CHƯƠNG V HÃY CHO TÔI BIẾT KHÔNG PHẢI CHẤT STRYCHNIN CHỨ?
Ông tìm thấy cái này ở đâu vậy? - Tôi hết sức tò mò hỏi Poirot.
- Trong giỏ rác. Anh nhận ra chữ viết của ai không?
- Có. Của bà Inglethorp. Nhưng nó có ý nghĩa gì? Poirot nhún vai.
- Tôi không biết, nhưng khá lý thú đấy.
Tôi chợt có một ý nghĩ điên rồ. Có thể nào đầu óc của bà Inglethorp đã bị loạn trí rồi không? Bà ta đã nung nấu một ý nghĩ quái đản về việc bị quỷ ám không? (Sở hữu: tiếng Pháp là Posséder, còn có nghĩa là bị quỷ ám). Và, trong trường hợp đó, có thể nào bà ta đã tự sát không?
Tôi định trình bày những ý nghĩ của mình cho Poirot thì những lời nói của ông khiến tôi chú ý.
- Ta hãy đi xem xét các tách cà-phê đi.
- Ông Poirot thân mến ạ! Cần gì, khi mà bây giờ chúng ta đã chắc chắn về chất ca-cao rồi.
- Ồ! Cái chất ca-cao khốn khiếp ấy! - Poirot nhẹ nhàng kêu lên.
Ông bật cười, vẻ như rất thích thú, giơ tay lên trời một cách tuyệt vọng và khôi hài, cử chỉ đó, theo tôi thật không phải lúc.
- Dù sao đi nữa - tôi tiếp, rõ ràng là rất lạnh lùng - thì bà Inglethorp cũng đã đem cà-phê vào phòng, và tôi không thấy ông có thể phát hiện được điều gì trừ phi ông cho rằng sẽ tìm thấy một gói Strychnin trên chiếc khay.
Poirot lấy lại giọng nghiêm túc:
- Nào, nào, anh bạn, xin đừng nổi nóng. Hãy cho phép tôi quan tâm đến những tách cà-phê của tôi. Còn tôi, tôi sẽ tôn trọng ca-cao của anh. Thế đấy. Đồng ý nhé.
Ông có vẻ hối hận một cách khôi hài đến nỗi tôi buộc phải phì cười. Chúng tôi cùng đến phòng khách, ở đó các chiếc tách vẫn còn đặt trên chiếc khay, ngay chỗ chúng tôi đã đặt chúng tối hôm qua.
Poirot bảo tôi tả lại cảnh tượng hôm qua, rất chăm chú nghe tôi nói và kiểm tra lại vị trí của mội cái tách.
- Vậy ra bà Cavendish đứng gần chiếc khay và rót cà-phê. Được lắm. Rồi bà ta đến bên cửa sổ nơi anh và cô Cynthia ngồi. Phải. Đây là ba cái tách. Còn cái tách đã vơi phân nửa kia, trên lò sưởi, có lẽ là của ông Laurence Cavendish. Còn cái trên khay?
- Của John Cavendish. Tôi đã trông thấy anh ta đặt nó ở đấy.
- Thôi được. Một, hai, ba, bốn, năm. Nhưng, trong trường hợp đó, tách của ông Inglethorp đâu?
- Ông ta không bao giờ dùng cà-phê.
- Như thế thì mỗi cái tách đều đã được sử dụng… Khoan đã, anh bạn.
Thật cẩn thận, ông lấy một hay hai giọt trong đáy mỗi chiếc tách và để riêng trong những ống nhỏ bằng thủy tinh, không quên nếm cà-phê lấy được mỗi lần. Một sự thay đổi lạ lùng bất ngờ làm khuôn mặt ông biến dạng: ông có vẻ ngơ ngác, nhưng lại hơi nhẹ nhõm.
- Được rồi - cuối cùng ông bảo - Tất nhiên thôi. Tôi có một ý nghĩ, nhưng rõ ràng là tôi đã lầm. Phải, hoàn toàn lầm. Tuy vậy, quả là lạ lùng. Thôi, mặc kệ vậy.
