CHƯƠNG 7 ĐÊM ĐẦU TIÊN TRỞ LẠI NHÀ CHỒNG
Khoảng giữa năm 1976 tôi thật sự giã từ Đà Lạt để trở về Thiện Trường. Thời kỳ này phương tiện di chuyển từ nơi này đến nơi khác hết sức khó khăn. Đường sá hư hỏng quá nhiều nhà nước chưa tu bổ kịp. Tuyến đường nào cũng đầy ổ gà, mưa thì nước đọng vũng sâu vũng cạn, nắng lên thì bụi ngập như sương sớm. Xe cộ đã ỳ ọp lại luôn chở quá tải, nhét người chật như nêm. Hành khách nhiều người vẫn sợ chuyện đi lại như một cực hình. Mẹ con tôi đã trở về quê hương trong tình trạng đường sá như thế…
*
Tôi đang ngủ gà ngủ gật trên xe bỗng nghe tiếng anh lơ xe kêu lớn:
- Tới chợ chiều Thiện Trường rồi, chị gì đó xuống đi!
Chiếc xe đò ngừng lại. Người lơ xe ngồi ở trên mui tháo dây buộc đưa xuống một cái va li, một cái giường bố xếp và một bó chiếu. Tôi bước xuống đất với đôi chân tê cứng vì phải ngồi một chỗ quá lâu, lại chịu sức dồn ép từ những người chung quanh bởi xe quá chật nên máu trong người không lưu thông được. Tôi phải vừa vịn vừa chống tay vào xe chốc lát mới đứng vững được. Người lơ xe đứng bên dưới lần lượt bồng ba đứa nhỏ trao xuống cho tôi. Thằng Sửu hăng hái giành vác cái giường bố xếp đã được tôi bó lại. Thằng Tí thì giành vác bó chiếu. Nó phải vất vả lắm mới giữ bó chiếu được thăng bằng trên vai. Tôi khích lệ chúng:
- Ừ, giỏi! Hai đứa bây vác giùm cho mẹ những cái đó đi. Cứ theo con đường này!
Tôi mang cái xách nhỏ vào vai, tay phải xách cái va li nặng nhọc lê bước. Con Hoa bước theo tôi nhưng tỏ ra không bằng lòng vì nó phải đi tay không:
- Mẹ đưa cái xách con cầm cho!
- Không được. Con cầm lỡ có ai giựt mất làm sao?
Con bé vùng vằng một chút rồi chạy theo hai thằng anh nó.
- Con cứ đếm phía bên này tới cái thứ mười một là nhà mình đó.
Lúc đó khoảng mười giờ tối. Con đường vào xóm dưới ánh trăng trông sáng sủa lạ thường. Những bụi tre um tùm rậm rạp hai bên đường đã được đốn gần hết khiến cho con đường như có vẻ rộng ra nhiều so với trước kia.
- Nhà thứ một... nhà thứ hai... nhà thứ ba...
Thằng Tý đếm nhà số nào con Hoa lập lại nhà số đó. Tôi xách nặng quá nên chỉ biết cắm đầu bước theo các con. Chiếc va li phải chuyển từ tay này sang tay khác lia lịa không biết bao nhiêu lần.
Khi tới dốc cái cổng giếng quen thuộc, tôi ngạc nhiên nghe mấy đứa trẻ đếm tới nhà thứ chín. Trước đây tôi vẫn thuộc lòng từng đoạn đất cao đất trũng của con đường nhỏ này. Tôi nhớ mồn một từ quốc lộ đến cổng giếng chỉ có sáu cái nhà sao bọn nhỏ lại đếm tới chín? Chúng đếm lộn chăng?
- Nghỉ một chút chờ mẹ với!
Tôi đặt va li xuống đường vừa thở vừa nhìn quanh. Thì ra bây giờ nhiều nhà cũ đã được sửa lại, thêm vào đó lại có một số nhà mới được dựng xen vào nên trông khác lạ hơn trước. Mới hơn một năm rưỡi mà không biết bao nhiêu là thay đổi thế này!
- Thôi, để mẹ đi trước coi đường kẻo lạc.
