Hồi 27 Đấu Trí Đấu Lực
Quách Tĩnh bước vào phòng, ngồi xuống chiếc ghế tựa trước giường, im lặng hồi lâu. Quách Phù cũng im lặng. Rồi Quách Tĩnh hỏi:
- Thời gian vừa qua ngươi ở đâu?
Quách Phù nói:
- Sau khi hài nhi… đả thương Dương đại ca, sợ cha trách phạt, cho nên… cho nên…
Quách Tĩnh nói:
- Cho nên trốn đi chứ gì?
Quách Phù cắn môi, gật đầu. Quách Tĩnh nói:
- Ngươi chờ ta nguôi giận mới về phải không?
Quách Phù lại gật đầu, đột nhiên gục đến vào ngực cha, nói:
- Cha, cha còn giận con hay sao?
Quách Tĩnh xoa đầu con, nói nhỏ:
- Ta không giận. Ta không hề giận, chỉ đau lòng cho ngươi thôi.
Quách Phù thốt lên một tiếng “Cha!” rồi khóc nức nở.
Quách Tĩnh nhìn lên trần nhà, chờ Quách Phù bớt khóc, nói:
- Tổ phụ của Dương Quá là Thiết Tâm công, với tổ phụ Khiếu Thiên công của ngươi là cốt nhục khác họ. Phụ thân của Dương Quá và ta cũng là huynh đệ kết nghĩa, việc đó ngươi biết rồi.
Quách Phù vâng dạ. Quách Tĩnh nói tiếp:
- Dương Quá tuy hành sự tùy hứng, hơi cẩu thả, nhưng có lòng hiệp nghĩa, mấy lần cứu sống cha mẹ ngươi, có lần cứu sống cả ngươi nữa. Nó còn ít tuổi, nhưng một lòng vì nước vì dân, đã lập chiến công không nhỏ, điều đó ngươi cũng biết rồi.
Quách Phù nghe giọng của cha nghiêm nghị dần, càng không dám lên tiếng.
Quách Tĩnh đứng dậy, nói:
- Còn có một việc, ngươi hoàn toàn chưa biết, hôm nay ta sẽ cho ngươi biết. Phụ thân của Quá nhi là Dương Khang, năm xưa hành xử bất cẩn, ta là nghĩa huynh của y, không thể khuyên y sửa lỗi qui thiện, cuối cùng y bị chết thảm tại miếu Thiết Thương phủ Gia Hưng, tuy không phải do mẹ ngươi hạ thủ, nhưng cũng là do mẹ ngươi mà y chết, Quách gia ta có nợ với Dương gia…
Dương Quá nghe câu “bị chết thảm tại miếu Thiết Thương phủ Gia Hưng”, lần đầu tiên biết nơi chết của phụ thân, thì nỗi thù hận dưới đáy lòng bỗng trào lên, chỉ nghe Quách Tĩnh nói tiếp:
- Ta vốn định gả ngươi cho Quá nhi, để bù cho nỗi ân hận cả đời ta, ai ngờ… ai ngờ… ôi!
Quách Phù ngẩng đầu, nói:
- Cha, hắn cướp muội tử của con, lại nói bao lời hồ ngôn loạn ngữ phỉ báng con. Cha, Dương gia hắn và Quách gia chúng ta tuy có dây mơ rễ má, nhưng không lẽ vì thế hắn cứ khi vũ mà con không được phản kháng hay sao?
Quách Tĩnh gằn giọng:
- Rõ ràng ngươi chém lìa cánh tay của nó, lại bảo nó khi vũ ngươi! Nếu nó khi vũ ngươi thật sự, thì ngươi có mười cánh tay cũng bị nó chém hết rồi. Thanh kiếm nào thế kia?
Quách Phù không dám nói, lấy thanh Thục nữ kiếm dưới gối lên. Quách Tĩnh cầm kiếm, rung rung nhẹ, lưỡi kiếm phát ra tiếng “oăng oăng”. Quách Tĩnh thản nhiên nói:
- Phù nhi, người ta sống giữa trời đất, hành sự phải sao cho không hổ thẹn với lương tâm. Thường ngày ta tuy nghiêm khắc với ngươi, nhưng lòng yêu thương của ta dành cho ngươi không khác gì mẹ ngươi.
Câu sau cùng, giọng nói của Quách Tĩnh nghe rất dịu dàng. Quách Phù nói nhỏ:
- Hài nhi biết ạ!
Quách Tĩnh nói:
- Tốt, ngươi hãy giơ cánh tay phải ra. Ngươi đã chém đứt cánh tay của người ta, ta cũng sẽ chém đứt cánh tay của ngươi. Cha ngươi một đời chính trực, quyết không dám thiên vị, bênh vực đứa con sai trái.
Quách Phù biết lần này phụ thân tất trừng phạt nặng, nhưng không ngờ người cha lại định chém đứt cánh tay của nàng, thì tái mặt, gọi to:
- Cha ơi!
Quách Tĩnh nghiêm mặt, nhìn con chằm chằm. Dương Quá không ngờ Quách Tĩnh lại trọng nghĩa đến như vậy, chàng thấy trống ngực đập loạn lên, nghĩ: “Mình có nên nhảy vào can ngăn? Bảo Quách bá bá tha cho Quách cô nương hay chăng?” Đang do dự, thì Quách Tĩnh giơ kiếm chém xuống.
Đột nhiên vù một cái, có người từ ngoài song nhảy vào thân pháp cực kỳ mau lẹ, người chưa tới, cây bổng đã tới trước, chặn đứng thanh kiếm của Quách Tĩnh lại, người ấy chính là Hoàng Dung.