Và, nhún vai một cách đặc biệt, ông xua khỏi ý nghĩ của mình điều làm ông lo lắng. Tôi rất muốn nói cho ông biết rằng nỗi ám ảnh của ông về vấn đề cà-phê sẽ không dẫn đến đâu cả, nhưng tôi ngăn được mình. Vì, sau rốt, dù có già đi nữa, thì Poirot cũng vẫn là một người đàn ông nổi tiếng.
- Bữa trưa đã được dọn lên - John Cavendish từ hành lang đến và thông báo - Ông sẽ dùng bữa với chúng tôi chứ, ông Poirot?
Poirot đồng ý. Tôi quan sát John. Anh gần như đã lấy lại được sự quân bình sau cú sốc của các biến cố hồi đêm. Anh ta ít có óc tưởng tượng, trái ngược hẳn với cậu em, người mà có lẽ lại có quá nhiều.
Từ tờ mờ sáng, John đã rất bận bịu để gửi những bức điện (cái đầu tiên là cho Evelyn Howard), để viết những lời cáo phó cho các báo và lo đến tất cả các nghĩa vụ nặng nề.
- Tôi có thể hỏi ông xem cuộc điều tra của ông có tiến triển không? Những cuộc tìm kiếm của ông có cho thấy là mẹ tôi chết một cách tự nhiên, hay… chúng tôi phải nghĩ đến cái tệ hại nhất?
- Tôi cho rằng, ông Cavendish ạ - Poirot đáp một cách nghiêm trọng - ông không nên tự lừa phỉnh mình bằng những hy vọng giả tạo. Ông có thể cho tôi biết những người khác trong gia đình nghĩ gì không?
- Cậu em Laurence của tôi quả quyết, chúng ta làm ầm ĩ lên vì một việc không đáng gì. Cậu ta tuyên bố rằng tất cả đều muốn chứng tỏ đấy chỉ đơn giản là một cơn đau tim thôi…
- À! Ra thế đấy! Điều này đáng quan tâm đấy. - Poirot khẽ nói - Còn bà Cavendish? Một đám mây thoáng qua trên khuôn mặt John.
- Tôi không biết gì về ý kiến mà vợ tôi có thể có đối với việc này.
Câu trả lời này gây nên một thoáng bối rối. John phá tan sự im lặng có nguy cơ kéo dài một cách nặng nề bằng cách cố gắng nói:
- Tôi đã cho ông hay rằng ông Inglethorp đã trở về, phải không? Poirot gật đầu.
- Thật là một tình thế khó xử đối với tất cả chúng tôi. Dĩ nhiên, phải đối xử với hắn như mọi khi, nhưng phải ngồi chung bàn với một tên bị nghi ngờ đã giết người thì thật là dễ nổi loạn đấy.
Poirot gật đầu đầy thiện ý.
- Tôi hiểu điều đó lắm. Đó là một tình thế rất khó khăn đối với ông, ông Cavendish ạ. Nhưng tôi cũng muốn hỏi ông một câu. Nếu như tôi không lầm thì ông Inglethorp đã viện lý do để vắng mặt lâu đến như thế, rằng ông ta đã bỏ quên chìa khóa cửa ra vào, có đúng như thế không?
- Vâng.
- Tôi đoán chừng ông chắc chắn là ông ta đã thật sự bỏ quên chìa khóa, ông ta không có nó trên người chứ?
- Tôi không hề biết, vì đã không nghĩ đến việc kiểm chứng lại. Chúng tôi luôn luôn để chìa khóa trong ngăn kéo ở tiền sảnh. Tôi sẽ đi xem lại ngay đây.
Poirot đưa tay lên và nở một nụ cười yếu ớt.
- Không, không, ông Cavendish ạ. Bây giờ thì đã muộn lắm rồi. Tôi tin chắc ông sẽ tìm thấy nó ở chỗ mọi khi. Nếu như ông Inglethorp đã lấy nó đi, thì ông ta cũng đã có đủ thời gian để cất lại.
- Nhưng ông cho rằng…
- Tôi chả nghĩ gì cả. Nếu như vô tình sáng nay có ai đó đã trông thấy chiếc chìa khóa trong ngăn tủ, thì đó sẽ là một bằng chứng thuận lợi cho ông ta. Thế thôi.
John có vẻ rất phân vân.