Dù mệt nhọc, tôi cũng phải gắng nhìn bên này bên kia. Có lúc tôi phải đứng lại thật lâu mới nhận định được đã đến chặng đường nào. Khi đi qua cái ngõ nhà có các bậc cấp hơi cao, tôi nhận ra ngay là nhà ông Sơn. Tôi đặt va li xuống nghỉ tạm, mắt nhìn vào nhà ông Sơn. Đây là một ngôi nhà lớn của một gia đình điền chủ giàu có đã trải qua nhiều đời. Nhà có một cái sân tráng xi măng khá rộng, trước đây gia đình tôi cũng như những người hàng xóm vẫn thỉnh thoảng đến xin phơi lúa, phơi khoai... Đang nhớ lại chuyện cũ, tôi bỗng thấy nhiều người từ trong nhà ông Sơn túa ra, nam có nữ có. Họ nói chuyện ồn ào, nhiều người vội vã chen nhau đi ra ngõ. Mấy đứa nhỏ thấy đông người túa ra thình lình thì sợ hãi chạy tấp lại gần tôi.
Một người đàn bà bước tới nhìn ba đứa nhỏ rồi nhìn tôi hỏi với giọng kẻ cả:
- Chị là ai? Sao đang lúc đêm khuya lại mang vác đi đâu thế này?
Nghe giọng nói miền Nghệ Tĩnh, tôi hơi ngạc nhiên. Chắc đây là một cán bộ ngoài kia mới vào. Tôi nhỏ nhẹ đáp:
- Dạ, tôi ở Đà Lạt mới về. Nhà tôi ở xóm này.
Một người đàn bà khác nghe nói thế thì bước lại dòm mặt tôi rồi vui vẻ nói với giọng đầy thân tình:
- Trời, cô Ngọc! Tôi cứ tưởng cô đi luôn rồi chứ! Lại đem ba đứa nhỏ về nữa, chắc bác Thắng mừng lắm!
Nhận ra ngay chị Lâm ở kế nhà, tôi hết sức mừng rỡ nói:
- Đi đâu mà đi chị! Chẳng qua vì sinh kế em ở tạm Đà Lạt một thời gian thôi. Sống đâu cho bằng ở quê hương mình được! Chị Lâm mới làm gì về thế?
Chị Lâm cười dí dỏm:
- Họp, họp bình bầu, kiểm thảo công tác trong ngày, vạch kế hoạch làm việc những ngày sắp tới. Ở Đà Lạt chắc cũng có họp bình bầu kiểm thảo như đây chứ cô Ngọc?
Tôi để ý thấy mọi người ai cũng có vẻ vội vã. Vài người quen biết thấy tôi ở xa mới về cũng đứng lại hỏi thăm. Người đàn bà nói tiếng Nghệ Tĩnh chỉ đứng lại chốc lát, có lẽ biết tôi không phải là đối tượng đáng ngại, bà ta bỏ đi.
Thấy một toán người còn đứng giữa đường nói chuyện, một bà vừa đi vừa nói:
- Thôi, ngồi cả buổi chưa đau lưng à? Lo về mà nghỉ một chút đi! Mai còn phải ra ruộng sớm mà!
Ai nấy đều tỏ ra rất quí thì giờ. Mấy người quen với tôi hỏi thăm qua loa mấy lời rồi chào mà đi hết. Chỉ còn chị Lâm và cô Ánh, một cô bé mới lớn vốn quen thân với tôi đứng lại. Cô Ánh ăn mặc lam lũ trông già đi nhiều so với tuổi, cô hỏi tôi:
- Bộ chị Ngọc ở trong ấy làm ăn không được hay sao mà lại về đây để sống cảnh đội đoàn ngày đêm làm việc tối mặt tối mũi như tụi em thế này?
Nói xong, Ánh lắc đầu mà cười. Tôi cũng cười:
- Trong đó buôn bán cũng đủ ăn chứ không đến nỗi nào. Nhưng mẹ tôi cứ nhờ người viết thư kêu về mãi tôi biết làm sao. Bà nói cũng có lý, ngoài này còn nhà còn cửa, lại lỡ khi bà ốm đau nhờ cậy vào ai? Thế ở đây làm lụng cực lắm hả?
