Phần IV
Từ ngày Chứ Đa bỏ đi biệt tích, ngày nào Thào Mỷ cũng sang nhà Chư Pấu để tìm. Có hôm nó đi một mình, hôm thì rủ Seo Lử và Mí Vư đến. Lần nào bọn chúng cũng chỉ nhận được những cái lắc đầu đầy bí ẩn của cha mẹ Chứ Đa. Cả bọn không hiểu đã xảy ra chuyện gì với Chứ Đa nên lo lắm. Thào Mỷ là đứa lo lắng nhất. Nó rủ Seo Lử, Mí Vư đi dò hỏi mọi người trong bản. Ai cũng lắc đầu không biết. Chúng bèn rủ nhau lên cái hang chứa nước ở trên núi Tả Chô để tìm. Đấy là nơi mà trước kia Chứ Đa cùng các bạn đã tìm ra nguồn nước quí cho dân bản. Từ đó thỉnh thoảng Chứ Đa cùng bọn Seo Lử, Mí Vư và Thào Mỷ lại lên cái hang này thăm thú. Cảnh trong hang thật đẹp và đầy bí ẩn. Đối với bọn trẻ con như Chứ Đa, sự kỳ ảo của thiên nhiên luôn hấp dẫn chúng.
Đi khắp các ngóc ngách trong hang đá mà Thào Mỷ và bọn Mí Vư chẳng tìm thấy Chứ Đa. Nhìn cột đá giữa lòng hang, Thào Mỷ bỗng nhớ lại như in cái lần nó cùng Chứ Đa và các bạn tìm thấy chiếc hang chứa nước này.
…Năm nào cũng thế, cứ đến mùa khô là thung lũng Sủng Pả thiếu nước. Khắp cả bản chỉ còn vài vũng nước nhỏ. Đến khi những vũng nước này cạn thì dân bản phải đi xa hàng nửa ngày đường leo núi mới có chỗ lấy nước, mà nước cũng chẳng còn nhiều, phải chắt từng giọt vào vỏ bầu khô, bỏ quẩy tấu cõng về. Trước tình cảnh ấy, Chứ Đa rủ các bạn lên đầu nguồn Tả Chô tìm nước. Nhìn những hang động đá vôi vừa kỳ vĩ, vừa bí ẩn, Chứ Đa nói với các bạn:
- Nhất định trong những hang động này sẽ có cái chứa nước.
Mí Vư bảo:
- Nếu hang có nước thì người già đã biết. Tìm làm gì cho mất công!
Thào Mỷ và Seo Lử gật đầu có ý tán đồng ý kiến của Mí Vư. Nhưng Chứ Đa vẫn nói tự tin:
- Tao hỏi người già rồi, chưa ai lên hang núi Tả Chô đâu. Dân bản đồn rằng ở đó có Thần Núi trú ngụ. Họ cho rằng ai tự tiện vào đó làm động chạm đến Thần Núi sẽ bị Thần Núi hại chết. Tao đoán là trong hang này có nước.
Thào Mỷ nghe thế sợ tái mặt, liền bảo:
- Người già còn sợ, chúng mình vào đó có sao không?
Mí Vư nói chêm vào:
- Đúng đấy. Người già còn sợ cơ mà!
Chứ Đa trấn an các bạn:
- Tao chẳng tin Thần Núi làm hại những người đi tìm nước cho dân bản đâu. Mới lại đã có ai nhìn thấy Thần Núi bao giờ chưa?
Seo Lử từ đầu đến giờ im lặng, bỗng nói nhưngười lớn:
- Chứ Đa à, hang này lạ, lại tối nữa biết thế nào mà vào. Tao thấy nguy hiểm lắm! Hay là ta quay về nhà lấy đèn ló lên để soi đường rồi hãy vào?
Thấy các bạn có vẻ nản lòng, Chứ Đa nói quả quyết:
- Bọn mày cứ ở ngoài chờ tao. Tao vào trước, khi nào tìm thấy nước sẽ gọi.
