Hồi 16 Sát Phụ Thâm Cừu
Dương Quá và Lục Vô Song nghe bảo lão thợ rèn họ Phùng là sư huynh của Trình Anh, thì kinh ngạc và vui mừng, nghĩ thầm đệ tử của Hoàng Dược Sư thì võ công quyết không kém, ai dè lúc nguy nan lại có cường trợ, thật mừng không để đâu cho hết.
Lý Mạc Sầu lạnh lùng nói:
- Lão đã bị sư phụ đuổi đi, sao còn lưu luyến nỗi gì? Hôm nay ta muốn giết ba đứa nhãi ranh với một mụ ngớ ngẩn kia, lão hãy đứng sang một bên mà xem cảnh nhiệt náo.
Phùng Mặc Phong chậm rãi nói:
- Lão phu tuy có học võ nghệ, nhưng cả đời chưa từng động thủ với ai, huống hồ một chân bị gãy, có muốn đánh nhau cũng chẳng được.
Lý Mạc Sầu nói:
- Như thế còn gì bằng, vậy là lão cũng giữ được cái mạng già của mình đó.
Phùng Mặc Phong lắc đầu, nói:
- Nhưng lão phu không cho phép đạo cô động tới một sợi tóc của sư muội lão phu; mấy vị kia là bằng hữu của sư muội lão phu, đạo cô cũng chớ có động tới họ.
Lý Mạc Sầu nổi sát khí, cười:
- Thế thì cả bốn đứa cùng nộp mạng, càng vui.
Nói rồi đứng dậy. Phùng Mặc Phong vẫn thản nhiên, tiếp tục quai búa rèn sắt, giống như người đánh trống nhịp theo điệu bộ diễn tuồng, nói vài tiếng lại nện xuống đe một cái, nói rành rọt từng tiếng:
- Lão phu rời sư môn đã hơn ba mươi năm, võ nghệ không luyện, chỉ còn nhớ mang máng trong đầu.
Lý Mạc Sầu cười hi hi, nói:
- Bần đạo nửa đời hành tẩu giang hồ, thật chưa gặp ai lâm trận mới mài gươm, nước đến chân mới nhảy như lão, hôm nay được mở rộng tầm mắt. Phùng Mặc Phong, cả đời lão chưa một lần động thủ với ai thật ư?
Phùng Mặc Phong nói:
- Lão phu chưa bao giờ đắc tội với người khác; có kẻ đánh chửi lão phu, lão phu cũng không thèm chấp, tất nhiên chưa động thủ với ai.
Lý Mạc Sầu cười, nói:
- Hoàng lão tà quả nhiên thu nhận một đám bị thịt làm đệ tử, rồi đẩy chúng ra trước mặt bàn dân thiên hạ.
Phùng Mặc Phong nói:
- Này đạo cô, không được nói xấu ân sư của lão phu.
Lý Mạc Sầu nhếch mép cười, nói:
- Người ta đã không nhận lão làm đệ tử từ lâu, lão còn cứ ân sư ân vãi, không sợ người đời chê cười hay sao?
Phùng Mặc Phong vẫn quai búa rèn sắt, thong thả nói:
- Lão phu một đời cô khổ, thân nhân trên thế gian chỉ có một mình ân sư, lão phu không kính yêu ân sư, thì còn nghĩ đến ai kia chứ? Này tiểu sư muội, lão nhân gia ân sư ngọc thể thế nào?
Trình Anh nói:
- Lão nhân gia người rất khoẻ.
Sắc mặt Phùng Mặc Phong lập tức lộ vẻ vui.
Lý Mạc Sầu thấy lão thợ rèn biểu lộ chân tình, nghĩ thầm: “Hoàng lão tà là tông sư một đời, quả nhiên có chỗ hơn người. Lão ta làm cho đệ tử tàn phế thế kia, mà đệ tử vẫn còn trung thành lưu luyến với lão ta”.
Lúc này tấm phôi rèn đã nguội dần, Phùng Mặc Phong lẽ ra dùng kìm đưa nó vào bếp lửa, nhưng lão đang mải nghĩ chuyện khác, lại đưa cây búa lớn đang cầm bên tay phải vào lửa nung, chứ không phải đưa tấm phôi vào. Lý Mạc Sầu cười, nói:
- Này lão thợ rèn, lão cứ thong thả nhớ lại võ công mà sư phụ đã dạy lão cũng được, khỏi cần luống cuống chân tay như thế.
Phùng Mặc Phong không trả lời, lẳng lặng nhìn khối lửa đỏ trong lò, lát sau lại vùi một đầu cây quải trượng treo ở hõm vai vào trong lửa. Dương Quá và Lục Vô Song cùng kêu lên:
- Ô hay, ô hay, là cây quải trượng mà!
Trình Anh cũng kêu lên:
- Sư ca!
Phùng Mặc Phong vẫn im lặng nhìn lò lửa. Chỉ thấy lửa rừng rực thế kia, mà cây quải trượng không hề bị cháy, đang đỏ hồng dần, thì ra là một cây thiết trượng. Một hồi sau thì chiếc búa cũng đỏ hồng lên.
Lúc này Lý Mạc Sầu mới chuyển từ khinh miệt sang đề phòng, biết rằng lão thợ rèn diện mạo xấu xí trước mặt nàng ta là một nhân vật có điểm hơn người, chỉ sợ lão có độc chiêu, vội vung vung cây phất trần che chắn chỗ yếu hại đằng trước, nhảy ra khỏi cửa, gọi:
- Phùng Mặc Phong, ra đây coi!
Phùng Mặc Phong đi ra cửa, thân thủ hoàn toàn không giống một kẻ tàn phế, lão chống cây quải trượng đỏ hồng xuống đất, nói:
- Đạo cô, lão phu mong đạo cô đừng nhiếc móc ân sư của lão phu, đừng gây khó dễ với sư muội của lão phu, hãy tha cho cái lão thợ rèn khốn khổ này!
Lý Mạc Sầu rất đỗi ngạc nhiên: “Tại sao lâm trận lại đi cầu xin thế này?” bèn nói:
- Ta chỉ tha cho một mình lão thôi, nếu lão biết sợ rồi, thì đừng có xen vào việc của ta.
Phùng Mặc Phong nghiến răng, gằn giọng:
- Được, vậy đạo cô hãy lấy mạng ta trước đã!
Nói xong toàn thân run rẩy, vừa sợ hãi, vừa kích động.
Lý Mạc Sầu vung cây phất trần đánh tới đỉnh đầu lão, Phùng Mặc Phong vội tránh, nhảy sang bên rất nhanh nhẹn, nhưng cánh tay run run, chưa dám đánh trả. Lý Mạc Sầu tiến công ba chiêu liên tiếp, lão đều khéo léo tránh được, vẫn chưa trả đòn. Bọn Dương Quá ba người đứng một bên quan sát, chờ cơ hội trợ giúp, thấy Lý Mạc Sầu chiêu số mỗi lúc thêm dồn dập, Phùng Mặc Phong tựa hồ chưa hề động thủ với ai bao giờ, cộng với tính tình hiền hòa, chiếc búa đỏ hồng cầm tay vẫn chưa ra đòn. Dương Quá thấy không ổn, vị dị nhân võ lâm này võ công tuy cao, nhưng không có ý tranh đấu, phải kích động cho lão nổi giận mới được; thế là chàng nói lớn:
- Lý Mạc Sầu, vì lẽ gì mụ chửi Đào Hoa đảo chủ là kẻ bất trung bất hiếu, bất nhân bất nghĩa?
Lý Mạc Sầu nghĩ thầm: “Ta chửi thế bao giờ nhỉ?”, tay vẫn xuất chiêu gấp hơn, không trả lời. Dương Quá lại nói:
- Mụ vu hãm Đào Hoa đảo chủ cưỡng dâm thê nữ người khác, bắt cóc tử đệ của người khác, mụ có tận mắt nhìn thấy việc đó hay không? Mụ bảo Đào Hoa đảo chủ lừa dối bằng hữu, bán rẻ ân nhân, có đúng thế không? Tại sao mụ tung tin đồn nhảm khắp chốn giang hồ để hủy hoại thanh danh của Hoàng đảo chủ?
Trình Anh ngớ ra không hiểu, Phùng Mặc Phong nghe vậy thì nổi cơn lôi đình, cây quải trượng và chiếc búa cùng ra đòn. Lão đứng một chân, thành thế “Kim kê độc lập”, như chôn chân tại chỗ thật vững chắc, búa và trượng mang khí nóng của lửa tấn công trực diện Lý Mạc Sầu.
Lý Mạc Sầu thấy khí thế của lão mãnh liệt, không dám chính diện tiếp chiến, vội nhảy tránh, thừa cơ mới phản kích. Dương Quá lại nói:
- Lý Mạc Sầu, mụ vu hãm Đào Hoa đảo chủ là hạng người xấu xa, ta thấy chính mụ mới là kẻ xấu xa!
Phùng Mặc Phong càng nghe càng giận, chiếc búa và cây quải trượng đỏ hồng bổ dọc phạt ngang cực mạnh, thoạt tiên chiêu thuật còn hơi vụng, sau một hồi, càng thấy quen tay dần.