Ánh nhanh nhẩu:
- Chị đã về đây đương nhiên phải vô tập đoàn, ba bốn ngày nữa chị sẽ biết thôi. Đưa cái va li em xách cho một đoạn. Mình vừa đi vừa nói chuyện. Phải tranh thủ về nghỉ chứ sáng mai lại phải đi làm sớm.
Ánh vói tay giành cái va li. Chị Lâm lên tiếng tiếp:
- Cực lắm cô Ngọc ơi! Nhiều đêm cứ thức trắng mắt ra vì cái vụ họp hành này. Nai lưng làm suốt ngày thâm đêm mà không khi nào đủ gạo ăn. Tôi cũng mong tìm được con đường nào để thoát đây!
Chị lại quay sang ba đứa nhỏ:
- Con đưa bác cầm bó chiếu cho. Tội nghiệp, tụi bây sinh ra để chịu khổ...
Ba người cùng bọn nhỏ đi một lát đã tới nhà. Tôi nói:
- Chị Lâm và cô Ánh vô nhà tôi một chút đã chứ!
Chị Lâm nói với Ánh:
- Thì mình vô nhà với cô Ngọc một chút. Đằng nào cũng khuya rồi.
Tôi nhìn vào thấy căn nhà tối om. Có lẽ bà nội đã đi ngủ. Chị Lâm bước vào cổng trước, lớn tiếng kêu:
- Bác Thắng ơi, cô Ngọc và mấy cháu về đây này.
Trong nhà có tiếng lục đục rồi có tiếng bà nội khàn khàn:
- Ai kêu chi vậy?
- Con dắt mấy cháu về đây mẹ ơi!
Tiếng bà nội mừng rỡ:
- À, bốn mẹ con bây về đó hả? Tao biết thế nào rồi bây cũng về mà!
Tôi giục mấy đứa nhỏ lên tiếng thưa chào bà nội. Chúng đồng loạt la vang:
- Thưa bà nội chúng cháu về đây!
Bà nội sung sướng chạy ra ôm hôn mấy cháu một hồi. Xong bà nội lại lật đật vào nhà tìm đèn. Bà bật quẹt lên thắp vào cây đèn ngủ. Nhưng ngọn lửa không bốc được, ánh sáng chỉ tỏa mờ mờ yếu ớt cứ muốn tắt. Bà nội nói:
- Khổ nỗi hôm nay trong nhà lại hết dầu. Vừa rồi đi mua chậm chân phải đợi đợt khác. Cô Lâm cô Ánh ngồi chơi, xin lỗi nhà hơi tối một tí!
Chị Lâm nửa đùa nửa thật nói:
- Quan trọng chi chuyện đó. Nhưng cô Ngọc và mấy cháu đi cả ngày chắc đói bụng lắm rồi, bác đong gạo bắc lên vài lon là tốt nhất! Còn dầu lửa, tôi còn một xị bên nhà, đem đèn qua mà rót một ít.
Bà nội gần như không để ý đến lời chị Lâm. Bà phụ với tôi đem va li, cái giường bố và bó chiếu vào nhà rồi giục tôi đi rửa ráy cho lũ con. Tôi nói:
- Mẹ cho con và tụi nó ít nước uống đã. Chốc nữa con sẽ rửa ráy cho chúng. Giờ để con nói chuyện với chị Lâm và cô Ánh một chút. Chị em lâu ngày gặp lại mà!
Bà nội bước vào cái bếp tối om nhúm lửa. Chị Lâm thấy nhà thiếu ánh sáng không đành lòng liền băng vườn về lấy một hũ keo đựng ít dầu hỏa đem sang. Bà nội trầm trồ nói chuyện với ba đứa nhỏ. Bấy giờ chị Lâm mới đưa mắt nhìn tôi rồi hỏi:
- Cô đã dò ra tông tích chú Thành ở đâu chưa?