Nói đoạn, Chứ Đa lách mình chui vào một ngách hang nhỏ, tối om. Bỗng có tiếng phần phật nổi lên loạn xạ trong hang. Chứ Đa hơi chột dạ vì tưởng Thần Núi nổi giận, nhưng chỉ trong khoảnh khắc nó trấn tĩnh lại ngay. Hoá ra đó chỉ là lũ dơi trong hang thấy động bay ra. Chứ Đa nhoẻn cười. Nó ngửa cổ tìm lối vào sâu trong lòng hang, rồi bám đá, bám dây, lách mình luồn hết ngách này đến ngách khác. Một luồng khí lạnh phả vào người làm Chứ Đa sởn da gà. Nó lưỡng lự định quay ra nhưng bản tính tò mò, ưa mạo hiểm cứ lôi nó đi tiếp. Chứ Đa muốn tìm hiểu xem luồng hơi lạnh kia từ đâu tới. Nó hít thở thật sâu để tự trấn an mình, rồi mạnh bước về phía có luồng hơi lạnh. Bỗng trước mắt nó hiện lên một vầng trăng mờ đục. Chứ Đa dụi mắt nhìn lại cho rõ. Đúng là một vầng trăng vừa tròn vừa to. Nó ngửa cổ nhìn lên, thấy trên nóc hang có một lỗ thủng tròn như cái mẹt. Lỗ thủng ấy đem ánh sáng trên trời rọi xuống đáy hang sâu. Một hòn đất nhỏ, hình như là vỏ con ốc núi, từ chân Chứ Đa rơi xuống. Vầng trăng bỗng tan ra, lượn sóng. Nước! Hoá ra là nước. Chứ Đa hét ầm lên:“Có nước rồi chúng mày ơi! Bà con dân bản ơi, có nước rô...ồ...i!”
Quá sung sướng, Chứ Đa nhảy đại xuống vũng nước. Không phải vũng nhỏ mà là cả một hang chứa nước vừa rộng vừa sâu. Nếu không túm được cột đá giữa hang thì có khi Chứ Đa đã chết đuối rồi. Lúc ôm được cây cột đá mọc lên từ giữa vũng nước, Chứ Đa mới hoàn hồn và thấy mình liều lĩnh quá. Ngửa cổ nhìn lên lỗ thủng ở nóc hang, Chứ Đa cười như bị ma làm. Tiếng cười của nó vang khắp lòng hang, vọng vào các ngóc ngách thành một chuỗi cười dài không dứt.
Chứ Đa bắt đầu thấy lạnh. Nó bám cột đá leo lên rồi nhảy vào bờ đá, tìm lối ra. Thỉnh thoảng nó ngoái cổ lại nhìn “vầng trăng” dưới đáy hang, nhìn lỗ thủng trên trời để thêm một lần nữa tin vào sự hiển hiện của nguồn nước quí. Nó còn nhìn kỹ để định hướng lối vào và tính đếm đến việc dẫn nước ra.
Nhìn thấy Chứ Đa ướt như chuột lột, Thào Mỷ và các bạn vừa sợ vừa mừng. Chúng chạy đến đón Chứ Đa như đón một người từ cõi chết trở về.
Chứ Đa dang tay, ngửa mặt lên trời gào to:
- Dân bản ơi! Có nước rồi. Tìm thấy nước rồi!
Mí Vư, Seo Lử sung sướng ôm lấy Chứ Đa. Thào Mỷ quên mình là con gái cũng nhảy vào ôm lấy bọn con trai. Giật mình nhận ra điều ấy, Thào Mỷ vội buông tay ra, cúi mặt ngượng ngùng. Seo Lử nói thủng thẳng như người lớn:
- Về báo tin vui cho dân bản thôi!
Chứ Đa và các bạn đến báo tin cho tộc trưởng Nỏ Pó biết chúng đã tìm thấy nguồn nước trên hang núi Tả Chô. Tộc trưởng có vẻ không tin lắm, vì ông nghĩ, từ trước tới nay người lớn tìm mãi còn chẳng thấy, nói gì đến mấy đứa trẻ con. Nhưng trước lời lẽ quả quyết của Chứ Đa, ông thấy có điều gì đó rất lạ, liền cắt cử một số trai tráng khoẻ mạnh, giỏi leo núi theo chân bọn Chứ Đa lên tận nơi xem xét. Cái Thào Mỷ là con gái cũng đòi đi theo. Khi nhóm người trẻ tuổi từ hang nước trên núi Tả Chô trở về, tộc trưởng Nỏ Pó hỏi họ rất kỹ về cái hang chứa nước. Một người trong nhóm bảo:
- Lời thằng Chứ Đa nói đúng đấy. Hang nhiều nước lắm. Lấy nước xuống cũng không khó lắm đâu, chỉ cần đục một cái lỗ từ vách đá bên ngoài vào tầm nửa sải tay là tới nước thôi!