Hai người công lực hơn kém nhau không xa, nhưng Lý Mạc Sầu ngang dọc giang hồ, từng trải vài trăm trận lớn nhỏ, dày dạn kinh nghiệm hơn Phùng Mặc Phong hàng trăm lần. Sau vài chục chiêu, Lý Mạc Sầu đã biết Phùng Mặc Phong nội công không yếu, nhưng hoàn toàn không có kinh nghiệm, hơn nữa chỉ có một chân, đấu lâu một chút, chắc chắn sẽ thua, bèn dùng lối du đấu, đợi lão nhụt bớt nhuệ khí, sẽ lại phản kích. Quả nhiên đấu một hồi nữa, nộ ý của Phùng Mặc Phong đã giảm hẳn, đấu chí nhụt đi, dần dần sa vào thế hạ phong, Lý Mạc Sầu cả mừng, vung cây phất trần đánh tới ngực lão.
Phùng Mặc Phong giơ chiếc búa gạt đi. Cây phất trần thừa thế đã cuốn lấy đầu chiếc búa, đây chính là tuyệt chiêu của Lý Mạc Sầu đoạt binh khí đối phương, chỉ cần giật một cái, chiếc búa của Phùng Mặc Phong sẽ bị văng tuột khỏi tay. Ai ngờ xèo xèo một hồi, khói xanh bốc lên, ai nấy ngửi thấy mùi khét, toàn bộ phần ngọn cây phất trần đã bị thiêu hủy.
Thế là Lý Mạc Sầu chẳng những không đoạt được binh khí của đối phương, mà chính binh khí của mình còn bị hủy hoại; nàng ta lâm nguy không rối loạn, ném cán cây phất trần đi, sử dụng Ngũ độc thần chưởng. Lộ chưởng pháp này tuy lợi hại, nhưng phải đánh gần mới có thể kiến hiệu, lúc này Phùng Mặc Phong múa búa và trượng ù ù, đắc tâm ứng thủ, chỉ thấy ở khoảng giữa hai người liên tục có tia khói xanh bay lên, nguyên y phục của Lý Mạc Sầu bị chiếc búa và quải trượng đỏ hồng chạm tới đốt cháy từng vệt. Lý Mạc Sầu cả giận, rõ ràng nàng sắp thủ thắng, rốt cuộc lại bị binh khí của lão thợ rèn giành mất lợi thế, thật tức không chịu nổi, quyết ý phải cho lão nếm một chưởng.
Phùng Mặc Phong lần đầu giao đấu, nếu liên tiếp thua kém, chắc đã co lại; nhưng lúc này đang thắng thế, lão sử búa và trượng càng thêm tinh diệu. Lý Mạc Sầu muốn giáng cho lão một chưởng, mấy lần suýt nữa thì dính đòn búa, đòn trượng của lão, may mà tránh kịp, chứ không thì đã bị bỏng nặng rồi. Đột nhiên Phùng Mặc Phong kêu lên:
- Không đánh nữa, không đánh nữa, đạo cô thế kia, trông chẳng còn ra thể thống gì cả!
Lão nhảy một chân về phía sau nửa trượng. Lý Mạc Sầu sững lại, một luồng gió mát thổi tới, áo xống trên người Lý Mạc Sầu lập tức bay đi từng mảnh, cánh tay, bờ vai, trước ngực, hai đùi, có rất nhiều chỗ hở hang cả da thịt. Nàng ta là một xử nữ, thế này thật là ngượng ngập hết chỗ nói, đang định quay đầu bỏ chạy, bỗng thấy lưng lại mát rượi, có một chiếc áo bay đến vắt lên vai nàng ta.
Dương Quá thấy Lý Mạc Sầu áo quần tơi tả, bèn tháo dây lưng, cởi chiếc áo ngoài, vận nội lực ném áo khoác vào vai nàng ta. Lý Mạc Sầu vội mặc áo khép vạt vào, nàng ta từng trải trăm trận, lúc này cũng quá ngượng ngùng, mặt lúc đỏ lúc tái, không biết có nên tiếp tục động thủ nữa chăng, nghĩ thầm: “Nếu đấu tiếp, cái áo này sẽ lại bị cháy mất, thôi hãy tạm nuốt giận đã vậy”. Bèn gật gật đầu với Dương Quá, cảm ơn chàng tặng áo, rồi quay sang nói với Phùng Mặc Phong:
- Binh khí quái đản của lão đúng là tà đạo đích truyền của Hoàng lão tà. Lão hãy nói thật xem, nếu đấu bằng võ công thật sự, lão có thắng nổi bần đạo hay không? Đệ tử của Hoàng lão tà nếu đơn đả độc đấu với bần đạo, có chiếm được thượng phong hay không?
Phùng Mặc Phong buồn bã nói:
- Nếu đạo cô không bị mất binh khí, thì đấu một hồi nữa, có thể thắng lão phu.
Lý Mạc Sầu nói:
- Lão biết thế thì được rồi. Lời bần đạo viết trên giấy, rằng đệ tử Đào Hoa đảo chủ cậy đông thủ thắng, là không hề sai.
Phùng Mặc Phong cúi đầu ngẫm nghĩ, rồi nói:
- Cái đó chưa chắc! Nếu bốn vị sư huynh của lão phu Trần, Mai, Khúc, Lục có ở đây, thì riêng mỗi vị ấy đều thắng đạo cô. Không kể hai vị Trần sư huynh, Khúc sư huynh võ công trác tuyệt đã đành, ngay cả Mai Siêu Phong Mai sư tỷ tuy là nữ, song đạo cô cũng không địch nổi đâu.
Lý Mạc Sầu cười khẩy, nói:
- Mấy người ấy chết cả rồi, không đối chứng được, còn nói làm chi? Võ công của Hoàng lão tà cũng chỉ đến thế mà thôi. Bần đạo cũng định lĩnh giáo thần kỹ của thân sinh nữ nhi lão ta là Quách phu nhân, nhưng suy ra thì khỏi cần.
Nói xong quay mình định đi.
Dương Quá chợt nói:
- Hãy khoan!
Lý Mạc Sầu nhướn mày, hỏi:
- Cái gì nữa?
Dương Quá nói:
- Đạo cô bảo võ công của Hoàng đảo chủ cũng chỉ đến thế mà thôi, là sai. Ta được nghe Hoàng đảo chủ giảng về “Ngọc tiêu kiếm pháp”, thừa sức phá công phu cây phất trần của đạo cô.
Nói rồi nhặt một que sắt, vạch hình vẽ dưới đất, miệng giải thích:
- Đây, cây phất trần của đạo cô đánh thẳng tới trước mặt thế này, quả nhiên lanh lẹ lợi hại, nhưng trường kiếm của Hoàng đảo chủ chém ngang thế này, đạo cô thu về không kịp. Nếu đạo cô phản kích, thanh kiếm sẽ từ chỗ này đánh nhanh tới; nếu đạo cô điểm huyệt chính diện, Hoàng đảo chủ sẽ chộp lấy ngọn cây phất trần như cái vuốt hổ, rồi đảo cán kiếm điểm huyệt Kiên Trinh ở vai đạo cô, chiêu này đạo cô có thể ngờ được không?
Chiêu đó quả là không thể ngờ, một chiêu tinh diệu tuyệt luân; điểm huyệt chính diện vốn là một trong số tuyệt chiêu của cây phất trần Lý Mạc Sầu, song chiêu thức mà Dương Quá vạch ra sẽ khắc chế nó, khiến Lý Mạc Sầu không thể nào đánh trả, chỉ còn cách quẳng cây phất trần nhận thua.
Dương Quá lại vừa vạch vạch dưới đất, vừa nói:
- Còn về “Ngũ độc thần chưởng” của đạo cô, thì Hoàng đảo chủ có “Đạn chỉ thần thông” chế ngự, chờ một chưởng của đạo cô đánh tới, Hoàng đảo chủ búng vào lòng bàn tay đạo cô, thì bàn tay ấy chẳng phải bị hủy hoại ngay tại chỗ đó sao? Hoàng đảo chủ chỉ búng một viên sỏi, thần chưởng của đạo cô đã không thể với tới thân thể Hoàng đảo chủ.
Tiếp đó chàng còn kể ra mười mấy chiêu khắc chế võ công của Lý Mạc Sầu.
Lý Mạc Sầu nghe mà tái mặt, mỗi câu nói của chàng đều hợp tình hợp lý, mỗi chiêu số đưa ra đều vô cùng xảo diệu, nàng ta quả thật không thể địch nổi.
Dương Quá lại nói:
- Hoàng đảo chủ hận đạo cô nói năng vô lễ, Hoàng đảo chủ địa vị là một đại tông sư, không thèm động thủ với đạo cô, đã dạy cho ta mấy cách trên, lệnh cho ta thay lão nhân gia thu thập đạo cô. Nhưng ta nể tình đạo cô với sư phụ ta dẫu gì cũng là đồng môn, nên hôm nay ta nói cho đạo cô biết sự lợi hại của Hoàng đảo chủ. Từ rày đạo cô có gặp đệ tử của Hoàng đảo chủ thì hãy tránh xa là được.
