủ ngon!
Ấm áp quá, ngủ ngon Uyên nhé. Mọi thứ cứ như một giấc mơ. Tối nay tôi nằm niệm Phật.
Có tiếng bước chân người đi lại ngoài hành lang làm tôi thức giấc. Tôi đã có một giấc ngủ sâu. Rocío đã dậy đi đâu đó, lúc sau cửa phòng mở.
– Chào buổi sáng! Cô ngủ ngon chứ!
– Vâng, chào buổi sáng!
Rocío đã thay quần áo xong. Tôi chui ra khỏi chăn gập lại mọi thứ rồi đi vệ sinh cá nhân. Không còn ai quanh đây, tôi đi qua bức ảnh Phật ngoài sảnh mỉm cười cúi chào và lên cầu thang. Sáng sớm trời nắng, gió và có chút se lạnh mang không khí trong lành của vùng đồi cách xa đô thị. Tôi đứng trước hành lang nhắm mắt hít hà một lúc. Phía dưới hành lang là một vườn hoa oải hương tím đang nở, đẹp đến nao lòng. Bất giác tôi nhớ đến cuốn sách Ngón tay còn thơm mùi oải hương của tác giả cùng tên Giáng Uyên, nó từng là cuốn sách khơi nguồn cảm hứng và khát khao khám phá châu Âu của tôi. Cứ nghĩ xa xôi lắm mới có thể chạm tay vào loài hoa này, giờ nó ở ngay đây, ram ráp lướt trên tay tôi, thơm nồng và tinh khôi trong nắng sớm. Bên cạnh là một bệ nước nhỏ chạy dài theo vườn hoa. Tôi qua cầu thang và ngồi xuống chiếc ghế gỗ mộc đã cũ, lắng nghe nước róc rách chảy và bầy ong đang say sưa hút mật trên những nhành hoa tím.
Phía nhà ăn có ai đó đang vẫy tôi, là Gerard.
– Chào buổi sáng! Cô ngủ ngon chứ?
– Chào buổi sáng. Tôi ngủ ngon. Cảm ơn anh.
Mọi người đang dùng bữa sáng trong nhà ăn rất đông.
– Chào buổi sáng Uyen.
– Chào Uyen.
– Chào buổi sáng Uyen.
…
Tôi đi qua một hàng những lời chào và gật đầu đáp lại.
– Chào buổi sáng!
Ai cũng nhớ tên tôi mà tôi không nhớ tên ai. Tệ thật! Gerard đi theo hướng dẫn:
– Ở đây có bánh mì, bánh ngọt, mứt hoa quả, các loại đồ uống như sữa, nước cam,... Cần làm nóng bánh mì thì cho vào đây. Chúc ngon miệng!
– Cảm ơn!
Tôi loay hoay chọn hai lát bánh mì, mứt dâu tây và một cốc sữa gạo. Gerard cũng lấy một chút đồ ăn và ngồi cùng. Chắc sợ tôi chưa quen và anh còn muốn dặn dò gì đó. Mọi người kết thúc bữa sáng và bắt đầu tỏa đi các hướng khác nhau, mỗi người một việc.
– Đồ ăn ngon chứ?
– Rất ngon.
– Cô sẽ giúp mọi người làm các công việc trong bếp.
Ăn sáng xong tôi theo Gerard vào nhà bếp phía sau, đi qua vườn oải hương. Mọi người đang sửa lại một số công trình ở đó nên khá ồn. Ngày đầu tiên tôi làm phụ bếp cho sư Gyalchog. Ông lấy một chiếc tạp dề màu xanh dương và mặc cho tôi. Ông bắt tôi đội thêm cả mũ trùm tóc vì sợ tóc sẽ rơi vào thức ăn, rồi nhìn tôi gật đầu ra điều thế này duyệt được rồi. Tôi không thoải mái với cái mũ, nó làm cho tôi có cảm giác đang ở trong phòng khử trùng của bệnh viện.
Công việc ngày đầu tiên của tôi trong vai trò phụ bếp là rửa rau củ và thái chúng thành hình theo yêu cầu của bếp trưởng Gyalchog để ông cho vào món salad. Ông khá trầm tính và ít nói. Tôi được bữa cay xè mắt vì thái ớt và hành tây. Chờ mọi người ăn xong chúng tôi rửa chén đĩa và dọn dẹp nhà bếp. Mọi thứ kết thúc lúc 3 giờ chiều. Tôi mệt đờ người.
Ngày thứ hai tôi chủ động dậy sớm, ăn sáng và vào bếp đúng giờ. Hôm nay không phải sư Gyalchog. Mà là ai đây?