Nghĩ ngợi một lát, tộc trưởng Nỏ Pó nói:
- Lấy nước ở hang núi Tả Chô về Sủng Pả thì mọi người trong bản sẽ có nhiều nước để dùng, nhưng ta chỉ sợ Thần Núi, Thần Nước phạt thôi!
Chứ Đa hỏi chen ngang:
- Sao Thần Núi, Thần Nước lại phạt chứ?
Câu hỏi khó khiến tộc trưởng Nỏ Pó nghĩ mãi mà chưa biết cách trả lời. Ông nhìn lên trời, nhìn lên phía núi Tả Chô có hang nước, nhìn khắp lượt cánh trẻ, rồi hạ một câu chắc như đinh đóng cột:
- Ta phải làm lễ cúng thần linh để xin phép Thần Núi, Thần Nước. Khi các thần linh đồng ý thì mới được dẫn nước từ hang núi Tả Chô về bản.
Chứ Đa thắc mắc:
- Nhưng làm thế nào để biết được các thần linh có đồng ý hay không?
Tộc trưởng Nỏ Pó nói:
- Ta được xem thầy mo cúng thần linh nhiều rồi. Khi làm lễ cúng để xin phép thần linh điều gì, thầy mo sẽ khấn vái, sau đó thả ra một con dê. Con dê bước về hướng nào là ý các thần linh nghiêng về hướng ấy. Hôm làm lễ cúng xin nước, nếu con dê bước về hướng núi Tả Chô có hang nước thì tức là các thần linh đồng ý. Nếu nó bước theo hướng khác thì nhất quyết là không được. Muốn có cuộc sống yên ổn thì chúng ta phải làm theo ý nguyện của các thần linh!
Nghe Nỏ Pó nói thế, gương mặt Chứ Đa tươi tỉnh hẳn. Nó ghé tai Thào Mỷ bảo:
- Thế thì chắc chắn Thần Núi, Thần Nước sẽ đồng ý thôi! - Chứ Đa cười cười, nháy mắt về phía Thào Mỷ vẻ bí hiểm.
Đúng như lời Chứ Đa nói với Thào Mỷ mấy hôm trước, hôm thầy mo làm lễ cúng để xin phép các thần linh được lấy nước về cho dân bản, con dê đen được thầy mo cởi sợi dây buộc sừng khỏi chiếc cọc để thả ra ngoài, nó đã đi thẳng về hướng núi Tả Chô - nơi có hang nước quý. Vậy là các thần linh đã đồng ý. Mắt tộc trưởng Nỏ Pó sáng lên. Niềm vui khiến gương mặt vốn đăm chiêu của ông rạng ngời. Ông vui là phải, vì với cương vị một tộc trưởng, được dân bản tin tưởng giao cho việc cai quản địa phận, được coi là người thay trời hành đạo, chăm lo cuộc sống cho dân lành, ông luôn nghĩ mình sẽ phải làm những việc có ích cho mọi người. Từ ngày giữ chức tộc trưởng ông đã làm được nhiều việc, nhưng riêng cái việc lo đủ nước cho dân bản thì ông chưa có cách nào làm được. Nay việc khó đó đã có lối gỡ, bởi thế ông vui cái đầu, ông sướng cái bụng.
Hôm ấy dân bản Sủng Pả vui như Tết, vì từ nay sẽ có nhiều nước để dùng, không còn phải đi lấy nước xa như trước nữa. Chứ Đa nháy mắt về phía Thào Mỷ, ý muốn bảo: “Thào Mỷ thấy chưa? Chứ Đa đoán có sai đâu!”.