Lý Mạc Sầu im lặng hồi lâu, rồi nói:
- Thôi được, thôi được!
Đoạn quay người đi, thoáng chốc đã khuất sau núi, thân pháp nhanh nhẹn hiếm thấy trong giang hồ.
Thực ra mấy chiêu thức kia Hoàng Dược Sư tuy đã truyền cho Dương Quá, nhưng muốn luyện tới mức thành thạo, đủ để chiến thắng kẻ địch, thì nhanh nhất cũng phải tốn vài năm. Dương Quá chỉ giải thích một phen, không cần động thủ, đã khiến Lý Mạc Sầu tâm phục khẩu phục, từ nay suốt đời sẽ không dám nói một lời xem thường Hoàng Dược Sư.
Lục Vô Song vốn chỉ nghe giọng nói của Lý Mạc Sầu đã run sợ, tim đập mạnh, bây giờ thấy sư phụ đã đi xa, thì như trút được gánh nặng, vỗ tay reo:
- Chàng Ngốc, ngay cả sư phụ của muội cũng sợ chàng quá, bỏ chạy rồi.
Trình Anh thấy Dương Quá đem tặng Lý Mạc Sầu tấm áo nàng may cho chàng, tình cảnh lúc ấy làm thế cũng phải, nhưng bên trong tấm áo mới, chàng vẫn mặc chiếc áo cũ rách, chỉ vì nó do Tiểu Long Nữ khâu cho chàng, chàng phân biệt thân sơ, không hề quên người cũ như thế, Trình Anh cảm thấy buồn, giả như không để ý. Bốn người liền vào trong quán xem Khúc cô thế nào.
Vừa bước vào, bỗng nghe ở phía trước núi có tiếng người ngựa huyên náo, ì ầm rùng rùng như tiếng sấm, bốn người cùng quay ra.
Dương Quá nói:
- Tại hạ đi xem sao.
Nói rồi nhảy lên ngựa, phóng ra khỏi thung lũng, đi vài dặm, ra đến đường cái thấy bụi tung mù mịt, tinh kỳ rợp trời, là đại quân Mông Cổ tiến xuống phía nam, thiết cung trường đao, thế như sóng trào.
Dương Quá chưa từng thấy đại quân hành binh bao giờ, nhìn cảnh tượng kinh tâm động phách, bất giác ngẩn người.
Hai tên lính vung đao quát:
- Thằng mọi kia, nhìn cái gì?
Chúng xông tới. Dương Quá quay đầu ngựa bỏ chạy. Hai tên kia lắp tên vào cung, pựt pựt hai tiếng, bắn tới sau lưng chàng. Dương Quá giơ tay tóm lấy mũi tên, cảm thấy hai mũi tên bay rất gấp, chàng mà không đầy mình võ công, thì đã bị mũi tên xuyên qua người mà chết. Hai tên kia thấy chàng bản lĩnh như thế, vội kìm ngựa lại, không dám đuổi theo.
Dương Quá trở về chỗ lò rèn, kể lại sự việc. Phùng Mặc Phong thở dài:
- Đại quân Mông Cổ quả nhiên tiến xuống phía nam. Bách tính Trung Quốc ta khốn khổ rồi!
Dương Quá nói:
- Thuật cưỡi ngựa bắn cung của người Mông Cổ, quân Tống thật không địch nổi. Tai họa phen này hẳn là không nhỏ.
Phùng Mặc Phong nói:
- Dương công tử chính đang tuổi anh niên, sao không về Nam đầu quân, chống lại ngoại xâm?
Dương Quá ngây ra, nói:
- Không, tại hạ muốn lên phía bắc tìm cô cô của tại hạ. Quân Mông Cổ thanh thế hùng hậu như vậy, sức một mình tại hạ, phỏng làm được trò gì?
Phùng Mặc Phong lắc đầu, nói:
- Sức một người tuy nhỏ, nhưng sức nhiều người sẽ mạnh. Nếu ai cũng nghĩ như công tử, thì có ai chịu đứng lên chống sự xâm nhập của dị tộc?
Dương Quá cảm thấy lời Phùng Mặc Phong nói không sai, nhưng trên đời bây giờ không có việc nào hệ trọng hơn việc đi tìm Tiểu Long Nữ. Từ nhỏ chàng lưu lạc giang hồ, đã phải khổ sở không ít vì bọn tiểu quan tiểu lại; nghĩ thầm bọn Mông Cổ cố nhiên tàn bạo, nhưng hoàng đế Tống triều chưa chắc đã là người tốt, chả tội gì xuất lực cho lão ta. Chàng nghĩ thế, mỉm cười, không nói gì.
Phùng Mặc Phong buộc kìm, búa, bễ quạt gió vào với nhau, đeo lên vai, nói với Trình Anh:
- Sư muội, sau này gặp lại sư phụ, sư muội hãy thưa với lão nhân gia người rằng đệ tử Phùng Mặc Phong không dám quên lời giáo huấn của lão nhân gia. Hôm nay ta đầu quân chống Mông Cổ, sống chết gì cũng phải giết cho được một, hai vương tử đại tướng xâm lược giang sơn chúng ta. Sư muội, nhớ bảo trọng. Hôm nay ta được gặp một vị truyền nhân của sư phụ, thực hoan hỉ vô cùng.
Nói xong chống quải trượng, đi luôn, cũng chẳng buồn nhìn Dương Quá một lần.
Dương Quá nhìn Trình Anh và Lục Vô Song, nói:
- Không ngờ ở nơi này lại gặp một vị dị nhân.
Lục Vô Song bênh Dương Quá, nói:
- Biểu tỷ, các nhân vật đệ tử của sư phụ biểu tỷ, trừ biểu tỷ ra, không ngớ ngẩn thì cũng điên điên khùng khùng.
Trình Anh mỉm cười, thản nhiên nói:
- Mỗi người một chí hướng, chẳng thể nài ép. Biểu muội bảo Phùng Mặc Phong điên điên khùng khùng, không chừng Phùng Mặc Phong lại bảo chúng ta là hạng người vô tình cũng nên. Hơn nữa, chính tỷ tỷ đây lại không có chút ngớ ngẩn, điên điên khùng khùng đó sao?
Dương Quá nghe chợt động lòng, liếc thấy thần sắc nàng ta vẫn như thường, không biết lời vừa rồi có ngụ ý cả chàng trong đó hay không.
Bỗng nghe huỵch một cái, Khúc cô ngã từ trên ghế xuống đất. Ba người vội dìu Khúc cô nằm lên giường, thấy Khúc cô mặt đỏ bừng bừng, hai mắt trợn ngược, biết là độc tính của Ngũ độc thần chưởng lại phát tác. Trình Anh liền cho uống thuốc, Dương Quá thì xoa bóp day ấn huyệt. Khúc cô trố mắt nhìn chàng, mặt lộ vẻ kinh sợ, nói:
- Dương huynh đệ, huynh đệ đừng tìm ta đòi mạng, không phải ta hại huynh đệ…
Trình Anh dịu dàng nói:
- Tỷ tỷ, đừng sợ, người này không phải là…
Dương Quá chợt nghĩ: “Lúc này Khúc cô thần trí mê loạn, chính là lúc nên buộc Khúc cô nói thật cả ra”. Bèn nắm lấy hai cổ tay Khúc cô, gằn giọng, nói:
- Vậy ai hại chết ta? Ngươi không nói, ta sẽ bắt ngươi đền mạng.
Khúc cô cầu xin:
- Dương huynh đệ, không phải Khúc cô đâu mà.
Dương Quá tức giận:
- Ngươi không chịu nói hả? Được, ta sẽ bóp chết ngươi.
Chàng đưa tay bóp cổ Khúc cô. Khúc cô hoảng hốt kêu tướng lên.
Trình Anh và Lục Vô Song đâu biết dụng ý của Dương Quá, cùng ngăn lại:
- Dương đại ca, đại ca làm cho Khúc cô sợ hết hồn rồi kìa.
- Chàng Ngốc, lúc này còn đùa cợt được.
Dương Quá mặc kệ, tay hơi dùng sức một chút, mặt thì giả bộ hung thần ác sát, nghiến răng, nói:
- Ta là ác quỷ Dương huynh đệ đây. Ta chết khổ chết sở, ngươi biết không?
Khúc cô nói:
- Khúc cô biết mà, huynh đệ chết rồi, lũ quạ rỉa thịt huynh đệ.
Dương Quá lòng đau như cắt, chàng chỉ biết phụ thân chết vì tai nạn, không ngờ sau khi chết, thi thể lại không được mai táng, để cho quạ rỉa, liền gào to:
- Kẻ nào hại chết ta? Nói mau, nói mau!
Khúc cô nói lúng búng trong cổ họng:
- Là huynh đệ tự đến đánh cô cô, cô cô trên người có độc châm, cho nên huynh đệ bị chết.
Dương Quá gào to hơn:
- Cô cô là ai?
Khúc cô bị chàng bóp cổ, không thở được, sắp ngất đi, chỉ thều thào:
- Cô cô là cô cô.