Hoàng Dung không nói một lời, cây bổng đâm liền ba cái, đều là tuyệt chiêu trong Đả cẩu bổng pháp. Một là bổng pháp của Hoàng Dung tinh diệu, hai là Quách Tĩnh bị bất ngờ, thành thử phải lùi hai bước. Hoàng Dung nói:
- Phù nhi, còn không chạy mau đi!
Quách Phù tâm tư không linh mẫn như mẹ, gặp đại sự cứ đứng ngây ra bất động. Hoàng Dung tay trái ẵm đứa bé sơ sinh, tay phải đưa cây bổng về ngoắc vào ngang lưng Quách Phù, hất ra qua cửa sổ, nói:
- Phù nhi, mau trở về đảo Đào Hoa, mời Kha công công đến cầu tình với cha ngươi!
Đoạn dùng cây bổng thi triển tự quyết chữ “Triền” và chữ “Phong” trong Đả cẩu bổng pháp để chặn lối Quách Tĩnh, nói tiếp:
- Phù nhi, chạy mau đi, con tiểu hồng mã ở ngoài cổng phủ ấy!
Nguyên Hoàng Dung biết chồng là người chính trực, có phần cổ hủ, lại rất trọng nghĩa khí, vừa rồi Quách Phù gây ra đại họa, phải trốn đi nhiều ngày mới dám trở về, Quách Tĩnh chưa nguôi giận, nhất định sẽ trừng phạt nặng, bèn dặn người dắt con tiểu hồng mã chờ sẵn ở ngoài cổng phủ, yên cương hành lý có sẵn, thêm vài lạng bạc. Nếu khuyên giải được, Quách Tĩnh chỉ đánh con một trận thì thôi, bằng không thì Quách Phù phải cao chạy xa bay một thời gian dài, mới có thể đoàn tụ.
Hai vợ chồng tranh cãi hồi lâu trong phòng, thấy chồng sắc mặt hầm hầm đi về phía phòng nữ nhi, biết là lành ít dữ nhiều, Hoàng Dung liền bám theo, đã kịp cứu con khỏi bị mất một cánh tay. Võ công của Hoàng Dung không đủ để ngăn chặn Quách Tĩnh, nhưng Quách Tĩnh lâu nay luôn kính nể vợ ba phần, lại thấy vợ đang ẵm đứa con sơ sinh, nên không tiện xuất thủ đoạt lộ, vì thế Quách Phù chạy thoát khỏi hoa viên mà ra cổng phủ.
Dương Quá ngồi trên cây, nhìn rõ tất cả, lúc Quách Phù được Hoàng Dung hất ra ngoài cửa sổ, nếu chàng xuất thủ, thì nàng ta chạy đâu cho thoát? Nhưng nghĩ cả gia đình nàng ta cãi nhau nặng nề đều là vì chàng, lúc này thừa lúc họ nguy cấp mà ra tay thì không đành lòng.
Chỉ thấy Hoàng Dung tấn công liền mấy chiêu, buộc Quách Tĩnh lùi hai bước, đến sát mép giường, không còn chỗ lùi, Hoàng Dung đột nhiên nói:
- Bế nó này!
Đoạn tung đứa bé về phía chồng. Quách Tĩnh sững người, vội đưa tay trái đón con. Hoàng Dung bước tới trước mặt Quách Tĩnh, dịu giọng hỏi:
- Tĩnh ca ca, có chịu tha tội cho Phù nhi hay không?
Quách Tĩnh nói:
- Dung nhi, đâu phải ta không thâm ái Phù nhi? Nhưng nó đã làm một việc như thế, nếu không phạt nặng, làm sao an tâm được? Chúng ta biết nói thế nào với Quá nhi? Ôi, Dương Quá bị mất cánh tay, chẳng có ai chiếu liệu, không biết bây giờ nó sống chết ra sao? Ta… ta thật ân hận không thể chặt đứt cánh tay của chính mình…
Dương Quá nghe lời nói chân tình của Quách Tĩnh, thì bất giác bồi hồi, nước mắt rưng rưng.
Hoàng Dung nói:
- Đã tìm nhiều ngày tứ phía, đều không thấy tung tích nó đâu, nếu có gì bất trắc, tất đã phát hiện được rồi. Quá nhi võ công chẳng thua gì hai ta, tuy bị trọng thương, cũng không sao đâu.
Quách Tĩnh nói:
- Những mong như thế. Ta phải đi bảo Phù nhi trở lại, việc này chưa thể xong được.
Hoàng Dung cười, nói:
- Phù nhi đã cưỡi con tiểu hồng mã ra khỏi thành, ca ca đuổi theo sao kịp?
Quách Tĩnh nói:
- Bây giờ chưa đến canh ba, không có lệnh bài của ta và Lã đại nhân, đang đêm ai dám mở cổng thành?
Hoàng Dung thở dài, nói:
- Thôi thì tùy ý ca ca!
Rồi chìa tay bế Quách Phá Lỗ. Quách Tĩnh trao con cho vợ, vẻ mặt ái ngại, nói:
- Dung nhi, là ta không phải với nàng. Nhưng Phù nhi sau khi bị phạt, tuy mất một cánh tay, nếu nó biết hối cải, thì cũng chưa phải là dở đâu…
Hoàng Dung gật đầu:
- Ca ca nói chí phải!
Tay vừa chạm đến cái bọc, đột nhiên sử tuyệt kỹ gia truyền “Lan hoa phất huyệt thủ”, điểm liền các huyệt “Uyên Dịch”, “Kinh Môn” ở hai cánh tay Quách Tĩnh. Võ công như Quách Tĩnh, nếu Hoàng Dung không giả trá, làm sao điểm huyệt được? Khi trao đứa bé cho chồng, Hoàng Dung đã tính trước chiêu này. Quách Tĩnh lập tức tê dại toàn thân, ngã nằm xuống giường, không cựa quậy được.