Trong lúc con dê đen bị đem đi mổ thịt làm lễ tế thần, Thào Mỷ lôi Chứ Đa ra một góc để hỏi chuyện về “đường đi của con dê”. Nó phải gặng hỏi mãi, thậm chí sắp khóc Chứ Đa mới nói cho biết cái bí quyết của mình:
- Việc ấy dễ thôi mà. Chứ Đa rắc muối để dẫn đường cho con dê đen đi đúng ý của Chứ Đa! Trước khi thầy mo làm lễ, Chứ Đa lén rắc muối về hướng núi Tả Chô. Khi thầy mo thả ra, con dê ngửi thấy mùi muối đã đi về hướng ấy. Thế thôi!
- Nhưng sao Chứ Đa biết dê thích muối? - Thào Mỷ hỏi.
- Để ý thì biết ngay thôi. Nhà nào nuôi dê cũng thỉnh thoảng cho chúng liếm láp tí muối để tránh bệnh tật và mau lớn.
Thào Mỷ gật gù khen:
- Chứ Đa giỏi thật đấy. Đánh lừa được cả thầy mo!
- Thào Mỷ đừng nói cho ai biết nhá. Thầy mo mà nghe được là không hay đâu!
Được thần linh đồng ý, tộc trưởng Nỏ Pó yên tâm cắt cử các trai tráng đem dụng cụ lên hang núi Tả Chô đục đá dẫn nước về bản. Họ lấy cây bương làm đường ống dẫn nước dài cả “nửa buổi đi bộ” về Sủng Pả. Từ đó Sủng Pả chẳng bao giờ thiếu nước vào mùa Đông…
Không tìm thấy Chứ Đa, Thào Mỷ và các bạn buồn lắm. Chúng cảm thấy thực sự mất đi chỗ dựa. Hàng ngày vẫn đi chăn bò nhưng chúng chỉ ngồi trên các mỏm đá nhìn về một miền xa xăm nào đó và chẳng thiết chơi trò gì. Mọi lần Chứ Đa thường khới ra các trò chơi như đánh sảng, trốn tìm, bắn nỏ... khiến bọn chúng rất thích. Mí Vư nhớ mãi việc nó được Chứ Đa đẽo cho một con quay to như vốc tay, quay tít mù mãi mà không “chết”. Thào Mỷ luôn giữ bên mình quả pao do Chứ Đa làm tặng từ Tết sớm năm ngoái. Seo Lử chẳng bao giờ quên tài bắn nỏ của bạn mình. Nó còn nhớ, hôm làm xong chiếc nỏ, hai đứa rủ nhau ra nương tập bắn. Chứ Đa hái một chiếc lá cài vào thân cây chuối rừng, ngắm bắn. Nó bắn lần nào cũng trúng, mặc dù chiếc lá chỉ bé bằng nửa bàn tay trẻ con, trong khi Seo Lử bắn hết cả ống tên mà thỉnh thoảng mới có phát trúng đích. Thào Mỷ thì vừa thích vừa sợ trò chơi trốn tìm trong hang đá. Dù hang mới hay hang cũ, chỉ một loáng là Chứ Đa đã thuộc hết các ngóc ngách trong khi Thào Mỷ và các bạn khác còn chưa biết lối nào mà lần. Những cuộc đánh sảng (chơi cù) của bọn trẻ ở Sủng Pả do Chứ Đa tổ chức vui không để đâu hết. Cả người già, phụ nữ trong bản cũng bỏ việc nương rẫy, việc nhà cửa kéo đến xem. Gọi là trò chơi của trẻ con nhưng cả người lớn cũng tham gia rất đông. Mỗi cuộc như vậy thường kéo dài cả ngày, thậm chí hết ngày này đến ngày khác. Thường thường mỗi cuộc cù như vậy phần thắng luôn thuộc về Chứ Đa. Cù của nó vừa “tít”, vừa “sống lâu”. Những cú “bổ” của Chứ Đa thường rất chính xác và mạnh mẽ, khiến cù của các bạn chơi bị vỡ đôi hoặc bật khỏi sới. Hàng năm, cứ trước mùa đánh sảng, Chứ Đa lại bỏ công đẽo rất nhiều con quay cho các bạn trong bản. Một số thanh niên cũng nhờ nó đẽo cho những chiếc cù vừa to vừa “khoẻ” để đi thi thố với thanh niên bản khác. Có người nhờ thắng cuộc cù mà lấy được gái đẹp ở bản khác đem về làm vợ. Riêng trò nhảy qua vực Miệng Hổ thì đến bây giờ ở Sủng Pả và các bản lân cận cũng chưa ai làm được như Chứ Đa. Hồi nó còn ở nhà, có người lớn không tin bảo nó nhảy cho xem, Chứ Đa chẳng ngần ngại bay người qua luôn, khiến những người chứng kiến phục sát đất.