Nước mắt tôi bỗng trào ra:
- Ở trong đó lâu nay cứ thấy ai đi thăm tù về em đều hỏi tin tức nhưng mãi tới nay vẫn chưa thấy gì! Khi anh ấy mới vào Quân y viện Cộng Hòa đơn vị có báo cho em hay. Người ta cho biết anh ấy bị thương ở chân, không nguy hiểm đến tính mạng. Lúc đó em kẹt không đi thăm được, chỉ có ba mẹ em ở Sài Gòn đến thăm thôi. Khi ba mẹ em báo cho em biết anh ấy đã bị cưa cả hai chân em mới ngã đạn ra! Em sợ quá chuẩn bị đi thăm nhưng lại gặp lúc tình hình chiến sự đã quá trầm trọng nên không đi được. Sau đó em lại nhận được thư của ba em báo cho biết là anh ấy đã rời khỏi Quân y viện Cộng Hòa, không ai biết đi đâu. Từ đó mất tăm tích luôn!
Nói đến đây tôi nghẹn giọng muốn bật ra tiếng khóc. Ánh thấy tôi đang bị xúc động bèn vỗ vai tôi an ủi:
- Chị nín đi kẻo bác khóc theo bây giờ. Biết đâu anh ấy lại thoát qua Mỹ được rồi!
Tôi lau nước mắt, lắc đầu tuyệt vọng:
- Người lành mạnh còn khó thoát huống là một anh thương binh cụt giò! Nghe người ta kể phút chót cách mạng vào đuổi tất cả thương binh miền Nam đang điều trị, không phân biệt nặng nhẹ, kể cả hạng đang có thể bị nguy hiểm đến tính mạng đều phải ra ngoài hết. Có người phải ôm cả đùm ruột mà lết đi, có người mang cả cái chân cưa chưa kịp băng bó thuốc men mà lết... Nhiều người bị nhiễm trùng, đói khát, chưa kịp về nhà đành chết ở hốc cầu, bến xe... Tôi vẫn mong sao anh ấy không nằm trong những trường hợp đó. Nhưng cả năm rồi, nếu còn sống, dù không tự về nhà được anh ấy cũng tìm cách để thông tin cho gia đình biết chứ! Tôi sợ có khi anh ấy không còn nữa!
Ánh nói một câu hơi vô duyên:
- May em chưa lấy chồng hóa ra lại đỡ khổ. Thế người ta không cho chị dạy học nữa hả chị Ngọc?
Chị Lâm nói:
- Dạy chi nữa mà dạy! Không thấy mấy cô giáo ở đây phải xin học trò từng củ khoai sâu nhỏ mà ăn đó sao?
Ánh lại nói:
- Khi kia chị cứ ở trong đó rồi ra đem bác theo vẫn hơn!
- Tôi cũng muốn vậy nhưng mẹ tôi không chịu...
Chị Lâm nói xen vào:
- Cô Ánh nói vậy chứ còn nhà còn cửa đó, không về lỡ bác qua đời là nhà sang tay người khác ngay, lấy gì mà làm nơi phụng thờ ông bà? Cô Ngọc dù sao cũng còn mấy đứa con trai đấy chứ!
Nói đến đây, chị Lâm cúi người ghé miệng vào tai tôi nói nhỏ:
- Nói để bụng chứ bác gái còn sống sờ sờ mà đã có người ngắm nghé cái nhà của cô rồi đó! Hở ra là người ta nhảy vô ngay...
Trong khi mấy người đang nói chuyện, hai thằng nhỏ có lẽ đi đường mệt nhọc sao đó, đã nằm lên bộ phản ngủ ngon lành. Những con muỗi đang tha hồ chúi đầu hút máu trên trán, trên cổ chúng. Chị Lâm vói tay chụp một cái giết mấy con rồi bảo:
- Treo mùng cho tụi nó ngủ đã nè. Lúc này muỗi nhiều như ong để nằm trần vậy có mà sinh bệnh ra.
Con Hoa nãy giờ ngồi bên bếp nói chuyện với bà nội, bỗng chạy tới kê mặt lên đầu gối tôi nói nhỏ:
- Mẹ ơi, nói nội cho con ăn đi mẹ, con đói bụng.
Tôi nhìn bà nội đang loay hoay trong bếp rồi nhìn con:
- Đợi một chút...