Dương Quá hỏi:
- Cô cô họ gì, tên là gì?
Khúc cô nói:
- Khúc cô không… không biết đâu… Huynh đệ hãy buông ta ra.
Lục Vô Song thấy tình hình như vậy, bèn kéo cánh tay Dương Quá. Dương Quá lúc này như một kẻ điên, hất mạnh một cái, sử đến mười thành lực, Lục Vô Song không trụ nổi, hịch một cái, nàng bị hất văng vào vách, may mà không đau. Trình Anh thấy Dương Quá thường ngày ôn hòa, từ tốn, bây giờ như con hổ điên, sợ quá đờ cả người ra.
Dương Quá nghĩ: “Hôm nay nếu không hỏi cho ra tính danh của kẻ giết phụ thân ta, ta sẽ lập tức hộc máu mà chết”, liền hỏi dồn dập:
- Cô cô họ Khúc phải không? Hay là họ Mai?
Chàng đoán Khúc cô họ Khúc, thế thì cô cô của Khúc cô cũng là họ Khúc, cũng có thể là Mai Siêu Phong.
Khúc cô cố vùng ra, Khúc cô có thời gian luyện công lâu hơn hẳn Dương Quá, song võ công thua kém chàng, hơn nữa huyệt đạo ở cổ tay đang bị kiềm chế, chỉ ấp úng nói:
- Huynh đệ hãy đi lấy mạng cô cô, đừng… đừng tìm Khúc cô.
Dương Quá hỏi:
- Cô cô ở đâu?
Khúc cô nói:
- Khúc cô với gia gia đi ra. Cô cô và hán tử của cô cô ở trên đảo.
Dương Quá nghe câu ấy thì cảm thấy lạnh cả sống lưng, run run hỏi:
- Cô cô gọi gia gia của Khúc cô là gì?
Khúc cô đáp:
- Gọi là gia gia, chứ còn gọi là gì nữa?
Dương Quá tái mặt, còn sợ nghe nhầm, hỏi thêm một câu:
- Hán tử của cô cô tên là Quách Tĩnh phải không?
Khúc cô nói:
- Khúc cô không biết đâu, cô cô gọi “Tĩnh ca ca, Tĩnh ca ca”.
Khúc cô bắt chước Hoàng Dung gọi Quách Tĩnh, rồi luống cuống chân tay, kêu rú lên như lợn bị chọc tiết:
- Cứu mạng, cứu mạng với! Ma… ma…
Dương Quá lúc này không còn nghi ngờ gì nữa. Thời thơ ấu cô khổ, bao nhiêu chuyện bị người đời khinh rẻ trong giây lát cùng hiện ra, nghĩ: “Nếu phụ thân không bị giết hại, mẫu thân ta đâu đến nỗi khốn khổ, mất sớm, ta cũng đâu phải cực khổ như thế”. Lại nghĩ: “Hồi ở đảo Đào Hoa, vợ chồng Quách Tĩnh đối với ta thiếu tự nhiên, có phần khách khí, có phần úy kỵ, khác hẳn thái độ mắng chửi tùy ý với huynh đệ họ Võ, bấy giờ ta không khó chịu; nào ngờ chỉ là vì họ đã giết phụ thân ta, nên trong lòng cảm thấy hổ thẹn. Họ không chịu dạy võ cho ta, đưa ta đến cho phái Toàn Chân hành hạ ta, đều là do đấy mà ra”. Ngạc nhiên và tức giận, chân tay chàng bải hoải.
Khúc cô kêu to, nhảy ra khỏi giường. Trình Anh đến bên cạnh Dương Quá, dịu dàng nói:
- Khúc cô vốn ngớ ngẩn, Dương huynh đã biết. Sau khi Khúc cô bị thương, nói năng càng lung tung, Dương huynh chớ nên tin lời Khúc cô.
Trình Anh ngoài miệng nói thế, song trong bụng tin lời Khúc cô là thật, biết có an ủi Dương Quá cũng vô dụng, nhưng nhìn vẻ mặt quá đau khổ của chàng, nàng cũng hết sức đau lòng.
Mấy câu ấy Dương Quá không hề nghe thấy, chàng ngẩn người một lát, rồi lao ra cửa, nhảy lên lưng con ngựa gầy, kẹp mạnh hai chân, con ngựa lao vút đi, chớp mắt đã xa mấy chục trượng, chỉ nghe loáng thoáng sau lưng mấy tiếng gọi “Chàng ngốc”, “Dương đại ca”. Chàng đâu thèm để ý, trong đầu chỉ một ý nghĩ: “Ta phải trả thù. Ta phải trả thù!”
Chàng phi ngựa một mạch như điên, hơn một giờ đã đi mấy chục dặm, chợt cảm thấy môi đau xót, đưa tay sờ môi, thì máu đỏ hai ngón tay, thì ra trong cơn giận dữ chàng đã cắn môi đến bật máu. Chàng nghĩ: “Quách bá mẫu đối với ta không tốt, vừa rồi đột nhiên tỏ ra tử tế, chỉ là hoàn toàn giả nhân giả nghĩa, đã đành một nhẽ; nhưng còn Quách bá bá, Quách bá bá…”
Đối với Quách Tĩnh, chàng luôn luôn một lòng sùng kính, cảm thấy Quách Tĩnh võ công, đức hạnh đều siêu phàm tuyệt tục, tưởng là vẫn hết mực chân tình đối với chàng, nào ngờ rốt cuộc chàng bị lừa; con người ấy xem chừng còn gian ngoan hơn cả Hoàng Dung. Nghĩ đến đây Dương Quá tức muốn vỡ ngực vậy.
Chàng xuống ngựa, ngồi giữa đường, ôm đầu mà khóc rống lên. Tiếng khóc bi thương quả là trời sầu đất thảm, cơ hồ mọi đau khổ phiền não trên thế gian dồn vào một mình chàng. Chàng không biết mặt phụ thân, cũng chưa nghe ai kể, ngay mẫu thân cũng không chịu nói; chàng từ bé cứ nghĩ rằng phụ thân là người thập toàn thập mỹ, tốt nhất trần đời. Một vị hào kiệt anh hùng như thế lại bị Quách Tĩnh, Hoàng Dung dùng gian kế sát hại.
Dương Quá khóc một hồi, bỗng nghe tiếng vó ngựa, từ mạn bắc có bốn võ sĩ Mông Cổ cưỡi ngựa chạy tới. Tên đi đầu tay cầm trường mâu, đầu mâu xâu vào một đứa bé hai, ba tuổi, tên ấy cứ cười hô hố. Đứa bé chưa chết, tiếng khóc đã yếu lắm. Bốn tên võ sĩ Mông Cổ thấy Dương Quá ngồi khóc giữa đường, cũng hơi lạ, nhưng loại thiếu niên người Hán lam lũ thế này chẳng thiếu gì, nên chúng cũng chẳng để tâm. Một tên quát:
- Tránh ra, tránh ra!
Và dùng ngọn giáo đâm tới. Dương Quá đang tức giận, chộp luôn ngọn giáo kéo tên kia xuống ngựa, tiện tay hất hắn văng ra xa hơn một trượng, ngã vỡ sọ chết liền. Ba tên còn lại thấy chàng thần dũng như thế, hô một tiếng, cùng quay ngựa chạy ngược về đường cũ. Nghe “bạch” một tiếng, đứa bé rơi xuống đường.
Dương Quá chạy tới ẵm đứa bé lên. Đó là một đứa bé người Hán, trắng mập đáng yêu, bị trường mâu đâm thủng bụng, nhất thời chưa chết ngay, nhưng cũng không thể cứu sống nó, miệng nó khóc như gọi mẹ. Dương Quá thương đứa bé quá, chảy cả nước mắt, chàng không nỡ nhìn nó đau đớn quá mức, bèn đánh nhẹ một chưởng cho nó chết hẳn, rồi dùng ngọn giáo của tên võ sĩ Mông Cổ đào một cái hố, định vùi đứa bé xuống.
Đào được một lát, bỗng nghe tiếng vó ngựa rầm rập, tiếng tù và inh ỏi, cả đại đội lính Mông Cổ phóng tới. Dương Quá tay trái cắp đứa bé chết, tay phải cầm giáo, nhảy lên lưng ngựa; con ngựa gầy này vốn là chiến mã quen với sa trường, nay thấy chiến trận thì tinh thần hăng hái hẳn lên, nó hí dài một tiếng, xông về phía quân Mông Cổ. Ngọn giáo trong tay Dương Quá trong giây lát đánh ngã ba, bốn tên. Nhưng thấy quân địch quá đông, chàng bèn quay đầu ngựa, chạy xuống ruộng hoang. Đằng sau tên bắn theo như mưa, chàng vung giáo gạt đi hết. Con ngựa chạy cực nhanh, phút chốc bỏ xa bọn truy binh rồi, mà nó vẫn cứ phi như bay.
Trời gần tối, Dương Quá cho ngựa đi thong thả, nhìn bốn phía toàn là cỏ dày, đá cứng, không gian hết sức vắng lặng, không một bóng người, chim chóc cũng không.