Hoàng Dung ẵm con, cởi hài và áo ngoài cho chồng, đặt nằm ngay ngắn trên giường, kê gối sau gáy tử tế, lấy từ thắt lưng chồng ra chiếc lệnh bài. Quách Tĩnh cứ giương mắt mà nhìn, không chống cự được.
Hoàng Dung lại đặt con nằm cạnh chồng, đắp chăn cho hai cha con, nói:
- Tĩnh ca ca, hôm nay thiếp đành đắc tội, đợi thiếp tiễn Phù nhi ra khỏi thành, sẽ trở về nấu vài món ăn, mời ca ca uống ba chén rượu, chịu tội với ca ca.
Đoạn cúi xuống thơm vào má chồng một cái.
Quách Tĩnh nghe vợ nói, thấy Hoàng Dung đã là mẹ của ba đứa con, vẫn cứ tinh quái như xưa, đành giương mắt nhìn vợ cười cười bước ra cửa, nghĩ hai huyệt bị điểm, nếu tự mình dùng nội lực xung huyệt, cũng phải nửa canh giờ mới giải khai, Quách Phù đằng nào cũng chạy thoát, thật là tình cảnh dở khóc dở cười.
Hoàng Dung thương con, nghĩ nó một mình trở về đảo Đào Hoa, một thiếu nữ xinh xắn như nó dọc đường rất dễ gặp hung hiểm, thế là trở về phòng mình, lấy vật chí bảo của đảo Đào Hoa là tấm da nhím dùng làm áo bọc thân, kẹp vào nách, ra khỏi phủ, thi triển khinh công, thoáng chốc đã tới cổng thành phía nam.
Quách Phù cưỡi con tiểu hồng mã, lúc này đang lớn tiếng tranh cãi với viên tướng canh cổng. Viên tướng lời lẽ rất khiêm kính, một điều Quách cô nương, hai điều Quách cô nương, song trước sau một mực, nếu không có lệnh bài, đang đêm mở cổng thành là phạm tội chém đầu.
Hoàng Dung nghĩ đứa con gái vô dụng của mình suốt đời được cha mẹ che chở, chưa hề trải qua gian nan nguy hiểm, gặp tình huống khó khăn không biết xuất kỳ chế thắng, chỉ tức giận quát tháo, phỏng có tác dụng gì? Bèn cầm chiếc lệnh bài bước tới, nói:
- Đây là lệnh bài của Lã đại nhân, tướng quân kiểm tra đi.
Bấy giờ chủ trì thành Tương Dương là An phủ sứ Lã Văn Đức. Tuy mọi việc đều dựa vào sự chỉ dẫn của Quách Tĩnh, song Quách Tĩnh là khách khanh áo vải, nên mọi hiệu lệnh đều phải ban bố dưới danh nghĩa Lã Văn Đức. Viên tướng thấy đích thân Quách phu nhân tới, lại xem đúng là lệnh bài, thì tươi cười mở cổng thành, dắt con ngựa của mình lại, nói:
- Quách phu nhân xin cứ cưỡi tạm con ngựa này của tiểu tướng.
Hoàng Dung nói:
- Tốt quá! Cho ta mượn tạm vậy.
Quách Phù thấy mẹ đến, vui mừng vô hạn, hai mẹ con sánh vai nhau phi ngựa ra khỏi thành.
Hoàng Dung không nỡ chia tay ngay với con, cứ tiễn thêm càng lúc càng xa. Từ thành Tương Dương lên phía bắc mấy chục dặm không một bóng người, từ thành Tương Dương về phía nam thì các trọng trấn chưa bị quân Mông Cổ tràn qua, tuy động loạn bất an, nhưng dân chúng vẫn ở nguyên như cũ. Hai mẹ con đi hơn hai chục dặm, trời đã sáng rõ, đến một tiểu thị trấn, thấy nhiều cửa hiệu đã mở cửa bán hàng. Hoàng Dung nói:
- Phù nhi, chúng ta vào ăn một chút điểm tâm, rồi mẹ sẽ về thành.
Quách Phù nuốt lệ đáp ứng, trong lòng hối hận, quả thật không nên tức giận nhất thời mà chém đứt cánh tay Dương Quá, đến nỗi hôm nay cốt nhục phân ly, phải một mình thui thủi trở về đảo Đào Hoa, nơi chỉ có Kha công công mù lòa, chỉ nghĩ thôi đã thấy khó chịu đựng. Nhưng nhớ lại thần sắc vung kiếm của phụ thân tối qua, nàng không thể nào trở lại thành Tương Dương được.
Hai người vào một phạn điếm, gọi vài món ăn. Mẹ con chia tay bây giờ, chẳng ai muốn ăn cả. Hoàng Dung đưa tấm da nhím cho con, dặn mỗi buổi tối lưu tại khách điếm, thì mặc vào người, lại dặn đi dặn lại phải cẩn thận ở dọc đường, đề phòng cái này cái nọ, nhưng nhất thời dặn sao cho hết? Nhìn con miệng vâng dạ, mắt đỏ hoe, trông thật đáng thương, mất hết vẻ hoạt bát đáng yêu thường ngày, Hoàng Dung càng không nỡ, liếc thấy ở phía tây thị trấn có một lương thực điếm bày bán những trái táo vừa to vừa hồng tươi, nghĩ bụng: “Mua vài cân cho Phù nhi mang theo dọc đường, rồi chia tay thôi”. Bèn nói:
- Phù nhi, con cố ăn cho, không muốn ăn cũng cố mà ăn. Thời buổi loạn lạc này, dọc đường không biết lúc nào mới lại có phạn điếm. Mẹ tới đằng kia mua cái này.
Đoạn đứng dậy, đi tới chỗ bán táo.