Tôi đứng tròn mắt nhìn người đàn ông đang chăm chú vào bảng danh sách tên của mọi người trong Trung tâm.
“Ô, lại đây nào.”
Là ông ấy, vị thầy tu tôi gặp ở cầu thang hôm đầu tiên mà mới thấy mặt chưa thấy tiếng tôi đã muốn cười rồi. Hôm nay ông mặc bộ quần áo thường dân, chiếc quần sooc và sơ mi cộc tay màu tím bên trên có dòng chữ “Eight steps to happiness” (Tám bước đến hạnh phúc), với những bước chân cứ nhỏ dần lên một hình tròn như mặt trăng ở gần chỗ trái tim. Có những người mà chỉ cần thấy họ bạn như cảm nhận được phúc lạc hân hoan, ông ấy là như thế, một ông Phật Di Lặc trong tôi.
Ông thậm chí còn không đeo tạp dề, điều này có nghĩa tôi có thể bỏ qua cái mũ trùm tóc. Tôi nhìn xuống dưới danh sách, ông đang đánh dấu những người đặt bữa ăn trưa nay.
– Sangdak là tên tôi.
Ông giới thiệu sau đó nhìn tôi rồi nhìn lên tấm bảng trên tường và viết vào danh sách bổ sung cái tên Nunyez. Tôi không nhìn thấy tên mình ở đó.
– Tên của tôi, không có ở đây.
– Nunyez (Nun nhẹt), tên cô đây.
Tôi nghẹn ứ ở cổ, nhăn nhó mặt như sắp khóc nhìn ông. Ông chỉ cho tôi tấm bảng treo trên tường và giải thích rằng sư Gyalchog đã viết tên tôi trên đó hôm qua.
Tôi đã nhìn thấy nhưng không nghĩ dòng chữ Nunyez được trịnh trọng viết trên đầu tấm bảng lại ám chỉ tên mình.
Ông cúi sát mặt, tròn mắt hỏi tôi.
– Không phải à?
Tôi lắc đầu
– Vậy cô tên gì?
– Uyên.
– Uyen?
Tôi gật đầu mặt đau khổ vô cùng còn ông cười một tràng dài. Từ hôm đó mỗi lần vào bếp nhìn thấy tôi là ông bắt đầu điệp khúc.
“Nun nhẹt, Nun nhẹt.”
Mặc cho tôi dậm chân, đập tay đầy hờn dỗi và tức tối.
Sau đó tôi phụ bếp cho Rocío là chính. Cô cho tôi toàn quyền làm món Salad. Nếu tôi thực sự muốn học nấu ăn, tôi phải học thuộc tên và công dụng của một hàng dài những lọ gia vị đang xếp đầy trên kệ. Không ngoa khi nói Tây Ban Nha là thiên đường cho những người yêu gia vị và thảo mộc. Một thời kỳ dài những người Hồi giáo đến đây, họ không chỉ để lại đền đài, kiến trúc mà còn cả những loại gia vị như thì là, rau mùi, hạt nhục đậu khấu, hạt tiêu, đinh hương, quế,... Columbus theo lệnh Nữ hoàng Isabella đi khám phá “thế giới mới” cũng mang về những gia vị đặc biệt là ớt, socola và vani. Và còn rất nhiều gia vị nổi tiếng của xứ sở này như dầu oliu, nghệ tây – thứ đắt đỏ nhất trên thế giới nhưng đã được trồng ở Tây Ban Nha cả nghìn năm,…
Mười ngày ở đây tôi chỉ có thể cưỡi ngựa xem hoa. Nhưng món Salad là một sự pha trộn ngẫu hứng giữa các loại rau củ quả, nó vừa sức với tôi. Mỗi đầu bếp lại cho tôi một phong cách thái và trộn rau củ khác nhau. Rocío thích mọi thứ nhỏ nhắn, thanh mảnh. Nhưng sư Gyalchog và sư Sangdak lại thích vuông vức và to bản. Gia vị không thể thiếu cho bất kỳ món salad nào là dầu oliu và không bữa nào thiếu món này, giống như món rau không thể thiếu trong bữa cơm người Việt.
Tây Ban Nha được coi là “vườn cây trái của châu Âu”, đặc biệt có một số khu vực hoạt động chủ yếu là nông nghiệp như Galicia, Extremadura và Andalusia. Tôi sẽ không thể đếm được có bao nhiêu loại salad ở Tây Ban Nha nhưng trong mười ngày tôi nghĩ mình sẽ có một bộ sưu tập kha khá. Cũng không quá tệ cho một phụ bếp như tôi.