Ngoài những cái tài kể trên, Chứ Đa còn là một trong những người giỏi khoan nòng súng kíp và thổi xì đồng. Cách đây mấy năm nó đã xin người già cho theo vào rừng xem các tay thợ khoan nòng súng bằng sức gió. Cái kiểu khoan này chỉ những người Mông kỳ cựu, giỏi rèn đúc nhất cả vùng mới có thể làm được. Đây là một bí quyết của người Mông, lẽ ra không được cho người lạ và trẻ con đến xem, nhưng chẳng biết Chứ Đa nói thế nào mà người thợ già lại đồng ý cho nó đi cùng. Quả là người thợ già có con mắt tinh đời. Chứ Đa còn rất trẻ mà đã học được bí quyết khoan nòng súng, thậm chí nó khoan giỏi không kém gì những người lớn tuổi giỏi nhất. Nó học thổi xì đồng nhanh đến mức thầy dạy vừa giảng xong nó đã làm được ngay. Phường săn của bản thấy Chứ Đa giỏi quá đã cho nó nhập vào tốp “lõng mồi” (tức là nấp ở những chỗ thích hợp để chờ con mồi xuất hiện là bắn hạ). Nó trở thành đứa trẻ con đầu tiên của bản được nhập vào phường săn. Ngay buổi đầu tiên ra mắt, Chứ Đa đã dùng nỏ bắn hạ được mấy con chồn và cáo - một việc được coi là “kỳ tích” trong mỗi phường săn...
Chứ Đa bây giờ ở đâu? Câu hỏi ấy cứ bám theo Thào Mỷ và các bạn không thể dứt ra được. Từ ngày Chứ Đa mất tích, Thào Mỷ thường xuyên lui tới nhà Chứ Đa để ngóng tin bạn và giúp đỡ bác Mùa vài thứ việc vặt. Vừa làm nó vừa lựa lời dò hỏi bác Mùa tin tức về Chứ Đa, nhưng vẫn chỉ nhận được những cái lắc đầu khó hiểu. Trong thâm tâm Thào Mỷ đoán chắc rằng cha mẹ Chứ Đa biết nó đi đâu, nhưng không muốn nói ra. Thào Mỷ cũng chẳng hỏi nữa, vì nó nghĩ chắc việc này có điều gì khó nói nên cha mẹ Chứ Đa mới giữ bí mật như vậy. Gần đây Thào Mỷ thấy bác Chư Pấu cũng không có ở nhà, chẳng biết là bác ấy đi đâu nữa. Mấy lần nó định hỏi bác Mùa xem bác trai đi đâu, nhưng nghĩ sao nó lại thôi.
Thào Mỷ là một đứa gái có nhiều nỗi khổ. Nó mồ côi cha mẹ từ khi còn bé tí. Nó được nghe người lớn kể rằng, trong một lần đi làm nương, cha mẹ nó bị đá núi lở bất ngờ, đè chết. Người ta đưa xác cha mẹ nó về chôn cất nhưng không cho nó biết. Khi Thào Mỷ hỏi mọi người “Cha mẹ đâu?” thì chỉ nhận được những cái lắc đầu bí hiểm. Thào Mỷ nhớ lại, hồi nó được bà ngoại đón về nuôi, nó cứ thắc mắc tại sao bà ngoại lại ở có một mình, trong khi những nhà khác có đủ ông bà, cậu mợ, chú dì? Một lần nó hỏi:
“Bà ơi! Cha mẹ cháu đi đâu? Ông cháu đâu? Sao cháu không có cậu, có dì?”