Hoàng Dung chọn mươi trái táo, cho vào bọc, lấy bạc định trả cho người bán, bỗng nghe một giọng nữ vang lên sau lưng:
- Cân cho ta hai mươi cân gạo trắng, một cân muối, để vào trong bao tải cho ta.
Hoàng Dung nghe giọng nói trong trẻo mạnh mẽ, liếc nhìn, thấy một hoàng y đạo cô đứng trước cửa lương thực điếm, tay trái ẵm một đứa bé sơ sinh, tay phải thò vào túi lấy bạc. Chiếc tã bọc đứa bé bằng lụa màu xanh lục, thêu một con ngựa nhỏ màu hồng, đúng là chiếc tã chính tay Hoàng Dung đã khâu.
Hoàng Dung trông thấy chiếc tã thì trống ngực đập dồn, hai tay run rẩy, lạng bạc đang cầm trên tay phải rơi xuống giỏ táo. Đứa bé sơ sinh kia chẳng phải là Quách Tương của mình thì còn là ai vào đấy nữa?
Chỉ thấy đạo cô diện mạo rất xinh đẹp, đầu mày khóe mắt ẩn hiện sát khí, bên hông giắt một cây phất trần, tất nhiên là Xích Luyện Tiên Tử Lý Mạc Sầu lừng danh giang hồ. Hoàng Dung chưa từng gặp mặt nữ ma đầu này, nhưng diện mạo và trang phục thế kia thì trừ mụ ta ra, không còn ai khác.
Hoàng Dung sau khi sinh hạ Quách Tương, trong cơn hoảng loạn, mơ hồ ngắm con vài lần, lúc này không nhịn được, mới nhìn kỹ, thấy đứa bé mi thanh mục tú, thần thái mỹ lệ, tuy là sơ sinh, nhưng hiển nhiên là một mỹ nhân, lại thấy da nó trắng hồng, trông rất khỏe mạnh. Tiểu đệ của nó là Quách Phá Lỗ tuy được bú sữa mẹ, song không được mập mạp khả ái như nó. Hoàng Dung vừa kinh ngạc vừa sung sướng, nước mắt ứa ra.
Lý Mạc Sầu trả tiền, xách bao tải gạo, lập tức rời khỏi thị trấn.
Hoàng Dung thấy tình thế khẩn cấp, không kịp đi gọi Quách Phù, nghĩ: “Tương nhi đã rơi vào tay mụ ta, một kẻ vô cùng hiểm độc, nếu ta cưỡng đoạt, mụ ta ắt sẽ sát hại đứa bé”. Nhìn Lý Mạc Sầu rời thị trấn, theo đường lớn đi về phía tây, Hoàng Dung liền bám theo, lại nghĩ: “Mụ ta là sư bá của Dương Quá, tuy nghe đâu họ bất hòa với nhau, nhưng Phù nhi chém mất cánh tay Dương Quá, phái Cổ Mộ và Quách gia ta đã kết thâm cừu. Lỡ Dương Quá và Long cô nương đang chờ ở đàng trước, ta phải một địch ba, không thể thủ thắng, chỉ có ra tay sớm mới là thượng sách”. Thấy Lý Mạc Sầu quẹo xuống phía nam, tiến vào một cánh rừng, Hoàng Dung bèn thi triển khinh công, chạy đón đầu, rồi bất ngờ xuất hiện chặn đường.
Lý Mạc Sầu thấy trước mặt đột nhiên xuất hiện một thiếu phụ xinh đẹp, thì đứng lại. Hoàng Dung cười, nói:
- Chắc đây là Xích Luyện Tiên Tử Lý đạo trưởng, hạnh hội hạnh hội!
Lý Mạc Sầu nhìn thiếu phụ xuất hiện với thân pháp không phải tầm thường, lưng giắt một cây gậy trúc màu vàng nhạt, liền giả bộ hoan hỉ, đặt bao tải gạo xuống, thi lễ, nói:
- Tiểu muội ngưỡng mộ đại danh Quách phu nhân đã lâu, hôm nay được thấy phương nhan, thỏa nguyện bình sinh!
Trong võ lâm đương thời, cao thủ nữ lưu có Hoàng Dung và Lý Mạc Sầu lẫy lừng danh tiếng. Thanh tịnh tản nhân Tôn Bất Nhị thành danh tuy đã lâu, nhưng võ công còn thua xa hai người này. Tiểu Long Nữ thì còn ít tuổi, vương tử Hoắc Đô bại trận ở tòa cổ mộ núi Chung Nam, người ta mới biết đến Tiểu Long Nữ. Sau trận đấu ở ải Đại Thắng, Tiểu Long Nữ lừng danh thiên hạ, nhưng là mới nổi danh gần đây. Còn Hoàng, Lý hai người, thì một người là ái nữ của Đông Tà Hoàng Dược Sư, phu nhân Quách đại hiệp, giữ chức bang chủ Cái Bang hơn hai mươi năm. Người kia với ba tuyệt kỹ cây phất trần, ngân châm, Ngũ độc thần chưởng, giang hồ vừa nghe đến đã táng đởm kinh hồn. Bây giờ hai người gặp nhau lần đầu, nhìn kỹ đối phương, đều lấy làm lạ: “Thì ra người ấy lại xinh đẹp đến thế!” Trong bụng cả hai cùng đề phòng, đối phương đã lừng danh thiên hạ, tất có bản lĩnh thật sự.
Hoàng Dung cười, nói:
- Danh tiếng của đạo trưởng, tiểu muội cũng ngưỡng mộ đã lâu, đạo trưởng đâu cần khách sáo quá vậy?
Lý Mạc Sầu nói:
- Quách phu nhân là tiền nhiệm bang chủ Cái Bang, bang hội lớn nhất thiên hạ, đứng đầu võ lâm, tiểu muội quả thật rất tiếc được diện kiến quá muộn.