- Xin ông đừng lo lắng - Poirot lại nhẹ nhàng bảo - Tôi cam đoan rằng ông không nên lo nghĩ về điều đó. Nào, ta hãy đi ăn trưa đi, khi mà ông đã có nhã ý mời tôi.
Mọi người đều tụ họp trong phòng ăn… Do những tình huống, đó không phải là một cuộc họp mặt vui vẻ. Sự phản ứng sau một cú sốc bao giờ cũng nặng nề, và tôi cho rằng chúng tôi đều rất đau buồn. Những nghi thức và sự giáo dục tốt buộc chúng tôi phải tỏ ra tự nhiên hết sức, thế mà tôi không thể nào không tự hỏi xem sự bình thản có thật sự là khó ngụy tạo hay không? Tôi không hề trông thấy những cặp mắt sưng đỏ vì nước mắt, cũng không hề thấy dấu hiệu nào của một nỗi đau thầm kín. Và tôi phải thừa nhận là tôi có lý khi cho rằng bà Dorcas là người duy nhất bị thương tổn nặng nề.
Tôi không nói đến Alfred Inglethorp làm gì, hắn sắm vai một người đàn ông góa rầu rĩ với cái mà tôi cho là một sự giả dối rất đáng công phẫn. Tôi tự hỏi không biết hắn có biết rằng mình đang bị nghi ngờ không. Dĩ nhiên, hắn không thể nào biết được, bất chấp những cố gắng của chúng tôi để che giấu tình cảm của mình đối với hắn. Hắn có cảm thấy sợ hãi một cách kín đáo không? Hay hắn tin tưởng tội lỗi của hắn sẽ không bị trừng phạt?
Nhưng có phải mọi người đều nghi ngờ hắn không? Về phần bà Cavendish thì sao? Bà ngồi đó, ở cuối bàn, duyên dáng, yên bình, khó hiểu. Trong chiếc áo màu xám với những nếp xếp tổ ong rũ xuống và đôi tay mềm mại của mình, trông bà thật đẹp. Nhưng, khi bà muốn, gương mặt của bà có thể trở nên khép kín như gương mặt của một con người khó hiểu. Trông bà rất nghiêm trang và bà không hề hé môi, thế nhưng, tôi cảm thấy một cách lạ lùng sức mạnh của tính cách con người bà chế ngự tất cả chúng tôi.
Còn cô bé Cynthia? Cô có nghi ngờ gì không? Tôi thấy cô ta có vẻ nhợt nhạt và mỏi mệt. Tôi hỏi xem cô ta có bệnh hoạn gì không, và cô thành thật bảo:
- Vâng, tôi đau đầu kinh khủng luôn.
- Hãy dùng một tách cà-phê, thưa cô - Poirot ân cần nói - Nó sẽ chữa khỏi cho cô. Không có thứ gì bằng cái đó để trị đau đầu.
Ông nhổm dậy và cầm lấy chiếc tách của cô ta.
- Không đường - Cynthia nói.
- Không đường ư? Cô đã bỏ dùng đường từ khi có chiến tranh, có phải không?
- Không, tôi chả bao giờ dùng cà-phê có đường cả.
- Chúa ơi! - Poirot khẽ rủa, vừa đem tách cà-phê đầy đến cho cô ta.
Tôi là người duy nhất nghe thấy và, tò mò nhìn ông, tôi thấy gương mặt ông nhăn nhó vì nóng nảy và đôi mắt ông xanh biếc như mắt mèo vậy. Có lẽ ông đã nghe thấy hoặc trông thấy điều gì khiến ông bị xúc động tột độ; nhưng điều gì vậy? Tôi không cho mình thường hay ngu muội, nhưng tôi phải thừa nhận mình chả nhận thấy điều gì khác lạ cả.
Một lúc sau, cánh cửa bật mở và Dorcas hiện ra bên thềm.
- Ông Wells muốn gặp ông - bà nói với John. Anh này vội đứng dậy ngay.
- Hãy mời ông ấy vào phòng làm việc. Quay sang chúng tôi, anh bảo:
- Ông ấy là luật sư của mẹ tôi. Và khẽ hơn:
- Và cũng là biện lý đấy, quý vị hiểu chứ? Có lẽ quý vị muốn đi cùng với tôi?