Chàng xuống ngựa, đứa bé chết chàng cắp bên nách trông như vẫn sống, chỉ có vẻ đau đớn còn hằn trên mặt nó, Dương Quá buồn rầu nghĩ: “Đứa bé này chắc được cha mẹ nó yêu quí vô cùng, giờ nó chết rồi, cha mẹ nó có lẽ đứt từng khúc ruột. Đại quân Mông Cổ tàn bạo tiến xuống phía nam, không biết bao nhiêu trẻ thơ bị chúng sát hại dọc đường”. Càng nghĩ càng buồn, chàng đào một cái hố cạnh một cây lớn, chôn đứa bé xuống đó, lại nhớ đến câu nói của Khúc cô, nghĩ: “Đứa bé này chết còn được ta chôn cất, phụ thân ta chết rồi còn bị quạ rỉa. Ôi các người giết cha ta xong, sao không vùi người xuống đất kia chứ? Lòng dạ các người thật độc ác quá chừng! Thù này không trả, Dương Quá ta thề chẳng làm người”.
Tối hôm ấy chàng ngủ dưới gốc cây, sáng hôm sau lên ngựa, mặc cho con ngựa gầy muốn đi đâu thì đi; có lúc chàng muốn đi về tòa cổ mộ gặp Tiểu Long Nữ, có lúc lại nghĩ dẫu thế nào cũng phải giết Quách Tĩnh, Hoàng Dung để báo thù cho cha, bụng đói thì ăn quả dại cho đỡ đói lòng.
Đi đến ngày thứ tư, bỗng thấy phía xa có một người cứ từ dưới đất nhảy lên cao, giơ tay hái quả cây dại. Dương Quá phi ngựa lại gần, nhận ra đấy là đệ tử của Kim Luân pháp vương Đạt Nhĩ Ba. Mỗi lần Đạt Nhĩ Ba nhảy lên, chỉ hái được một quả, sau y không nhẫn nại nữa, lúc nhảy lên dùng tay rung mạnh cành cây, làm cho trái cây rụng lộp bộp; y nhặt các trái cây rụng ấy, cho vào trong túi.
Dương Quá nghĩ: “Không lẽ Kim Luân pháp vương đang ở gần đâu đây?” Chàng với Kim Luân pháp vương vốn chẳng thù oán gì, bây giờ chàng coi Quách Tĩnh, Hoàng Dung là kẻ thù giết cha, thành ra chàng ân hận vừa rồi đi giúp Quách Tĩnh, Hoàng Dung đánh bại Kim Luân pháp vương. Thế là chàng bèn kín đáo bám theo sau Đạt Nhĩ Ba, xem sự việc thế nào. Chỉ thấy Đạt Nhĩ Ba đi như bay, thẳng vào trong một thung lũng. Dương Quá xuống ngựa đi bộ theo sau một quãng xa. Đạt Nhĩ Ba đi sâu vào rừng, càng lúc càng cao, cuối cùng lên một ngọn núi.
Trên đỉnh núi có một mái nhà tranh nhỏ, bốn phía thông gió. Kim Luân pháp vương đang nhắm mắt ngồi trên chõng. Đạt Nhĩ Ba đặt số trái cây xuống đất, cạnh chõng, quay người lại, bất ngờ thấy Dương Quá đi tới gần, thì tái mặt, nói:
- Đại sư huynh, sư huynh định tới gia hại sư phụ phải không?
Y xông thẳng tới, giơ tay túm vạt áo của Dương Quá. Võ công của y vốn cao hơn Dương Quá, nhưng lúc này sư phụ đang ở tình trạng cực kỳ nguy hiểm, nếu bị ngoại cảm, lập tức tính mạng khó toàn, trong lúc lo sợ, thần trí thất thường, xuất chiêu sai hết chương pháp, phạm vào điều đại kỵ trong võ học, để Dương Quá vặn trái tay một cái, đẩy y ngã sóng soài.
Đạt Nhĩ Ba trong lòng cho rằng Dương Quá là đại sư huynh đầu thai, vừa rồi đánh y ngã gục; bèn lăn mấy vòng, đứng dậy, tiến lại trước mặt Dương Quá. Dương Quá tưởng y lại định động thủ, mới lùi một bước, không ngờ Đạt Nhĩ Ba đột nhiên quì xuống, khấu đầu nói:
- Đại sư huynh, mong sư huynh hãy nghĩ đến ân tình của sư phụ ở kiếp trước. Sư phụ bị trọng thương, đang tự hành công trị liệu, nếu sư huynh kinh động sư phụ, thì… thì…
Nói đến đó, giọng y nghẹn ngào, nước mắt ứa ra. Dương Quá tuy không hiểu Tạng ngữ, nhưng nhìn thần tình của Đạt Nhĩ Ba, thấy Kim Luân pháp vương hình dung tiều tụy, thì chàng đoán được bảy, tám phần, vội đỡ Đạt Nhĩ Ba dậy, nói:
- Ta không gia hại tôn sư đâu, ngươi cứ yên tâm.
Đạt Nhĩ Ba thấy sắc diện chàng hiền hòa, thì mừng lắm, tuy không hiểu tiếng Hán, song đã không còn ý thù nghịch.
Lúc ấy Kim Luân pháp vương mở mắt ra, thấy Dương Quá, lão cả kinh, vừa rồi lão mải nhập định vận khí, hoàn toàn không nghe thấy lời đối đáp giữa Đạt Nhĩ Ba và Dương Quá; bây giờ bỗng thấy đại địch trước mặt, lão thở dài, thong thả nói:
- Ta uổng công tu luyện bao năm, không phá nổi danh quan, ai ngờ hôm nay bỏ mạng ở Trung Nguyên.
Nguyên lão bị hòn đá lớn rơi trúng, nội tạng bị trọng thương, mấy ngày vừa qua tới đây làm nhà tranh trị thương, không ngờ Dương Quá lần theo tung tích tìm thấy; hiện giờ lão không được phép dùng sức, chỉ có thể sai Đạt Nhĩ Ba đánh đuổi Dương Quá. Tình hình thế này, nội thương của lão khó lòng thuyên giảm. Nào ngờ Dương Quá cúi mình nói:
- Tại hạ tới đây, không định đối địch với đại sư, xin cứ yên tâm.
Kim Luân pháp vương lắc đầu, định nói, ngực bỗng đau nhói, vội nhắm mắt vận khí. Dương Quá bước vào trong nhà, giơ hữu chưởng đặt vào huyệt Chí Dương ở sau lưng lão ta. Huyệt này nằm ở phía dưới đốt sống thứ bảy, là đại huyệt của mạch Đốc trên cơ thể người. Đạt Nhĩ Ba thấy vậy cả kinh, vung quyền tấn công Dương Quá. Dương Quá xua xua tay trái, ra hiệu bằng mắt cho y. Đạt Nhĩ Ba thấy thần tình của sư phụ không có gì lạ, mặt còn có vẻ tươi cười, thì không đánh tới nữa.
Dương Quá tu vi chưa sâu, lại không biết gì về nội công của phái Tây Tạng, lòng bàn tay lờ mờ cảm thấy khí tức lưu động trong cơ thể Kim Luân pháp vương, chàng bèn ngầm vận nội lực truyền một luồng nhiệt khí giúp lão ta trên thì thông các huyệt Linh Đài, Thần Đạo, Thân Trụ; dưới thông các huyệt Cân Túc, Trung Khu, Tích Xung, Huyền Khu, cố gắng hết mức cũng chỉ có thể giúp lão ta bảo vệ mạch Đốc. Đạt Nhĩ Ba võ công tuy cao, nhưng chỉ luyện ngoại công, không thể giúp sư phụ trị liệu, những ngày vừa qua chỉ lo cuống quít. Bây giờ Kim Luân pháp vương đã không phải lo gì nữa, liền đẩy khí vào mạch Nhâm, toàn lực điều trị thương thế ở ngực và bụng dưới, sau hơn một canh giờ cơn đau giảm hẳn, mặt lộ sắc hồng nhuận, mở mắt nhìn Dương Quá gật đầu tạ ơn, chắp tay nói:
- Dương cư sĩ, tại sao cư sĩ tự dưng đến giúp lão nạp?
Dương Quá cũng chẳng giấu, đem việc chàng mới biết vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung giết hại phụ thân ra sao, nay chàng quyết ý báo thù, tình cờ gặp Đạt Nhĩ Ba thế nào, kể lại một lượt. Kim Luân pháp vương tuy biết gã thiếu niên này cực kỳ giảo hoạt, nói mười câu cũng chẳng thể tin một câu, nhưng hôm nay trong khi có thể giết lão dễ như trở bàn tay, Dương Quá lại giúp lão trị thương, quả thực không có ý thù nghịch, bèn nói:
- Thì ra cư sĩ mang nặng mối thâm cừu. Nhưng vợ chồng Quách Tĩnh võ công cao thâm, Dương cư sĩ muốn trả được mối thù này, chỉ e không dễ.
Dương Quá im lặng giây lát, rồi nói:
- Dù cha con tại hạ hai đời cùng phải chết bởi tay họ, cũng phải trả thù!