Nó chỉ thấy bà buồn bã lắc đầu. Nó gặng hỏi thì bà gắt lên:
“Cháu còn bé, hỏi chuyện người lớn làm gì!”
Thào Mỷ sợ không dám hỏi nữa. Nhưng trong đầu nó lúc nào cũng cứ thắc mắc về chuyện tại sao nó không có cha mẹ, không có ông ngoại và các cậu, các dì.
Mãi gần đây, khi bà ngoại đã mất, Thào Mỷ mới được nghe người già trong bản kể lại: Cha mẹ nó bị đá lở đè chết từ lúc nó mới biết đi. Ông ngoại nó bỏ nhà đi theo người đàn bà khác từ khi mẹ nó mới biết bò. Từ đó bà ở một mình cho đến khi đón nó về nuôi. Từ chuyện của bà ngoại, Thào Mỷ nghĩ, nhất định chuyện Chứ Đa vắng nhà cũng có lý do gì đó khó nói, vì nó nhận thấy cái lắc đầu của cha mẹ Chứ Đa giống hệt như cái lắc đầu của bà ngoại nó ngày trước.
❖ ❖ ❖
Thấy Thào Mỷ thường xuyên qua lại nhà Chứ Đa, Mí Vư không vui. Hồi Chứ Đa còn ở nhà, nét mặt Mí Vư cứ lầm lỳ, thậm chí là hậm hực, mỗi khi nhìn thấy Thào Mỷ đi với Chứ Đa hoặc nghe Thào Mỷ nhắc đến Chứ Đa. Nhiều lần cả bọn cùng nhau đi chơi, đi chăn bò, Mí Vư thường tìm cách kéo Thào Mỷ ra chỗ riêng nói chuyện nhưng Thào Mỷ không đi. Ngược lại, Thào Mỷ cứ xán lăn đến chỗ Chứ Đa. Đôi má bầu bĩnh, lúc nào cũng đỏ hồng như vừa từ bếp lửa bước ra, lại điểm thêm cái lúm đồng tiền rất sâu, cùng đôi mắt to tròn, sáng lóng lánh của Thào Mỷ đã làm cho Mí Vư mê mẩn. Cái dáng người tròn lẳn của một thiếu nữ đang ở tuổi dậy thì giấu trong bộ váy áo thêu hoa văn rất đẹp của Thào Mỷ khiến cho bao gã trai bản nao lòng. Đã không ít lần Mí Vư đứng như trời trồng nhìn đăm đắm vào bộ ngực tròn căng của Thào Mỷ. Lúc leo núi nó luôn đi sau ngay sát Thào Mỷ để được ngắm đôi kheo chân trắng mọng của người con gái cùng bản. Dáng hình Thào Mỷ toát lên một vẻ đẹp thuần khiết, dịu dàng giống như một bông hoa rừng. Rồi sẽ đến ngày bông hoa rừng ấy bừng nở, rực rỡ và ngát hương. Mí Vư cứ lo rằng đến lúc đó Thào Mỷ sẽ thuộc về người khác, mà phần nhiều là sẽ thuộc về Chứ Đa!
Mí Vư lo là phải, bởi nó thua kém Chứ Đa về mọi mặt. Tuy là một chàng trai khỏe mạnh nhưng Mí Vư không có khả năng gì đặc biệt, lại lầm lỳ ít nói, gương mặt lúc nào cũng khắc khổ. Nét nổi bật nhất của Mí Vư là thường quan tâm giúp đỡ mọi người. Đức tính này nó học được từ người cha ngay khi nó còn nhỏ. Theo lời cha Mí Vư kể, hồi trước nhà nó bị cháy không còn cái gì, phải vào hang đá ở, sống bằng củ quả, rau măng kiếm được ở nương, ở rừng. Bà con trong bản xúm vào giúp cha mẹ nó dựng một ngôi nhà chình tường, góp mỗi nhà một sinh ngô để sống qua ngày, đợi đến khi thu hoạch vụ ngô mới. Để trả nghĩa tấm lòng bà con đối với nhà mình, cha mẹ Mí Vư luôn sống tốt với mọi người. Nhà ai trong bản có công to việc lớn, cha Mí Vư luôn có mặt trước tiên để giúp sức. Vào mùa làm nương, cha thường bảo anh em Mí Vư đi khắp bản xem nhà ai neo người thì đến giúp chọc lỗ bỏ hạt.