Hai bên nói mấy lời khách sáo với nhau.
Hoàng Dung cười, nói:
- Đứa bé Lý đạo trưởng đang ẵm trông rất khả ái, không biết là con nhà nào?
Lý Mạc Sầu nói:
- Nói ra thực hổ thẹn, chỉ e Quách phu nhân chê cười.
Hoàng Dung nói:
- Không dám!
Nghĩ bụng: “Đã đi vào chính đề rồi đây, mình phải cướp được đứa bé trước khi động thủ”, chỉ nghe Lý Mạc Sầu nói:
- Cũng là nỗi bất hạnh của sư môn phái Cổ Mộ, tiểu muội vô đức, không biết giáo huấn sư muội, đứa bé này là hài nhi tư sinh của Long sư muội.
Hoàng Dung lấy làm lạ: “Long cô nương không hề hoài thai, làm sao lại có hài nhi tư sinh kia chứ? Rõ ràng là hài nhi của ta, mụ này hoang ngôn khi trá là có dụng ý gì?” Hoàng Dung không biết rằng Lý Mạc Sầu quả thật không có ý đánh lừa, cứ tưởng đứa bé đúng là con của Dương Quá và Tiểu Long Nữ.
Lý Mạc Sầu hận sư phụ đối xử thiên lệch, đem bí kíp “Ngọc nữ tâm kinh” truyền cho một mình sư muội. Giờ nghe Hoàng Dung hỏi đến, bèn nhân dịp này làm bại hoại thanh danh của sư muội.
Hoàng Dung nói:
- Long cô nương trông có vẻ trinh thục đoan trang, ai ngờ lại có chuyện như thế, thật không ai đoán nổi. Vậy thì cha của đứa bé là ai?
Lý Mạc Sầu nói:
- Cha của đứa bé ư? Nói ra càng bực, là đồ nhi Dương Quá của Long sư muội.
Hoàng Dung tuy giỏi giả bộ, song lúc này cũng không khỏi đỏ bừng cả mặt, trong lòng cả giận, nghĩ thầm: “Mụ bảo con ta là hài nhi tư sinh của Long cô nương thì cũng được, nhưng bảo cha nó là Dương Quá, chẳng hóa ra làm nhục ta ư?”. Nhưng vẻ tức giận chỉ thoáng qua, nói:
- Quá lắm, quá lắm, không còn ra gì. Nhưng mà đứa bé này trông thật khả ái, Lý đạo trưởng, hãy cho tiểu muội ẵm nó một chút.
Đoạn lấy ra một trái táo, nhứ nhứ trước mặt đứa bé, nói nựng với nó:
- Bé ngoan, mặt bé trông có giống trái táo này không?
Lý Mạc Sầu sau khi cướp được đứa bé, liền ẩn cư trong thâm sơn, lấy việc dưỡng nhi làm vui, ngày ngày buộc con báo cho Quách Tương bú sữa. Mụ một đời tác ác đa đoan, song cũng không phải là bẩm tính tàn ác, mà sau khi tình trường thất ý, đâm ra căm phẫn thế tục. Quách Tương kiều mỹ khả ái, cuối cùng khơi gợi mẫu tính bẩm sinh nơi Lý Mạc Sầu, có đêm mụ nghĩ, dẫu Tiểu Long Nữ có đem “Ngọc nữ tâm kinh” đến đổi, mụ cũng chưa chắc giao trả đứa bé. Lúc này nghe Hoàng Dung xin ẵm đứa bé, Lý Mạc Sầu như một người mẹ nghe người khác khen con mình, vui sướng trao con cho họ.
Hoàng Dung hai tay vừa chạm đến chiếc tã bọc Quách Tương, sắc mặt không giấu được vẻ yêu thương, cái tình của từ mẫu, làm sao che giấu nổi? Hoàng Dung ngày đêm nhớ đứa con sơ sinh, chỉ lo nó đói khát mất mạng, lúc này được tự tay ôm nó vào lòng, bảo không sung sướng sao được?
Lý Mạc Sầu thấy thần sắc hơi lạ của Hoàng Dung, nghĩ bụng: “Nếu mụ ta chỉ thích đứa bé, muốn ẵm nó một chút, hà tất phải xúc động đến thế? Việc này hẳn có chuyện dối trá”. Bèn giật mạnh hai tay về, chân phải nhún một cái, đã nhảy lùi về phía sau hai trượng. Hai chân chạm đất, mụ định tra vấn, thì Hoàng Dung đã vọt theo như hình với bóng. Lý Mạc Sầu quăng luôn bao tải gạo về phía Hoàng Dung. Hoàng Dung tung mình nhảy lên, bao tải gạo bay qua dưới chân. Lý Mạc Sầu thừa cơ lại nhảy lùi ra sau hơn một trượng, rút cây phất trần cầm tay, cười khẩy, nói:
- Quách phu nhân, phu nhân định giúp Dương Quá cướp lấy đứa bé này chăng?
Hoàng Dung lúc đuổi theo và nhảy lên, đã nghĩ đối phương đã nghi ngờ, thì khó dùng mưu trí, chỉ còn cách dùng vũ lực cưỡng đoạt, bèn cười hì hì, nói:
- Tiểu muội chẳng qua thấy đứa bé khả ái thì muốn bế nó một chút. Lý đạo trưởng nghĩ thế, chẳng hóa ra khinh người quá hay sao?
Lý Mạc Sầu nói:
- Phu phụ Quách đại hiệp uy danh lừng lẫy giang hồ, tiểu muội vốn vô cùng thán phục, hôm nay được thấy thân thủ, quả nhiên danh bất hư truyền. Tiểu muội hiện tại có việc, xin cáo biệt tại đây!