Kim Luân pháp vương nói:
- Lão nạp ban đầu tự phụ vô địch thiên hạ, định dùng sức một người đè bẹp quần hùng Trung Nguyên, giành chức vị minh chủ võ làm. Nhưng các võ sĩ Trung Nguyên không theo đúng qui củ đơn đả độc đấu, lại ùa cả vào mà ẩu đả, lão nạp đành tính kế khác vậy. Khi trị thương xong, lão nạp sẽ đi mời nhiều cao thủ giúp đỡ. Phe của lão nạp đông và mạnh, các võ sư Trung Nguyên sẽ không thể ỷ đông tranh thắng, mọi người quyết thắng bại một phen theo lẽ công bằng. Dương cư sĩ có muốn đứng về phe lão nạp hay không?
Dương Quá đã định trả lời có, nhưng chợt nghĩ thảm cảnh mà quân lính Mông Cổ gây ra, bèn nói:
- Tại hạ không thể giúp quân Mông Cổ.
Kim Luân pháp vương lắc đầu nói:
- Dương cư sĩ muốn đơn thương độc mã giết vợ chồng Quách Tĩnh, thì không xong được đâu.
Dương Quá trầm ngâm một hồi, nói:
- Được, tại hạ giúp đại sư giành chức vị minh chủ võ lâm, đại sư phải giúp tại hạ báo thù.
Kim Luân pháp vương giơ bàn tay ra, nói:
- Đại trượng phu nhất ngôn vi định, vỗ tay nhau ba cái để thề.
Hai người vỗ vào tay nhau ba cái đính ước. Dương Quá nói:
- Tại hạ chỉ giúp đại sư giành chức vị minh chủ, nếu đại sư giúp quân Mông Cổ tiến chiếm Giang Nam, sát hại bách tính, tại hạ sẽ không theo đâu.
Kim Luân pháp vương cười, nói:
- Mỗi người một chí hướng, không nên ép nhau. Dương huynh đệ, võ công của huynh đệ đa tạp, lão nạp nói thật câu này, biết nhiều môn cố nhiên rất hay, nhưng cũng không tránh khỏi tạp loạn. Rốt cuộc thì huynh đệ có sở trường về môn nào? Phải sử dụng công phu gì đối phó với vợ chồng Quách Tĩnh đây?
Dương Quá nghe hỏi thế thì cứng lưỡi, khó trả lời. Đời chàng lắm cái ngẫu nhiên, tính chàng lại tham, nào phái Toàn Chân, nào Âu Dương Phong, nào phái Cổ Mộ, nào “Cửu Âm chân kinh”, nào Hồng Thất Công, nào Hoàng Dược Sư, môn võ công nào của họ chàng cũng học qua. Mỗi môn võ công ấy đều vô cùng huyền diệu, dùng tinh lực tài trí cả đời nghiên cứu cũng khó đi tới chỗ tận cùng, nữa là tham học mỗi thứ một chút, làm sao có thể luyện tới cảnh giới cao siêu. Gặp đối thủ bình thường, đem ra thi triển cố nhiên làm cho người ta kính nể, nhưng chạm trán với cao thủ đích thực, sẽ bị người ta phát hiện ngay chỗ yếu, ngay đệ tử của Kim Luân pháp vương như Hoắc Đô, Đạt Nhĩ Ba, chàng cũng chưa địch nổi. Chàng cúi đầu suy nghĩ, cảm thấy câu hỏi của Kim Luân pháp vương như gậy đánh vào đầu chàng, nói trúng chỗ non kém cơ bản trong võ học của chàng.
Chàng lại nghĩ: “Mình đã quyết ý chung tình với cô cô suốt đời, tại sao đi đâu cũng vương vấn lưu tình? Nào Trình cô nương, nào Lục Vô Song, nào Hoàn Nhan Bình. Mình đã không có chân tình với họ, sao cứ đi đùa cợt? Thật là tham luyến quá chừng”. Lại nghĩ: “Bất luận Hồng Thất Công, Hoàng Dược Sư, Âu Dương Phong hay Toàn Chân thất tử, Kim Luân pháp vương, phàm trở thành danh gia, đều là nhờ tinh tu công phu bản môn, chỉ biết gia số của võ công phái khác, chứ không tu luyện, vậy mình cần chuyên tu một môn công phu thôi chăng? Xét về tình về lý, phải chuyên tâm tu luyện “Ngọc nữ tâm kinh” của phái Cổ Mộ mới đúng, nhưng lại nghĩ môn Đả cẩu bổng pháp của Hồng Thất Công huyền diệu như thế, Ngọc Tiêu kiếm pháp của Hoàng Dược Sư tinh vi như thế, mà bỏ qua thì chẳng đáng tiếc lắm sao? Rồi Cáp mô công nghịch hành kinh mạch của nghĩa phụ, “Cửu Âm chân kinh” và các môn công phu khác, chỉ cần giỏi một môn trong số đó cũng đủ dương danh thiên hạ, đâu dễ có dịp được học, sao nỡ bỏ qua?”
Chàng bước ra khỏi nhà tranh, đi tha thẩn trên đỉnh núi, nặng lòng suy tư, hết sức phiền muộn, nghĩ chán chê, chợt tự hỏi: “Tại sao ta không dám lấy sở trường của các môn phái, tự thành một nhà? Võ công thiên hạ đều do từng người sáng tạo ra, chẳng lẽ ta không sáng tạo nổi?” Nghĩ đến đây, lập tức thấy sáng bừng lên.
Chàng suy nghĩ từ sáng đến trưa, từ trưa đến đêm, ở trên đỉnh núi không ăn không uống, các môn võ công tinh diệu từng biết cứ lần lượt diễn ra trong óc chàng. Chàng từng thấy Hồng Thất Công và Âu Dương Phong đấu võ miệng với nhau; chàng cũng từng miệng nói tay vẽ mà có thể làm cho Lý Mạc Sầu phải kinh sợ bỏ đi; bây giờ các môn võ công tranh hùng với nhau trong óc, xem ra còn nhanh mạnh hơn cả khẩu thuật. Mải nghĩ, bất giác hoa chân múa tay thi triển võ công. Ban đầu còn có thể phân biệt chiêu này là học của Hồng Thất Công, chiêu kia là học của Âu Dương Phong, sau thì rối loạn cả lên, không không trụ nổi nữa, ngã ngửa xuống đất ngất đi. Đạt Nhĩ Ba từ xa thấy Dương Quá hoa chân múa tay, không hiểu thế nào, bỗng thấy chàng ngã vật ra, thì kinh hãi định chạy lại cứu, Kim Luân pháp vương cười nói:
- Đừng làm rối tâm tư của hắn, chỉ tiếc là ngươi tài trí tầm thường, không hiểu đạo lý bên trong.
Dương Quá tỉnh lại lúc nửa đêm, sáng hôm sau thức dậy lại nghĩ. Trong bảy ngày, chàng ngất đi năm lần. Nói tổng hợp các môn, tự sáng tạo một nhà, nghe cứ tưởng là dễ. Với kiến văn, tu vi hiện thời của mình, chàng chưa thể làm nổi việc đó, càng không phải là chuyện mươi bữa nửa tháng. Nhưng sau cả tuần tập trung suy nghĩ, chàng cũng ngộ ra một điều, ấy là tất cả các môn võ công kia, chàng đều biết cách sử dụng, đã không thể hợp làm một, thì cũng đừng cưỡng cầu; sau này khi lâm địch, cần dùng thì dùng, khỏi cần nghĩ đến lai lịch xuất xứ, như thế coi như gần ngang với việc tự mình sáng tạo một nhà. Nghĩ được như vậy, trong lòng cảm thấy dễ chịu hẳn.
Kim Luân pháp vương qua mấy ngày trị thương, đã khỏi tám, chín phần, đã có thể hoạt động như thường; hôm nay thấy Dương Quá đột nhiên thần tình bình hòa, vẻ như đã tính toán đâu ra đó, biết chàng đã tiến thêm một bước về võ học, bèn nói:
- Dương huynh đệ, lão nạp đưa huynh đệ đi gặp một người, người này hùng tài vĩ lược, khoáng đạt đại độ, bảo đảm huynh đệ gặp rồi sẽ thán phục.
Dương Quá hỏi:
- Là ai vậy?
Kim Luân pháp vương nói:
- Vương tử Mông Cổ Hốt Tất Liệt, cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, con trai thứ tư của Đà Lôi.
Dương Quá từng thấy sự bạo ngược của quân sĩ Mông Cổ, chàng rất căm ghét người Mông Cổ, nên cau mày nói:
- Tại hạ chỉ nóng lòng trả thù, không cần gặp vương tử Mông Cổ làm gì.
Kim Luân pháp vương cười, nói:
- Lão nạp đã bằng lòng giúp huynh đệ, làm sao có thể thất tín? Nhưng lão nạp tới Trung Nguyên là theo lời mời của vương tử Hốt Tất Liệt, dẫu gì cũng phải bẩm cáo với vương tử một tiếng. Vương trướng của Hốt Tất Liệt cách đây không xa, đi một ngày là đến.