Từ ngày Thào Mỷ biết làm nương, Mí Vư thường hay đến giúp Thào Mỷ lảu cỏ, chọc lỗ. Nó giúp theo thói quen vốn có, giúp vì thấy nhà Thào Mỷ chỉ có hai bà cháu, thiếu người làm. Khi lớn hơn một chút, đến tuổi thích nhìn con gái đẹp, nó còn lấy cớ đến giúp để được gần người con gái mà nó thích. Mỗi khi được làm nương cùng Thào Mỷ, Mí Vư thấy lòng mình xốn xang, làm việc không biết mệt. Nhìn Mí Vư chọc lỗ cho Thào Mỷ bỏ hạt, dân bản bảo trông hai đứa giống như một đôi vợ chồng. Nghe thế Mí Vư thích lắm, gương mặt nó tươi tỉnh hẳn lên.
Vậy mà chẳng hiểu sao Thào Mỷ không thích nói chuyện với nó, chỉ thích ngồi gần Chứ Đa, khiến Mí Vư buồn lòng. Bây giờ Chứ Đa bỏ đi đâu không rõ, Thào Mỷ vẫn hay đến nhà nó là làm sao? Lòng tốt trong con người Mí Vư mách bảo nó rằng, vì Thào Mỷ thương bác Mùa chỉ còn một mình nên thường xuyên đến đó để an ủi. Nghĩ vậy, đôi mắt Mí Vư sáng lên niềm hi vọng.
❖ ❖ ❖
Hôm nay Thào Mỷ sang nhà Chứ Đa sớm hơn mọi ngày vì đêm qua nó mơ thấy Chứ Đa về. Nó háo hức gọi từ ngoài cổng:
- Chứ Đa ơi! Chứ Đa! Bác Mùa ơi! Bác Mùa!
Chẳng thấy tiếng ai thưa. Cánh cổng gỗ vẫn buộc chặt bởi sợi mây già. Thào Mỷ nghến chân ngó vào phía trong thấy hết sức yên ắng. Bếp lửa lạnh tanh. Nó thắc mắc: Sao giờ này bác Mùa vẫn chưa dậy? Mọi khi bác ấy dậy sớm lắm cơ mà? Hay là bác ấy ốm? Có thể lắm, mấy hôm trước mình thấy bác ấy có vẻ rất mỏi mệt, ăn mỗi bữa không hết bát mèn mén. Cái chân bác ấy bị tróc móng phát sốt, đi lại phải chống que. Mình phải vào nhà xem bác ấy thế nào. Nghĩ thế, quên mình là con gái, Thào Mỷ cởi dây buộc cổng bước vào nhà. Nó mở cửa ngó cổ vào trong. Một luồng khí lạnh bất chợt ùa ra khiến Thào Mỷ sởn da gà. Nó mạnh bạo bước vào bên trong, đến chỗ mọi khi bác Mùa thường ngủ. Chẳng thấy ai. Chăn chiếu lạnh lẽo. Chứng tỏ đêm qua bác ấy không ngủ ở nhà. Thế thì bác ấy đi đâu? Chẳng lẽ bác ấy đi tìm cha con Chứ Đa? Biết ở đâu mà tìm chứ? Hay là bác ấy buồn chán quá đã…? Tự suy đoán bằng những câu hỏi trong đầu, Thào Mỷ bỗng thấy lạnh toát sống lưng khi nghĩ đến chuyện mẹ Chứ Đa vì buồn chán quá mà ăn lá ngón! Nó vội chạy đến nhà tộc trưởng Nỏ Pó báo tin:
- Tộc trưởng ơi! Tộc trưởng!
Nghe tiếng gọi giật giọng của Thào Mỷ, Nỏ Pó đoán là có điều gì đó bất thường, vội ra mở cổng, tất tưởi hỏi:
- Thào Mỷ à, có chuyện gì thế?