Mụ ta sợ Quách Tĩnh ở gần đâu đây, nói vài lời khách sáo rồi quay mình đi. Hoàng Dung vọt lên phía trước, thân ở trên không đã rút cây bổng cầm tay. Cây Đả cẩu bổng truyền đời của Cái Bang, Hoàng Dung đã trao cho Lỗ Hữu Cước, cây bổng này tuy không chắc dẻo bằng cây Đả cẩu bổng, nhưng kích thước và trọng lượng thì y hệt, được làm màu vàng nhạt để phân biệt với cây Đả cẩu bổng.
Hoàng Dung chân chưa tiếp đất, cây bổng đã sử tự quyết chữ “Triền” móc tới sau lưng Lý Mạc Sầu.
Lý Mạc Sầu nghĩ: “Ta với ngươi không thù không oán, hôm nay gặp mặt lần đầu, ta nói năng phải phép, có gì đắc tội với ngươi, mà ngươi lại tự dưng dùng binh khí đánh ta?” Bèn vung cây phất trần về phía sau gạt cây bổng đi.
Bổng pháp của Hoàng Dung mau lẹ vô cùng, sau sáu, bảy chiêu, Lý Mạc Sầu đã cảm thấy khó bề chống đỡ. Võ công của mụ vốn thấp hơn Hoàng Dung một chút, huống hồ một tay lại đang ẵm đứa bé, di chuyển kém linh hoạt. Hoàng Dung nhanh hơn sóc, vút bên này bên kia, cây bổng biến ảo, thoáng chốc Lý Mạc Sầu đã lâm vào thế hạ phong.
Đấu thêm vài chiêu, Lý Mạc Sầu thấy cây bổng của đối phương thủy chung né tránh đứa bé, thì mụ nghĩ: “Mỗi lần ta giao đấu với ai, cứ dùng đứa bé này đều có lợi thế”, bèn cười, nói:
- Quách phu nhân, nếu muốn khảo nghiệm công phu của tiểu muội, thì nước non vẫn đó, ngày tháng còn dài, hà tất phải quá chiêu ngay hôm nay? Chỉ cần một người lỡ tay, đứa bé khả ái này bị thương thì sao?
Hoàng Dung nghĩ thầm: “Mụ ta quả thật không biết đó là con của ta, hay là mụ giả trang? Vậy hãy thử xem sao”. Bèn nói:
- Vì đứa bé ấy, tiểu muội đã nhường Lý đạo trưởng hơn mười chiêu, nếu đạo trưởng không chịu đặt đứa bé xuống, thì tiểu muội sẽ thây kệ sự sống chết của nó đấy!
Đoạn chọc cây bổng tới đùi phải của Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu giơ cây phất trần chặn lại. Hoàng Dung không đợi cây bổng đụng cây phất trần, đã hất lên ngực trái cực nhanh, mũi cây bổng chọc ngay tới người đứa bé.
Cú chọc này nếu trúng, Quách Tương mất mạng đã đành, ngay cả Lý Mạc Sầu cũng sẽ bị thương. Hoàng Dung điều khiển cây bổng dễ dàng theo ý, đầu cây bổng chọc nhanh, đã chạm tới cái tã bọc đứa bé, trông thì nguy hiểm cùng cực, nhưng Đả cẩu bổng pháp do Hoàng Dung thi triển thì có mức độ nặng nhẹ xa gần không sai một li. Lý Mạc Sầu không biết điều đó, thấy nguy cấp liền né vội sang bên phải, không khỏi để lộ sơ hở, “bộp” một cái, ống chân trái bị cây bổng quét trúng, người lảo đảo hai bước mới đứng vững lại được. Mụ vung cây phất trần che phía trước, quay người lại, tức giận nói:
- Đối với một đứa bé mà Quách phu nhân hèn hạ hạ độc thủ, thật uổng cả hiệp danh.
Hoàng Dung thấy Lý Mạc Sầu tức giận thật sự, thì mừng thầm, nghĩ: “Mụ ra sức bảo vệ con của ta, ta ra đòn đánh con mình khiến mụ hoảng sợ một phen”, mỉm cười, nói:
- Đạo trưởng bảo đứa bé này lai lịch bất minh, còn để sống trên thế gian này làm gì?
Đoạn lại vọt tới, giơ cây bổng tấn công, sau vài chiêu lại gây nguy hiểm cho Quách Tương. Quách Tương bị Lý Mạc Sầu kẹp giữ, khó cựa quậy, lại bị xốc mạnh, đột nhiên khóc tướng lên. Hoàng Dung nói thầm: “Con ngoan đừng sợ, để cứu con, mẹ đành phải làm như vậy”. Trong bụng tuy thương con, nhưng xuất thủ càng lúc càng lợi hại, nếu Lý Mạc Sầu không tận lực kháng cự, e rằng Quách Tương đã mấy lần mất mạng.
Lý Mạc Sầu tâm thần bất định, nhảy lùi mấy bước, giơ cây phất trần che cho Quách Tương, nói:
- Quách phu nhân, rốt cuộc phu nhân muốn gì?
Hoàng Dung cười, nói:
- Nữ lưu anh kiệt thời nay, trong võ lâm chỉ có hai người là Lý đạo trưởng và tiểu muội. Hôm nay có duyên tương ngộ, tại sao không thử tài cao thấp?
Lý Mạc Sầu thấy Hoàng Dung cứ nhắm tấn công đứa bé, thì cả giận, nghĩ: “Nếu có chồng ngươi đến, ta còn ngại vài phần, chứ một mình ngươi, ta chẳng ngán gì”. Bèn nói:
- Quách phu nhân có ý chỉ giáo, thật là ước gì được nấy.
Hoàng Dung nói:
- Lý đạo trưởng phải ẵm đứa bé, tiểu muội có thắng cũng không đúng cách, vậy hãy bỏ đứa bé xuống, hai bên dựa vào công phu đích thực mà giao đấu một phen xem nào.