Dương Quá tự nghĩ mình hoàn toàn không phải là đối thủ của vợ chồng Quách Tĩnh, Hoàng Dung, bất kể đấu trí đấu lực, đều không thể sánh, nếu không có sự trợ giúp của Kim Luân pháp vương, mối thù khó mà trả được, đành phải theo lão ta đi.
Kim Luân pháp vương được phong là đệ nhất hộ quốc đại sư của Mông Cổ, binh tướng Mông Cổ đối với lão cực kỳ tôn sùng, vừa thấy lão tới, liền phi báo vương gia. Người Mông Cổ đời đời ở trong lều bạt, tuy đến thành phố, họ cũng không quen cung thất, nên Hốt Tất Liệt ở trong một cái lều lớn.
Kim Luân pháp vương cầm tay Dương Quá bước vào vương trướng. Dương Quá thấy cái lều này to gấp mấy lều thông thường của người Mông Cổ, bên trong trần thiết hết sức đơn giản. Một thanh niên trạc hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi đang ngồi đọc sách. Thấy khách vào, người ấy vội đứng dậy đón, tươi cười, nói:
- Lâu ngày không gặp quốc sư, ta vẫn thường nhớ.
Kim Luân pháp vương nói:
- Vương gia, lão nạp xin dẫn kiến vương gia một vị anh hùng thiếu niên. Vị Dương huynh đệ đây tuy ít tuổi nhưng là một vị nhân kiệt.
Dương Quá chỉ biết Hốt Tất Liệt là cháu nội của Thành Cát Tư Hãn, diện mạo nếu không tôn vinh quí thịnh, thì cũng cương mãnh uy vũ, không ngờ lại là một người khiêm hòa dễ gần, biết nói tiếng Hán, thì chàng lấy làm lạ.
Hốt Tất Liệt nhìn Dương Quá một cái, tay trái kéo Kim Luân pháp vương, nói với tả hữu:
- Mau mang rượu ra để ta uống với vị huynh đệ này.
Tả hữu bưng ra ba bát rượu to, rót đầy rượu sữa ngựa Mông Cổ. Hốt Tất Liệt bưng một bát uống cạn, Kim Luân pháp vương cũng uống cạn. Dương Quá thường ngày ít uống rượu, nhưng thấy chủ nhân tự nhiên như vậy, mình là khách không tiện làm khác, bèn nhận một bát cũng uống cạn, chỉ thấy rượu rất cay, vị chua.
Hốt Tất Liệt cười, hỏi:
- Tiểu huynh đệ, rượu này có ngon không?
Dương Quá đáp:
- Rượu này cay và chua, uống vào miệng như đao, vị tuy không ngon, nhưng thể hiện bản sắc nam tử hán đại trượng phu.
Hốt Tất Liệt cả mừng, gọi tiếp rượu, ba người ai cũng uống cạn ba bát. Dương Quá nhờ nội lực tinh thâm, nên uống nhiều mà vẫn giữ được vẻ thản nhiên. Hốt Tất Liệt mừng nói:
- Quốc sư tìm đâu được một nhân tài thế này. Thật may cho Đại Mông Cổ ta.
Kim Luân pháp vương thuật qua thân phận của Dương Quá, cố đề cao chàng như một đại nhân vật của võ lâm Trung Nguyên. Dương Quá nghe lão ca ngợi mình như thế, cũng không khỏi cảm thấy lâng lâng.
Hốt Tất Liệt nhận sứ mạng thôn tính giang sơn Đại Tống, ở Trung Nguyên đã lâu, lòng bị Hán hóa, thường ngày tiếp xúc với nho sinh, học kinh sách, mời các bậc cao nhân võ học, kết giao tân khách, hoạch địch việc tấn công xuống nhà Tống ở phía nam. Nếu là người khác, thấy Dương Quá ít tuổi như vậy, hẳn là không tin, nhưng Hốt Tất Liệt tài trí siêu quần, khí độ rộng lớn, lại rất tin tưởng Kim Luân pháp vương, nên vui mừng hạ lệnh mở tiệc khoản đãi.
Không lâu thì tiệc được bày ra, với nhiều rượu thịt, các món ăn một nửa của người Mông Cổ, một nửa của người Hán. Hốt Tất Liệt sai tả hữu:
- Mời mấy vị anh hùng ở Chiêu Hiền quán tới đây.
Tả hữu vâng lệnh bước ra. Hốt Tất Liệt nói:
- Mấy hôm rồi ở Chiêu Hiền quán có thêm vài vị tân khách, vị nào cũng có dị năng, thật là cái phúc của quốc gia, song cũng chưa bằng quốc sư và Dương quân văn võ toàn tài.
Đang trò chuyện thì tả hữu bẩm khách mời đã tới, cửa lều vén ra, bốn người bước vào. Đi đầu là một người cao gầy, mặt không hạt máu, thân hình khô đét như một cái xác, Hốt Tất Liệt dẫn kiến với Kim Luân pháp vương và Dương Quá, đấy là người Quảng Tây, tên Tiêu Tương Tử. Người thứ hai cực lùn và đen, đến từ Thiên Trúc, tên Ni Ma Tinh. Tiếp đến một người thân cao tám thước, chân tay to và thô, mặt mang nụ cười ngớ ngẩn, cặp mắt lờ đờ. Người cuối cùng mũi cao mắt sâu, tóc xoăn râu vàng, là người Hồ, trang phục theo lối người Hán, cổ đeo hạt ngọc, cổ tay đeo vòng ngọc long lanh.
Hốt Tất Liệt lần lượt dẫn kiến, người thứ ba cao lớn là người Hồi Cương, tên Mã Quang Tá. Gã người Hồ vốn người Ba Tư, tổ tông ba đời buôn bán ngọc quí ở đất Biện Lương, Tràng An, Thái Nguyên, lấy một cái tên người Trung Quốc là Doãn Khắc Tây.
Tiêu Tương Tử và Ni Ma Tinh nghe nói Kim Luân pháp vương là đệ nhất hộ quốc đại sư của Mông Cổ, thì lạnh lùng nhìn lão từ đầu xuống chân, vẻ mặt không phục; thấy Dương Quá nhỏ tuổi, đoán là đồ tử đồ tôn gì đó của Kim Luân pháp vương, càng không coi chàng ra gì. Rượu qua ba tuần, Ni Ma Tinh không nhịn được, nói:
- Vương gia, Đại Mông Cổ đất đai rộng lớn, vị đại hòa thượng này là đệ nhất hộ quốc đại sư, võ công hẳn phải rất rất cao cường, chúng tại hạ mong được chiêm ngưỡng.
Hốt Tất Liệt mỉm cười không nói gì, Tiêu Tương Tử tiếp lời:
- Vị Ni Ma Tinh nhân huynh đây đến từ Thiên Trúc, võ công Tây Tạng truyền từ Thiên Trúc, chẳng lẽ thiên hạ quả nhiên có chuyện trò giỏi hơn thầy hay sao?
Kim Luân pháp vương thấy Ni Ma Tinh hai mắt long lanh như tia chớp, mặt Tiêu Tương Tử thì ẩn hiện khí xanh, biết hai người này nội công đều thâm hậu. Doãn Khắc Tây thì cười hi hi ha ha, cố tỏ vẻ là một gã lái buôn tầm thường, hắn càng tỏ vẻ bất tài, e rằng càng đáng ngại, không thể xem thường; còn gã Mã Quang Tá cao lớn thì chẳng đáng lo, bèn mỉm cười nói:
- Lão nạp được phong quốc sư, là nhờ ân điển của đại hãn và Tứ vương tử điện hạ, bản thân lão nạp hổ thẹn không dám nhận.
Tiêu Tương Tử nói:
- Thế thì đại sư nên tị vị nhượng hiền cho rồi.
Nói đoạn liếc về phía Ni Ma Tinh, nhếch khóe miệng cười khẩy.
Kim Luân pháp vương dùng đũa gắp giữ một miếng thịt bò to, cười, nói:
- Đây là miếng thịt to nhất trong bát, lão nạp vốn không định ăn nó, nhưng tình cờ gắp đũa trúng phải, cái đó nhà Phật gọi là duyên pháp. Vị cư sĩ nào có hứng, xin mời cứ gắp đi cho.
Rồi lão tiếp tục dùng đũa giữ miếng thịt trong bát, chờ người khác gắp đi.
Mã Quang Tá không hiểu Kim Luân pháp vương nói miếng thịt bò to nhất là ngụ ý chức vị đệ nhất hộ quốc đại sư Mông Cổ, thấy lão giữ miếng thịt bảo là để nhường khách, bèn giơ đũa gắp. Đũa của y vừa chạm vào miếng thịt, thì một chiếc đũa của Kim Luân pháp vương đột nhiên gạt ngang sang chiếc đũa của y, Mã Quang Tá cảm thấy cánh tay tê dại, không cầm nổi nữa, buông rơi cả đôi đũa xuống bàn. Chiếc đũa của Kim Luân pháp vương lại lập tức đưa về giữ miếng thịt. Mọi người kinh ngạc nhìn nhau. Mã Quang Tá còn chưa hiểu, cầm đôi đũa lên, năm ngón tay giữ đũa thật chặt, nghĩ: “Lần này lão đừng hòng gạt được nữa”. Y lại gắp lấy miếng thịt. Một chiếc đũa của Kim Luân pháp vương lại gạt ngang sang, lần này Mã Quang Tá cầm chặt đũa, chỉ nghe “cách” một tiếng, đôi đũa của Mã Quang Tá gãy rời thành bốn, hai đoạn gãy rơi xuống bàn như bị dao chặt.