Ánh cũng nhìn vào bếp, nơi bà nội đang làm gì đó. Xong Ánh lại nhìn tôi:
- Thôi mình về cô Lâm ơi, để chị Ngọc tắm rửa cho mấy cháu rồi còn ăn uống đi nghỉ nữa chứ. Mình cũng cần nghỉ để ngày mai dậy sớm còn đi gặt! À, khi nào rảnh chị sang nhà em chơi. Ba mẹ em vẫn nhắc đến chị hoài. Em cũng báo cho chị biết, chừng nửa tháng nữa em dời nhà đi chỗ khác rồi.
Lúc ấy nhà Ánh chỉ cách nhà tôi một đoạn đường ngắn. Trước đây, nhà Ánh nghèo nhưng lại được một người cậu làm ăn khá giúp đỡ nên Ánh vẫn được đi học. Hồi ấy Ánh vẫn hay qua lại nhà tôi để hỏi han bài vở. Khi nhà tôi có chuyện gì cần tôi cũng gọi Ánh đến giúp. Chúng tôi vẫn thân thiết với nhau như chị em. Nghe Ánh nói sắp dời nhà đi nơi khác tôi ngạc nhiên hỏi:
- Ánh sắp dời nhà đi đâu xa không? Vì sao vậy?
Ánh cười cười:
- Đi kinh tế mới! Người ta đuổi mà!
- Thật không? Vì sao người ta lại đuổi?
Ánh cười giải thích:
- Nói chơi vậy chứ khu đất em đang ở giờ ba em giao lại cho bác Lẹ em đi tập kết ngoài Bắc mới về. Xã đã thế cho nhà em một miếng đất khác ở rẫy chè của bà Năm làm lô gia cư. Rẫy chè đó giờ chính quyền chia thành năm sáu lô để cấp cho những gia đình chưa có đất làm nhà. May mắn ba em bốc thăm trúng được phần đất có một số cây chè uống khá ngon lành...
- Bà Năm nhường đất lại cho chính quyền à?
Chị Lâm trả lời thay Ánh:
- Nhường cái búa. Bây giờ đất nào cũng của nhà nước hết. Ai nhiều đất chính quyền sẽ lấy bớt chia cho những người chưa có. Thôi, bữa nào gặp lại sẽ nói chuyện nhiều hơn.
Hai người chào ra về. Tôi định rửa ráy cho con Hoa, nhưng nhìn vào ghè nước thấy chỉ còn một lớp nước mỏng dưới đáy không lút được cái gáo dừa. Người đã quá mệt nên tôi đổ lười, nói:
- Thôi, hai đứa kia đi ngủ rồi, con Hoa sáng mai tắm rửa luôn! Bây giờ vô coi bà nội cho ăn chi mà đi ngủ cái đã. Từ sáng tới giờ ba mẹ con với ba ổ mì và một mớ bánh ú đã ăn hết trơn... Mẹ nấu gì đấy mẹ?
- Nước chè, sôi rồi.
Bà nội bưng cái soong đặt lên bàn rồi rót ra mấy chén lưng lưng. Sau đó bà nội bước lại nghiêng chiếc ghè đựng nước để múc một gáo đem chế cho mau nguội. Nghe tiếng gáo cọ vào đáy ghè kêu rột rột khiến tôi thấy ghê ghê muốn quên cả khát.
- Uống đi, nước chè ngon lắm!
Tôi hơi ngạc nhiên, nhìn bé Hoa mà tội nghiệp:
- Con tưởng mẹ nấu cơm chứ!
Bà nội cười chống chế:
- Gạo trong nhà bữa ni không còn một hột. Ngày mốt nhà mình mới mua lúa điều hòa được con ơi. Tiền mẹ vẫn để dành sẵn đó có dám mua chi mô. Mấy hôm ni mẹ cứ ăn ba cái bí.
Thấy tôi im lặng, bà nội cười giả lả tiếp:
- Khi nãy có con Lâm con Ánh mẹ không dám cắt bí ra nấu, thôi ráng chờ một chốc bà nội nấu bí cho ăn nghe!