Lý Mạc Sầu nghĩ nếu ẵm đứa bé quả không thể địch nổi, phóng độc châm cũng khó, suy nghĩ: “Giang hồ đồn rằng vợ chồng Quách Tĩnh nhân nghĩa hơn người, nhưng qua sự tàn bạo của Hoàng Dung đối với một đứa bé, đủ thấy lời đồn sai sự thực”. Đưa mắt tứ phía, thấy ở mé đông, giữa mấy cây lớn có một đám cỏ dày, trông rất mềm, mụ bèn đặt Quách Tương xuống cỏ, vừa vỗ nhẹ vừa nựng vài cái, rồi xoay lại, nói:
- Mời phu nhân tiến chiêu.
Hoàng Dung đấu hơn chục chiêu, biết Lý Mạc Sầu võ công cũng ngang ngửa với mình, nếu bây giờ cướp lấy đứa bé, mụ ta bám theo, mình chỉ cần sơ suất dễ làm cho đứa bé bị thương, chỉ có cách phải giết chết mụ ta đã, rồi mới ẵm đứa bé, nữ ma đầu này tác ác đa đoan, có chết trăm lần cũng chưa đền hết tội.” Nghĩ đến đây, sát cơ trỗi dậy.
Lý Mạc Sầu vốn quen hạ độc thủ, suy bụng ta ra bụng người, thấy Hoàng Dung chốc chốc liếc nhìn đứa bé, thì nghĩ: “Mụ ta đánh không nổi, sẽ hạ độc thủ đối với đứa bé để khiến ta bị phân tâm”; thế là mụ bèn đứng chắn đằng trước Quách Tương, không cho đối phương tới gần.
Trong giây lát, Hoàng Dung đã nảy ra bảy, tám kế sách, mỗi kế sách đều có thể lấy mạng Lý Mạc Sầu, song cũng khó tránh gây nguy hiểm cho Quách Tương, nghĩ: “Nhìn thần tình nữ ma đầu này, xem ra mụ ta rất ưu ái Tương nhi của ta, dẫu ta nhất thời chưa cướp lại Tương nhi, cũng không lo cho nó, bởi vậy, không thể mạo hiểm tấn công để tránh đả thương Tương nhi”. Chợt nghĩ một kế, nói:
- Lý đạo trưởng, võ công hai ta ngang nhau, việc phân thắng bại tốn nhiều thời gian, nếu đôi bên mải đấu, có dã thú như hổ lang đến ăn thịt đứa bé, chẳng hóa có người bị phân tâm hay sao? Chi bằng trước tiên hãy kết liễu con tiểu quỉ ấy, rồi hai ta rảnh tay đấu một trận cho sướng.
Nói đoạn cúi nhặt một viên sỏi, dùng ngón giữa búng viên sỏi về phía Quách Tương. Cái búng này là công phu tuyệt kỹ gia truyền “Đạn chỉ thần thông” của Hoàng Dung, Lý Mạc Sầu từng thấy Hoàng Dược Sư thi triển, biết kình lực không phải tầm thường, vội vung cây phất trần hất viên sỏi đi, quát:
- Đứa bé đâu có cản trở gì phu nhân, sao mấy phen cứ định lấy mạng nó kia chứ?
Hoàng Dung cười thầm, thực ra khi búng viên sỏi đi với kình lực tuy mạnh, nhưng ngón tay đã sử hồi lực, dẫu Lý Mạc Sầu không cứu, viên sỏi chạm tới người Quách Tương cũng sẽ bay chếch đi, không làm cho nó bị thương, Hoàng Dung bèn cười, nói:
- Lý đạo trưởng lo cho đứa bé như thế, người ngoài không biết, lại ngỡ… lại ngỡ nó là… ha ha… là con của Lý đạo trưởng…
Lý Mạc Sầu nổi giận, nói:
- Làm sao nó lại có thể là con của ta kia chứ?
Nói rồi đỏ mặt.
Hoàng Dung cười, nói:
- Lý đạo trưởng là đạo cô, dĩ nhiên không thể có con, người ngoài lại ngỡ nó là muội muội của Lý đạo trưởng.
Lý Mạc Sầu hừ một tiếng, không tranh cãi nữa, không biết rằng Hoàng Dung ngay trên lời nói cũng không chịu thiệt tí nào, bảo Quách Tương là em gái của Lý Mạc Sầu, có khác gì bảo Lý Mạc Sầu là con của vợ chồng Hoàng Dung. Ai bảo ban nãy Lý Mạc Sầu bảo Dương Quá là cha của Quách Tương?
Lý Mạc Sầu nói:
- Quách phu nhân, mau tiến chiêu đi!
Hoàng Dung nói:
- Lý đạo trưởng cứ lo cho đứa bé như thế, không thể dồn toàn thần cho cuộc đấu, tiểu muội có thắng cũng mất cả hay. Thế này vậy, để tiểu muội dùng song mây quay xung quanh đứa bé, không cho dã thú lại gần nó, hai ta sẽ rảnh tay giao đấu.
Rồi rút từ sau lưng ra một con tiểu bội đao, bước tới một bụi cây, chặt lấy một sợi mây dài đầy gai. Lý Mạc Sầu giám sát chặt chẽ, chỉ sợ Hoàng Dung đột nhiên xuất thủ đả thương đứa bé, nhìn Hoàng Dung kéo sợi mây chăng ngang thân mấy cây lớn xung quanh đứa bé, như thế dã thú cố nhiên sẽ không thể làm hại đứa bé, Quách Tương thì mới sinh hơn một tháng, chưa biết lật người, cũng không sợ đụng phải gai mây. Lý Mạc Sầu nghĩ: “Giang hồ bảo Quách phu nhân đa trí, quả nhiên danh bất hư truyền”. Nhìn Hoàng Dung quấn hết sợi mây này đến sợi mây khác, chăng ngang thân cây nọ, cây kia, thành nhiều tầng nhiều lớp, miệng cứ cười cười khó hiểu, tựa hồ có ác ý gì đó, Lý Mạc Sầu chợt thấy rờn rợn, nói:
- Thôi đủ rồi!