Mã Quang Tá cả giận, quát to một tiếng, nhoài sang định đánh Kim Luân pháp vương. Hốt Tất Liệt cười nói:
- Mã tráng sĩ đừng nóng vội, nếu muốn tỷ võ, đợi ăn xong cũng chưa muộn.
Mã Quang Tá sợ vương gia, đành hậm hực ngồi xuống, chỉ Kim Luân pháp vương, hỏi:
- Lão dùng yêu pháp gì làm gãy đôi đũa của người ta như vậy?
Kim Luân pháp vương cười, gắp miếng thịt, giơ lên trước mặt.
Ni Ma Tinh ban đầu không coi Kim Luân pháp vương ra gì, vừa thấy lão triển hiện nội lực thâm hậu, thì không dám xem thường nữa. Hắn là người nước Thiên Trúc, ăn cơm không dùng đũa. Hắn nói:
- Miếng thịt này, đại Hán tử gắp không được, bổn nhân muốn ăn.
Đột nhiên năm ngón tay hắn như năm cái móc sắt chộp lấy miếng thịt. Kim Luân pháp vương bật ngang chiếc đũa bên phải, nhanh như chớp điểm năm huyệt đạo ở lòng bàn tay, cổ tay, mu bàn tay, hổ khẩu và ngón giữa của hắn. Ni Ma Tinh vội lật bàn tay, chém vào cổ tay Kim Luân pháp vương. Kim Luân pháp vương cánh tay không động, bật chiếc đũa lên, lại bật bật mấy cái, Ni Ma Tinh cảm thấy đầu đũa chọc tới hổ khẩu của mình, phải vội co tay về. Chiếc đũa của Kim Luân pháp vương lại đưa về giữ miếng thịt, không để nó rơi xuống. Lão bật đũa điểm huyệt mấy lần nhanh như thế nào, Dương Quá và mọi người đều nhìn thấy rõ, trong giây lát hai người kia đã trao đổi mấy chiêu, Kim Luân pháp vương bật đũa cực nhanh, Ni Ma Tinh kịp thu tay về tránh đòn, võ công cũng thật cao siêu. Tiêu Tương Tử phải thốt lên:
- Hảo bản sự!
Hốt Tất Liệt biết hai người đã sử dụng công phu thượng thừa, nhưng đó là môn gì thì chưa rõ. Mã Quang Tá cũng trơ mắt ra nhìn hết người này người kia, chưa hiểu thế nào.
Doãn Khắc Tây cười hi hi, nói:
- Các vị khách sáo quá! Có miếng thịt mà cứ người này nhường người kia mãi, chả ai chịu ăn, để nguội mất rồi.
Nói đoạn thong thả giơ đôi đũa ra gắp miếng thịt. Hai chiếc vòng ở cổ tay gã, một bằng ngọc phỉ thúy, một bằng vàng, va vào nhau kinh coong. Đôi đũa của Doãn Khắc Tây chưa chạm đến miếng thịt, đôi đũa của Kim Luân pháp vương đã hơi rung rung, thì ra gã đã sử dụng nội kình để bức không cho Kim Luân pháp vương gạt đũa của gã. Kim Luân pháp vương bèn nhả đũa cho gã gắp miếng thịt, khi kình lực truyền sang đôi đũa của gã, liền dồn lực sang đánh cánh tay Doãn Khắc Tây. Doãn Khắc Tây vội vận kình phản kích. Nào ngờ nội kình của Kim Luân pháp vương vừa phát ra đã lập tức thu về, miếng thịt từng nhường cho Doãn Khắc Tây, giờ lại được hoàn trả về đôi đũa của lão. Kim Luân pháp vương cười, nói:
- Doãn huynh lại cũng nhường nốt, cũng là quá khách sáo đấy!
Doãn Khắc Tây trúng kế, đồng thời cũng đã thử, thầm biết nội lực của đối phương hơn hẳn mình, nhưng không lộ ra, chỉ mỉm cười, chuyển đũa gắp miếng thịt nhỏ hơn trong bát, cười, nói:
- Huynh đệ bình sinh chỉ mê các thứ châu ngọc, miếng thịt to không ưa lắm, tạm ăn miếng thịt nhỏ này thôi.
Nói xong đưa miếng thịt vào mồm, thong thả nhai.
Kim Luân pháp vương nghĩ: “Khí độ giả dối của dân Hồ nước Ba Tư cũng bất phàm”, quay sang Tiêu Tương Tử, nói:
- Lão huynh đã khiêm nhường, thì lão nạp đành dùng vậy.
Nói rồi đôi đũa hơi kéo về phía mình, cách chừng nửa thước. Lão đoán nội lực của Tiêu Tương Tử không yếu chẳng dám sơ ý, sử dụng nội kình đưa miếng thịt gần về phía mình nửa thước, cách Tiêu Tương Tử cũng nửa thước. Tiêu Tương Tử cười khẩy, giơ đũa ra kẹp ngay lấy miếng thịt, kéo về phía mình.
Kim Luân pháp vương không ngờ thủ pháp của Tiêu Tương Tử mau lẹ như vậy, vội vận kình đoạt lại, miếng thịt chậm rãi xê dịch từng tấc một. Tiêu Tương Tử đứng dậy, tay trái tì xuống bàn khiến chiếc bàn kêu răng rắc, song vẫn không ngăn được cái thế miếng thịt vẫn di chuyển về phía Kim Luân pháp vương.
Nhìn sắc mặt nhàn nhã của Kim Luân pháp vương, trong khi Tiêu Tương Tử đã vã mồ hôi trán, đủ phân biệt mạnh yếu.
Bỗng nghe xa xa có tiếng gọi to:
- Quách Tĩnh, Quách huynh đệ, huynh đệ ở đâu? Mau ra đây, Quách Tĩnh, tên tiểu tử họ Quách!
Tiếng ban đầu phát ra từ mé đông, rồi bỗng nhiên lại phát ra từ phía tây. Hai phía đông tây phải cách xa mấy dặm, tưởng như một người gọi, một người nhắc lại, song tiếng gọi ấy chỉ là của một người, cứ liên tiếp vang vọng không ngừng ở khoảng cách như thế, đủ biết thân pháp mau lẹ và nội lực thâm hậu hiếm có trên thế gian.
Mọi người kinh ngạc nhìn nhau. Tiêu Tương Tử buông đũa, ngồi xuống. Kim Luân pháp vương cười ha ha, nói:
- Thừa nhượng, thừa nhượng!
Đang định đưa miếng thịt lên miệng, đột nhiên cửa lều vén ra, một bóng người vút vào, cướp miếng thịt khỏi đũa của Kim Luân pháp vương mà cho vào mồm nhai tóp tép thật to.
Mọi người đứng bật cả dậy kinh hãi; nhìn kỹ người kia, thì thấy đó là một lão nhân râu tóc bạc phơ, mặt mũi hồng hào, tươi cười dễ thân. Lão nhân ngồi trên một tấm chăn, tay trái vuốt chòm râu bạc, tay phải đưa miếng thịt bò vào miệng, nhai tóp tép thành tiếng. Kim Luân pháp vương nhớ lại lúc vị lão nhân kia đoạt lấy miếng thịt từ đôi đũa của lão, càng nghĩ càng kinh hãi.
Mấy võ sĩ canh cửa không chặn được vị lão nhân tóc bạc, quát to:
- Bắt lấy thích khách!
Bốn mũi giáo dài cùng đâm tới ngực vị lão nhân. Vị lão nhân kia giơ tay trái chộp giữ luôn cả bốn mũi giáo, nhìn Dương Quá, nói:
- Tiểu huynh đệ, lấy cho ta mấy miếng thịt nữa, ta đói bụng quá chừng.
Bốn võ sĩ Mông Cổ dùng sức đẩy tới không được, cố giằng giáo lại, nhưng cả bốn gắng sức đến đỏ cả mặt, các mũi giáo cũng không hề động đậy, y như thể chúng được đúc liền vào một quả núi sắt không bằng.
Dương Quá nhìn cảnh ấy thích chí, cầm cả bát thịt trên bàn quăng ngang về phía vị lão nhân, nói:
- Xin mời!
Vị lão nhân đưa tay phải đón lấy bát thịt, cầm ngang trước ngực, đột nhiên một miếng thịt từ trong bát tự bay lên miệng vị lão nhân như thể một vật sống động vậy. Hốt Tất Liệt thấy rất thú vị, nghĩ rằng vị lão nhân biết sử dụng ma thuật. Bọn Kim Luân pháp vương thì biết rằng vị lão nhân đã vận lực cục bộ ở lòng bàn tay để đẩy miếng thịt từ trong b?