Chúng tôi nhận lời và theo anh ra khỏi phòng. Tôi lợi dụng cơ hội đó để nói nhỏ với Poirot:
- Thế nào, sẽ có buổi hỏi cung chứ?
Ông lơ đãng gật đầu. Trông ông có vẻ như hoàn toàn chìm trong những suy nghĩ của mình, đến nỗi sự tò mò của tôi phải trỗi dậy.
- Có chuyện gì vậy? Ông không còn để ý đến những gì tôi nói nữa.
- Đúng vậy, anh bạn ạ. Tôi đang bối rối lắm đây.
- Tại sao?
- Bởi vì cô Cynthia không dùng cà-phê có đường.
- Sao? Ông không nói chuyện nghiêm túc đấy chứ?
- Ngược lại, tôi chưa bao giờ nghiêm túc như bây giờ đây. Ôi! Ở đó có điều gì mà tôi không tài nào hiểu được. Linh tính của tôi đã có lý.
- Linh tính nào?
- Linh tính đã xui khiến tôi phải xem xét những cái tách ấy mà. Suỵt! Không nói thêm gì nữa cả trong lúc này.
Đến phòng làm việc, John đóng cửa lại sau lưng chúng tôi.
Ông Wells là một người đàn ông dễ chịu, trạc năm mươi tuổi, có cặp mắt sắc, và cái miệng nhỏ nhắn. John giới thiệu cả hai chúng tôi và giải thích lý do sự hiện diện của chúng tôi.
- Ông có hiểu cho, ông Wells ạ - anh nói - rằng tất cả chuyện này là tuyệt đối riêng tư không?
Chúng tôi vẫn còn hy vọng rằng chưa cần thiết phải tiến hành một cuộc khám xét.
- Được rồi, được rồi - ông Wells nhẹ nhàng nói - Tôi vẫn muốn tránh cho anh sự quảng cáo gây nên bởi một cuộc hỏi cung có tính cách pháp lý, nhưng điều đó tất nhiên là không thể tránh được, bởi vì các bác sĩ đã từ chối không cho liệm xác.
- Vâng, tôi cũng đoán vậy.
- Bauerstein rất giỏi. Theo tôi, đó là một chuyên gia nổi tiếng về độc dược học.
- Quả vậy - John bảo, hơi cứng cỏi. Và, không do dự, anh nói tiếp:
- Tất cả chúng tôi có phải ra làm nhân chứng không?
- Ông, dĩ nhiên rồi… và… ông Inglethorp. Ngưng một lúc, rồi ông nói, giọng ngọt ngào:
- Những lời chứng khác chỉ khẳng định thêm thôi, một thủ tục thôi ấy mà.
- Tôi hiểu.
Khuôn mặt John thư giãn hẳn, như nhẹ nhõm. Điều đó khiến tôi thắc mắc, vì tôi không hiểu lý do.
- Nếu như anh không phản đối - ông Wells tiếp - tôi sẽ định buổi hỏi cung vào ngày thừ sáu. Chúng ta sẽ có đủ thời gian để nhận được báo cáo của các bác sĩ. Cuộc khám nghiệm diễn ra vào tối nay, phải không?
- Vâng.
- Sao, sắp xếp như thế có tiện không?
- Tiện lắm.
- Tôi thấy không cần thiết phải nói với anh, anh Cavendish thân mến ạ, tôi bị xúc động đến thế nào bởi tấn thảm kịch này chứ?
- Ông không thể nào giúp chúng tôi làm sáng tỏ sự việc sao? - Poirot hỏi, mở miệng lần đầu tiên kể từ khi chúng tôi bước vào phòng làm việc.
- Tôi ư?
- Vâng. Chúng tôi được biết là bà Inglethorp đã viết thư cho ông tối hôm qua. Có lẽ sáng nay ông đã nhận được.
- Đúng vậy. Nhưng nó không có chút ánh sáng gì trong việc này cả. Đó chỉ là vài chữ yêu cầu tôi sáng nay ghé qua, để cho ý kiến về một vấn đề rất quan trọng.
- Bà ta không nói gì về vấn đề đó sao?
- Rất tiếc là không.
- Tiếc thật đấy - John nói.
- Vô cùng đáng tiếc - Poirot nói thêm.