Tôi thấy vừa thương xót vừa hơi giận bà nội. Không ngờ cảnh nhà tôi lại bi đát đến thế. Những lá thư gởi cho tôi bà nội có bao giờ đề cập đến cảnh này đâu?
- Thôi mẹ, khuya quá rồi, mẹ đi ngủ đi, sáng mai nấu ăn luôn thể.
Thế rồi tôi trải chiếu giăng mùng ép bé Hoa đi ngủ.
*
Vừa nằm xuống tôi liền đánh một giấc chẳng còn biết trời trăng mây gió gì nữa. Tới khi nghe mấy hồi kẻng báo thức vang lên tôi mới giật mình thức dậy. Trời vẫn còn tối om. Đôi mắt ngái ngủ cay sè, tôi định nằm lại thì nghe tiếng bà nội hỏi:
- Ngủ được không con?
- Được mẹ, ngủ như chết! Ở đây sáng nào người ta cũng đánh kẻng báo thức sớm như thế hả mẹ? Bây giờ là mấy giờ?
- Thường là bốn giờ, phải báo thức để người ta dậy sửa soạn đi mần chứ!
Tôi cảm thấy ngao ngán cái cảnh nghe kẻng dậy sớm như thế này lắm. Xưa nay tôi vẫn có thói quen thức dậy trưa. Nhất là thời gian ở xứ Đà Lạt mù sương, tuy nói thức dậy sớm nhưng thực sự tôi cũng chỉ thức dậy sau khi mặt trời đã mọc. Mỗi lần có chuyện gì bất đắc dĩ phải thức dậy sớm, tôi vẫn phải mắt nhắm mắt mở để làm việc.
- Mẹ à, ở đây ngoài việc làm ruộng rẫy với hợp tác xã, còn có việc gì làm được nữa không?
- Có chứ, như nuôi heo, chăn vịt, chạy máy xay xát, nhưng đều có người mần cả rồi. Mình thì cứ công việc ruộng rẫy thôi con ơi!
Tôi nói như than thân:
- Như thế sợ con làm không nổi đó chứ. Khi kia cứ ở trong ấy buôn bán còn đỡ hơn.
- Lâu ni con có thư từ với anh chị giáo không?
- Dạ có, ba mẹ con vẫn khỏe và cũng hay gởi lời hỏi thăm mẹ. Nghe đâu mới đây thành ủy Sài Gòn có giao cho ba con dịch mấy quyển sách Pháp ra tiếng Việt. Con cũng mừng vì việc đó hợp với khả năng của ba con. Cũng hi vọng nhờ việc đó, ba con cũng kiếm được một ít tiền. Chứ cả hai ông bà đều lớn tuổi quá rồi đâu có làm gì được! Trước đây ba mẹ con còn lãnh được hưu bổng, giờ còn gì đâu. Khi sắp ra đây con cũng đã gởi thư báo cho ba mẹ con biết rồi.
- Dịch sách rứa người ta trả tiền cho mình hả con? Có khá không?
Câu hỏi của bà nội khiến tôi nghĩ tới cha tôi. Ông là một giáo sư dạy Pháp văn giỏi có tiếng. Trước 1975, dù cha tôi đã đến tuổi về hưu nhưng một số trường học vẫn mời ông ở lại dạy tiếp tục. Ngoài việc dạy học, ông còn dịch một số sách từ Pháp ra Việt và đôi khi dịch cả từ Việt văn ra Pháp văn nữa. Tôi trả lời bà nội với giọng hãnh diện:
- Như ngày trước thì cũng khá đấy. Bây giờ không rõ ba con đã được nhận ít nhiều chi chưa nhưng theo thư gởi cho con thì ba con đã được ông Trường Chinh và ông bí thư thành ủy thành phố Hồ Chí Minh khen ngợi lắm. Ba con vốn tánh tình cẩn trọng, làm chi cho ai là làm tới nơi tới chốn. Mẹ con nói vừa được giao cho việc dịch sách, ba con liền đi sắm lại ngay bốn cuốn tự điển lớn mặc dầu lúc đó loại sách ấy hiếm và rất đắt. Thật ra theo con biết ba con không cần thiết mấy cuốn sách ấy lắm đâu, nhưng ba con muốn bất cứ ai thắc mắc chữ nghĩa sẽ cho họ thấy minh bạch. Ba con có được công việc ấy con cũng an tâm lắm.