- Có chuyện thật đấy. Cả nhà bác Mùa bỏ đi đâu hết rồi! Chứ Đa đi trước, rồi đến bác Chư Pấu và bây giờ là bác Mùa. Thào Mỷ lo lắm, có khi cả nhà bác Mùa chết hết rồi cũng nên! Tộc trưởng gọi người đi tìm xem!
Tộc trưởng Nỏ Pó gật đầu, nói với Thào Mỷ, rồi nói với chính mình:
- Được rồi. Thào Mỷ cứ về đi! Mà mẹ Chứ Đa đi đâu mới được chứ? Cả cha con Chư Pấu nữa, chúng bỏ đi đâu không biết? Hầy dà…
Tộc trưởng Nỏ Pó vội đi báo tin cho dân bản Sủng Pả. Cả bản bỏ hẳn việc làm nương để đi tìm vợ chồng Mùa. Họ cứ nghe theo lời kể và những suy đoán của Thào Mỷ mà đi, nhưng chẳng hiểu sao đôi chân mọi người cứ tự nhiên đi về hướng Bắc như thể có ai xui khiến. Seo Lử, Mí Vư, Thào Mỷ là những đứa tích cực nhất. Trước khi đi, Seo Lử dắt con chó khoang thân thiết của mình sang nhà Chứ Đa để nó ngửi hơi quần áo, đồ vật của những người mất tích. Seo Lử bảo, con chó khoang này rất thính mũi và có biệt tài đánh hơi người. Chỉ cần cho nó ngửi quần áo, đồ vật của ai một lần thì dù người đó có ở xa cả một quả đồi hay đứng giữa đám đông nó cũng nhận ra được.
Seo Lử sử dụng con chó bằng cách huých nó chạy trước để đánh hơi. Con khoang luôn chạy trước, rất xa mọi người. Nó sục sạo hết chỗ nọ, chỗ kia để tìm mùi hơi của những người nhà Chứ Đa. Nó mải mê đến mức mấy lần Seo Lử đưa tay lên miệng huýt gió để gọi mà nó cũng không quay trở lại. Trên đường đi, theo lời chỉ bảo của tộc trưởng Nỏ Pó, mọi người tìm khắp các nương ngô, nương anh túc cũ và những nơi mà vợ chồng Mùa có thể tới. Cánh trai trẻ sục sạo khắp các hang đá, các hẻm vực mà vẫn chẳng tìm thấy dấu tích gì!
Đúng lúc mọi người cảm thấy nản lòng và hết hi vọng vì chẳng biết tìm cha mẹ Chứ Đa ở đâu thì con chó khoang của Seo Lử sủa nhanh nhách phía trước mặt. Tiếng sủa của nó như báo cho mọi người biết có chuyện chẳng lành. Và đúng là có chuyện chẳng lành đã xảy ra. Trước mắt mọi người là một ụ đất giống như ngôi mộ mới đắp. Con chó khoang của Seo Lử đang bới hai chân trước vào chiếc áo tà pủ rách nát, thẫm máu, bị vùi dưới lớp đất đỏ. Khi con chó khoang cắn cái áo lôi ra, nó kéo theo luôn cả mấy khúc xương còn dính thịt nham nhở. Tộc trưởng Nỏ Pó bảo các trai tráng bới đất ra xem. Tất cả bàng hoàng khi thấy chiếc đầu lâu cùng những dẻ xương sườn thâm đen. Mọi người xem xét kỹ và nhận ra đó là đầu lâu của Chư Pấu nhờ vào những chiếc răng bọc vàng. Cạnh đấy là chiếc khăn vuông thổ cẩm. Thào Mỷ nhận ra đó là khăn của mẹ Chứ Đa vì nó đã nhiều lần nhìn thấy bác Mùa đội chiếc khăn này. Tộc trưởng Nỏ Pó bất ngờ ôm mặt khóc khồng khộc. Tiếng khóc của ông lan truyền sang mọi người thành những âm thanh như tiếng lá rụng trong đêm mưa phùn gió bấc.
Chẳng ai bảo ai, mọi người xúm vào đắp lại ngôi mộ cho vợ chồng Chư Pấu. Xong việc, họ lặng lẽ trở về bản trong nỗi xót thương chẳng thể nói bằng lời…