Tiếp theo sau đó là một sự im lặng. Trong vài giây, Poirot đắm chìm trong suy nghĩ của mình. Cuối cùng, ông quay sang ông Wells:
- Ông Wells ạ, tôi muốn hỏi ông một câu, nếu như nó không đi ngược lại bí mật nghề nghiệp.
Sau cái chết của bà Inglethorp, ai sẽ thừa hưởng tiền của của bà ấy?
Vị luật sư do dự một lát rồi đáp:
- Vấn đề đó sẽ được công bố nay mai; do đó, nếu như ông Cavendish không phản đối…
- Không đâu - John ngắt lời.
- Thế thì tôi có thể trả lời. Theo chúc thư cuối cùng của bà ta, được lập từ tám năm trước, thì sau vài của cải di tặng quan trọng dành cho gia nhân, v.v…, bà Inglethorp đã để lại toàn bộ di sản của mình cho cậu con chồng, John Cavendish.
- Việc đó - xin ông Cavendish thứ lỗi cho tôi - có bất công đối với cậu con chồng kia, ông Laurence Cavendish không?
- Không, tôi không nghĩ như thế. Ông hiểu không, theo chúc thư của ông bố, người đã để lại cho vợ quyền thừa hưởng lợi nhuận do của cải của mình đem lại, thì sau khi bà này mất đi, lãnh địa sẽ thuộc về John, còn một số tiền to lớn sẽ về tay Laurence. Bà Inglethorp biết rằng người con cả phải tu bổ lãnh địa, một trách nhiệm nặng nề, nên đã để lại gia sản riêng của mình cho anh ta. Điều đó theo tôi là công bằng.
Poirot gật đầu, vẻ suy tư.
- Tôi hiểu, nhưng tôi cứ ngỡ rằng, theo luật pháp nước Anh, thì tờ di chúc sẽ bị tự động thiêu hủy khi bà Inglethorp tái giá chứ?
Ông Wells phát một cử chỉ tán đồng.
- Tôi định nói thêm, ông Poirot ạ, rằng tờ chúc thư này ngày nay không còn giá trị nữa. Poirot suy nghĩ một lát rồi hỏi:
- Bà Inglethorp có biết điều đó không?
- Tôi không biết. Có thể là có.
- Có, bà ấy có biết đấy - John bỗng nói - Mới hôm qua thôi, chúng tôi còn tranh luận về vấn đề các chúc thư bị hủy bỏ sau một cuộc hôn nhân.
- À, còn một câu hỏi nữa, ông Wells ạ, xin phép ông. Ông đã bảo, theo chúc thư cuối cùng của bà ta. Như thế, bà Inglethorp trước đó đã lập nhiều chúc thư, có phải không?
- Trung bình mỗi năm bà ấy đều lập một tờ chúc thư mới - ông Wells thản nhiên đáp - bà thường có khuynh hướng hay thay đổi ý kiến về những điều khoản trong chúc thư, khi thì ưu đãi người này, khi thì ưu đãi người kia trong số những người thân trong gia đình.
- Và nếu như, không cho ông hay biết, bà ta đã lập một chúc thư mới, có lợi cho một người không thuộc về gia đình bà ta, cho cô Howard chẳng hạn, thì ông có lấy làm ngạc nhiên không?
- Không hề.
- À!
Poirot có vẻ như đã cạn hết những câu hỏi của mình. Tôi đến bên ông trong khi John và ông Wells bàn về việc xem xét các giấy tờ của bà Inglethorp.
- Ông có cho rằng bà Inglethorp đã lập một chúc thư có lợi cho cô Howard không? - Tôi hỏi nhỏ ông với ít nhiều thắc mắc.
Poirot mỉm cười.
- Không.
- Thế thì tại sao ông lại hỏi như thế?
- Suỵt.
John Cavendish vừa quay sang ông.
- Ông có muốn đi cùng với chúng tôi không, ông Poirot? Chúng tôi sẽ đi xem các giấy tờ của mẹ tôi. Ông Inglethorp đã hoàn toàn đồng ý giao phó việc đó cho ông Wells và tôi.
- Điều đó khiến cho mọi chuyện được dễ dàng hơn - vị luật sư nói - Bởi vì, dĩ nhiên, về mặt pháp lý, ông ta có quyền…
Ông không nói dứt câu.