Bà nội lại hỏi:
- Rứa lâu nay ở trong ấy con có dồn độ được ít nhiều chi không?
- Dạ cũng có chút ít. Ba mẹ con có nói nếu ba con dịch sách mà khá được, sẽ phụ giúp thêm cho con một ít vốn nữa để buôn bán.
- Thôi con ơi, thời buổi ni cứ ruộng rẫy là được rồi. Buôn bán bị người ta dòm ngó cũng khó lắm.
Sau một hồi nói chuyện với bà nội cũng như tôi đã tỉnh ngủ hẳn. Bấy giờ tôi mới cảm thấy đói bụng, tôi cười:
- Con dậy chặt bí nấu cháo nghe mẹ. Không biết mấy đứa nhỏ có chịu ăn không đây. Rồi mình đi mua gạo ở đâu? Chắc đứa nào cũng đói chết cha nó cả rồi.
- Ừ, con dậy chặt bí nấu đi!
Rồi bà nội ngập ngừng nói tiếp:
- Còn gạo mua ngoài mắc lắm. Để mẹ qua bác Thập mượn một ít rồi ngày mai mình mua lúa điều hòa xay ra trả lại cũng được.
Tôi vừa thắp đèn vừa nhăn mặt khó chịu:
- Trước sau cũng phải mua, lúa điều hòa của mẹ có đủ cho cả nhà ăn không? Con mới vừa về nhà đầu hôm mà buổi sớm mẹ đi mượn gạo coi sao được?
Bà nội thấy tôi nói có lý lặng lẽ cúi xuống giường lôi ra hai trái bí đỏ nhỏ cùng cái dao phay đưa cho tôi:
-Dùng dao ni chặt mới bể. Bí tra vỏ cứng quá mẹ phải vằm nhiều lần mỏi cả tay.
Sực nhớ ghè nước đã cạn, tôi vội tìm gàu thùng để đi gánh. Khi nước tạm đủ dùng, tôi lấy tấm thớt đặt lên một cái tẹt rồi kê trái bí lên. Tôi cầm dao phay dùng sức chặt mạnh xuống một cái. Nhưng trái bí không bể mà lăn ra một góc xa.
- Trời đất, dao đùi quá mà bí lại cứng như đá!
- Từ từ mà chặt con. Muốn nấu một trái mẹ phải chặt hơn chục lần mới xong đó. Mấy hôm ni mẹ ăn toàn bí không à.
Tôi không khỏi vừa thương hại vừa tức cười hỏi lại:
- Thế mà mẹ chịu nổi? Mẹ ăn bí với đồ ăn gì? Một trái thế này ăn được mấy bữa?
- Còn một ít đậu xanh, mỗi lần nấu mẹ bỏ vô một dúm, thêm một ít muối. Một trái mẹ có thể ăn được một ngày hay một ngày rưỡi không chừng.
Tôi càng ngạc nhiên và tội nghiệp cho bà nội. Trái bí loại nhỏ một người mạnh ăn một bữa không đủ thế mà bà nội có thể chia ra ăn một ngày rưỡi?
- Mẹ ăn vậy làm sao mà no?
- Chứ lấy mô mà ăn cho nhiều?
Sực nhớ đến việc buôn bán đang thịnh lợi của mình ở Đà Lạt, tôi tiếc rẻ:
- Khi kia mẹ theo con vô trong đó ở nhà giữ cháu để con buôn bán có hơn không?
- Con nói rứa chứ mồ mả tổ tiên còn ở đây cả đi răng được? Ngày tết ngày giỗ ai lo hương khói? Có phải sống mãi như ri mô mà con sợ? Con không nghe ông thủ tướng nói là năm ni trong bước đầu ít nhất mỗi nhà sẽ có một cái đồng hồ à? Chừ người ta khổ thì mình cũng phải khổ, tới khi người ta sướng thì mình cũng sướng theo chứ lo chi? Bác Hồ nói: "Nhà tan cửa nát cũng ừ, Đánh xong giặc Mỹ cực chừ sướng sau", chừ đã đánh thắng Mỹ rồi cứ đợi mà sướng thôi con à!
Bà nội nhiễm lý thuyết của mấy ông cách mạng rồi! Tôi cười thầm. Mỗi nhà ít nhất sẽ có một cái đồng hồ? Chắc không? Tôi sực nhớ là trước đây trong nhà vẫn có một cái đồng hồ để bàn tuy khá cũ nhưng vẫn còn chạy tốt. Đầu hôm tới giờ không còn nghe cái tiếng kêu tích tắc quen thuộc của nó, tôi hỏi:
- Thế cái đồng hồ của mình đâu rồi mẹ?
- Để ở nhà ông Sang rồi. Khi mới giải phóng, ông Sang đi tập kết ngoài Bắc vô hay ghé nhà mình chuyện vãn với cha con lắm. Thấy ông ta nhìn cái đồng hồ ấy có vẻ thèm thuồng, cha con hiểu ý nên đã tặng cho ông ấy.
- Cái đồng hồ đã cũ mèm đáng giá chi, trong nhà lại đang dùng mà ông nội lại đem tặng cho người ta?
Có lẽ không hiểu ý tôi, bà nội nói:
- Có lẽ cha con nghe ông thủ tướng nói trên đài là sang năm 1976 ít nhất mỗi gia đình Việt Nam sẽ có một cái đồng hồ, trước sau mình cũng có cái khác, nên đem tặng để lấy lòng ông Sang đó. Nói rứa chứ dẫu là đồng hồ mới cha con cũng sẵn sàng tặng nữa huống chi là… Cũng được thôi, mai mốt thằng Thành về biết mô lại chẳng phải nhờ cậy đến ông ta?
Lòng tôi chợt xúc động. Có thể ông nội nghĩ đến chuyện nhờ cậy ông Sang sau này thật. Ông nội hiền lành chất phác, thương con cháu rất mực, lúc nào cũng nghĩ đến tương lai lớp hậu duệ. Bình sinh, ông nội vẫn đi khuya về tối cần cù chăm chỉ làm ăn, nhưng gặp bà nội có mạng "thảnh thơi" nên dù ông nội cố gắng mấy cũng không thể đưa gia đình khá lên được. Ông nội đã qua đời trong một hoàn cảnh hết sức túng thiếu và đơn chiếc, chỉ có người vợ bên mình chứ chẳng thấy được con cháu gì cả.
Tôi cũng hơi tức cười chuyện ông cán bộ tập kết ra Bắc trở về được bạn tặng cái đồng hồ cũ mèm mà cũng lấy! Ông ta đâu có khó gì việc kiếm một cái đồng hồ mới trong năm 1976 khi mà mỗi gia đình đều sẽ có một cái?
Thấy nồi cháo bí đã nhừ, tôi bưng xuống rồi thay vào bếp một soong nước uống. Sau đó, tôi múc ra nhiều tô cho chóng nguội. Xong xuôi, tôi nói với bà nội:
- Đứa nào thức dậy mẹ bảo nó súc miệng rửa mặt rồi ăn kẻo đói. Con phải đi gánh thêm vài đôi nước cho xong để rồi sáng còn phải lo đi mua gạo và ít thức ăn chi nữa. Tụi nó ăn bí không quen chịu không nổi đâu.
- Thôi, để trưa trưa rồi gánh. Ban ngày người ta đi mần hết giếng ít người đỡ mất công chờ đợi. Sáng sớm và buổi tối người ta gánh đông quá nước mạch ra không kịp mô!
Bấy giờ tôi mới để ý nghe tiếng người huyên thuyên quanh xóm. Con đường kiệt trước nhà nàng người ta đang đi lại rộn rịp. Tôi nhớ tới lời chị Lâm và cô Ánh hồi hôm rồi thở dài qua tiếng ngáp:
- Vài bữa nữa mình cũng phải hòa nhập với người ta rồi, lại lỡ bước mất rồi!