- Chúng ta sẽ xem xét chiếc bàn giấy trong phòng làm việc trước đã - John bảo. Sau đó, chúng ta sẽ lên phòng riêng của bà. Bà ấy thường cất giữ những giấy tờ quan trọng nhất của mình trong một chiếc rương nhỏ màu tím mà chúng ta cần phải xem xét thật kỹ.
- Vâng - vị luật sư nói - rất có thể có một tờ di chúc mới hơn cái mà tôi đang có trong tay đây.
- Quả vậy, có một tờ di chúc mới hơn. Đó là câu nói của Poirot.
- Sao chứ?
Cả John lẫn vị luật sư đều nhìn ông, kinh hãi.
- Hay đúng hơn - bạn tôi thản nhiên tiếp - đã có một cái mới.
- Ông muốn nói gì thế? Bây giờ nó ở đâu?
- Nó đã bị thiêu hủy.
- Thiêu hủy ư?
- Vâng. Hãy xem đây này.
Ông rút từ túi áo mảnh giấy cháy đen mà chúng tôi đã tìm thấy trong lò sưởi phòng bà Inglethorp và trao cho vị luật sư kèm theo lời giải thích ngắn gọn về địa điểm và trường hợp mà nó đã được phát hiện.
- Nhưng, có thể đó là một tờ chúc thư cũ.
- Tôi không tin như thế. Thật vậy, tôi gần như tin chắc rằng nó chỉ mới được lập vào trưa hôm qua thôi.
- Sao chứ? Không thể như thế được. - Hai người đàn ông lần lượt kêu lên. Poirot quay sang John:
- Nếu như ông cho phép tôi gọi người làm vườn của ông đến đây, thì tôi sẽ chứng minh cho ông thấy.
- Tất nhiên rồi, nhưng, chỉ có điều là tôi không thấy tại sao… Poirot đưa tay lên.
- Hãy làm theo lời tôi đã. Sau đó, ông có thể hỏi tôi tất cả những gì ông muốn.
- Được lắm.
Anh nhấn chuông và một lát sau Dorcas hiện ra bên thềm cửa.
- Dorcas, hãy bảo Manning đến đây gặp tôi.
- Vâng, thưa ông.
Dorcas lui ra. Chúng tôi chờ đợi trong một sự im lặng căng thẳng. Chỉ riêng Poirot là có vẻ hoàn toàn thoải mái và đang phủi bụi trong góc tủ sách.
Tiếng giầy bốt nghiến trên sỏi đá bên ngoài báo hiệu sự có mặt của Manning. John liếc nhìn Poirot dò hỏi. Ông này gật đầu.
- Vào đi, Manning - John bảo - Tôi muốn nói chuyện với ông.
Manning bước vào, chậm chạp và ngập ngừng, và dừng lại bên chiếc cửa sổ lớn. Ông ta cầm chiếc nón kết trên tay và lặng lẽ xoắn nó. Lưng ông ta rất cong, mặc dù có lẽ ông không già lắm như vẻ bề ngoài, nhưng cặp mắt ông sáng và thông minh, trái hẳn với cách phát biểu chậm và thận trọng của ông.
- Manning - John bảo - Ông này đây sẽ hỏi ông vài điều mà tôi muốn ông trả lời.
- Vâng, thưa ông.
Poirot nhanh nhẹn bước đến. Manning nhìn ông với một thoáng khinh miệt.
- Trưa hôm qua, ông đang chăm chú trồng một luống thu hải đường, gần phía nam ngôi nhà, phải không, ông Manning?
- Vâng, thưa ông, tôi và William cùng làm.
- Và bà Inglethorp đã đến bên cửa sổ và gọi các ông, phải không?
- Vâng, thưa ông, đúng vậy.
- Hãy cho tôi biết chính xác việc gì đã xảy ra sau đó…
- Thế này đây, chả có bao nhiêu đâu, thưa ông. Bà ấy sai William lấy xe đạp xuống làng mua một tờ giấy có dán tem. Bà ấy đã viết cho anh ta cái thứ mà bà ấy cần.
- Rồi sao nữa?
- Anh ta đã đi mua, thưa ông.
- Rồi sau đó?
- Chúng tôi trở lại với những luống cây thu hải đường, thưa ông.
- Bà Inglethorp có gọi các ông lại một lần nữa không?
- Có, thưa ông. Tôi và William.
- Rồi sau đó?
- Bà ấy bảo chúng tôi vào phòng và ký tên bên dưới một tờ giấy lớn có dán tem, ngay dưới chữ ký của chính bà ta.
- Ông có đọc thấy những gì ghi phía trên chữ ký của bà ấy không? - Poirot hỏi ngay.
- Không, thưa ông, bà ấy đã che bằng một tờ giấy thấm lên trên.
- Và các ông đã ký tên ngay ở chỗ bà ấy chỉ chứ?
- Vâng, thưa ông. Trước hết là tôi, rồi đến William.
- Và sau đó bà ấy đã làm gì với tờ giấy đó?
- Thế này, thưa ông, bà ấy đã đút nó vào một chiếc phong bì dài và đã cất vào một thứ hộp màu tím đặt trên bàn giấy.
- Bà ấy cho gọi các ông lần đầu vào lúc nào?
- Khoảng mười sáu giờ, thưa ông.
- Không sớm hơn sao? Không phải là mười lăm giờ ba mươi sao?
- Không, thưa ông, tôi không cho là như thế. Có lẽ là sau mười sáu giờ hơn là trước đó.
- Cám ơn ông, Manning ạ, như thế đủ rồi - Poirot tử tế nói.
Người làm vườn liếc nhìn ông chủ và ông này gật đầu ra dấu. Thế là Manning đưa tay lên trán, ậm ừ đi ra bằng những bước giật lùi nặng nề.
Chúng tôi nhìn nhau.
- Chúa ơi! - John khẽ nói - Quả là một sự trùng hợp kỳ lạ.
- Sao chứ… một sự trùng hợp ư?
- Vì mẹ tôi đã lập một tờ di chúc ngay vào ngày bà ấy qua đời. Ông Wells khẽ tằng hắng và lãnh đạm nhận xét.
- Anh có chắc đấy là một sự trùng hợp không, Cavendish?
- Ông muốn nói gì thế?
- Anh đã cho biết mẹ anh đã cãi nhau kịch liệt với… với một người nào đó, vào trưa hôm qua.
- Ông muốn nói gì? - John lại hét lên. Giọng anh run run và mặt anh tái nhợt.
- Sau cuộc cãi vã ấy, mẹ anh vội vàng viết một chúc thư mới. Chúng ta không bao giờ biết được nội dung của nó. Bà ấy đã không cho ai biết. Có lẽ, sáng nay bà ấy sẽ hỏi ý kiến tôi về chuyện đó, nhưng bà ta đã không có đủ thời gian. Tờ chúc thư biế mất, còn bà ta thì đem theo bí mật của mình xuống đáy mồ. Tôi e rằng, Cavendish ạ, đã không có một sự trùng hợp nào đâu. Và tôi tin chắc, ông Poirot ạ, ông cũng đồng ý với các sự kiện rất có ý nghĩa.
- Có ý nghĩa hay không - John nói - thì chúng tôi cũng rất biết ơn ông Poirot đã làm sáng tỏ sự bí mật này. Không có ông ấy, chúng ta sẽ không bao giờ biết được câu chuyện về bức chúc thư. Tôi đoán chừng, tôi không thể hỏi ông điều gì đã khiến ông nghi ngờ sự kiện đó chứ?
Poirot mỉm cười đáp:
- Một chiếc phong bì cũ chằng chịt đầy chữ, và một luống hoa thu hải đường mới trồng.
Tôi cho rằng John rất muốn hỏi thêm nữa, nhưng đúng lúc đó, chúng tôi nghe thấy tiếng động cơ, và tất cả chúng tôi đều quay ra cửa sổ, vừa lúc một chiếc xe hơi chạy ngang qua.
- Evie! - John kêu lên. Xin phép ông, ông Wells ạ. Rồi anh vội bước ra hành lang.
Poirot liếc nhìn tôi dò hỏi.
- Đó là cô Howard - tôi giải thích.
- À! Tôi rất hài lòng vì cô ấy đã có mặt ở đây. Đó là một phụ nữ có khối óc và trái tim, mặc dù Thượng Đế đã không ban cho cô ta sắc đẹp.