Hoàng Dung nói:
- Được! Đạo trưởng bảo đủ rồi thì thôi! Lý đạo trưởng, đạo trưởng đã gặp phụ thân của tiểu muội rồi phải không?
Lý Mạc Sầu đáp:
- Gặp rồi.
Hoàng Dung nói:
- Tiểu muội nghe Dương Quá nói rằng đạo trưởng có viết bốn câu châm biếm phụ thân tiểu muội, có hay không? Hình như thế này “Đào Hoa đảo chủ, cậy đệ tử đông, năm người đánh một, giang hồ chê cười” thì phải?
Lý Mạc Sầu giật mình: “Mình thật hồ đồ, phải nhớ ra chuyện này từ sớm mới phải. Hôm nay sở dĩ Hoàng Dung cứ bám theo gây sự, là vì bốn câu kia”, bèn lạnh lùng nói:
- Hôm ấy bọn họ năm người, đối phó với một mình ta, chuyện đó có thật.
Hoàng Dung nói:
- Hôm nay hai ta một địch một, để xem giang hồ sẽ chê cười ai.
Lý Mạc Sầu cả giận, quát:
- Phu nhân đừng vội khoe tài, võ công đảo Đào Hoa ta đã thấy nhiều, chẳng qua chỉ thế này mà thôi.
Hoàng Dung cười khẩy, nói:
- Chưa nói đến võ công đảo Đào Hoa, ngay một thứ không phải là võ công, đạo trưởng cũng chẳng đối phó nổi đâu. Đạo trưởng có giỏi, hãy ẵm đứa bé lên xem nào?
Lý Mạc Sầu cả kinh: “Không lẽ mụ ta đã hạ độc thủ đối với đứa bé?” Mụ vội tung người nhảy qua một lớp rào bằng song mây, ngoặt sang bên trái, thấy có lớp rào bằng song mây chắn đường, thuận thế quẹo sang bên phải, tai nghe tiếng khóc oa oa của Quách Tương vừa cất lên, cảm thấy yên tâm hơn, chắc nó chưa bị sao, lại quẹo vào phía trong một lần nữa, chẳng hiểu sao cuối cùng lại đi ra bên ngoài lớp rào bằng song mây. Mụ ngơ ngác, rõ ràng mình đi vào phía trong, vì lẽ gì lại dẫn ra bên ngoài? Không kịp nghĩ ngợi, mụ nhún chân nhảy vào trong, nhưng các lớp rào bằng song mây chằng chịt ngang dọc, sơ ý một chút, xoẹt một tiếng, đạo bào của mụ bị gai làm rách một mảng. Mụ không dám nhảy đại nữa, đứng nhìn lối đi cho rõ, thì thấy Hoàng Dung đã ở bên trong các lớp rào bằng song mây, đang cúi xuống ẵm đứa bé lên.
Lý Mạc Sầu cả kinh thất sắc, kêu to:
- Đặt ngay đứa bé xuống!
Mụ thấy giữa các lớp rào bằng song mây có lối đi, liền chạy theo đó, men lớp rào bằng song mây mà tiến về phía Hoàng Dung, nhưng phạm vi giữa bảy, tám cây lớn chỉ vài trượng, mà mụ chỉ nhìn chứ không tới được. Mụ cứ chạy lòng vòng, tưởng sang trái hóa ra sang phải, tưởng sang phải hóa ra sang trái, một lát sau thì ở bên ngoài lớp rào bằng song mây. Mụ thấy Hoàng Dung đã đặt đứa bé xuống cỏ, đảo người phía này phía nọ, rồi khôn khéo vượt ra ngoài lớp rào bằng song mây.
Lý Mạc Sầu chợt tỉnh ngộ, đêm nào mụ ta tìm tới ngôi nhà tranh gặp Dương Quá, Trình Anh, Lục Vô Song, đã vấp phải các đống đất bố trí trước nhà, khiến mụ không cách gì tiến thẳng vào được. Hôm nay Hoàng Dung chăng các lớp rào bằng song mây, cũng là thần thuật bát quái cửu cung của đảo Đào Hoa. Mụ ngẫm nghĩ một lát, tâm niệm đã quyết: “Phải đánh lui kẻ địch, rồi sẽ gỡ từng lớp rào bằng song mây từ ngoài vào trong mà ẵm đứa bé. Hiện giờ kẻ địch đang chiếm lợi thế trận đồ, nếu ta cứ xông bừa vào ắt thất bại”. Bèn nhảy vọt đi mấy trượng, xa hẳn lớp rào bằng song mây, ngưng thần chờ địch.
Hoàng Dung lúc đầu thấy Lý Mạc Sầu lao bừa qua các lớp rào bằng song mây thì mừng thầm, bỗng thấy mụ ta nhảy vọt ra xa, thì thán phục nghĩ: “Nữ ma đầu này hành sự thật quyết đoán, nhanh nhạy. Mụ ta không phải tự dưng lừng lẫy tiếng tăm”. Lúc này Quách Tương đã nằm ở một chỗ hết sức an toàn, không có gì đáng lo cho nó nữa, bèn vung cây gậy trúc sử chiêu “Vân cẩu đê đầu” đánh tới sau gáy Lý Mạc Sầu. Lý Mạc Sầu dùng cây phất trần cuốn lấy cây bổng, quét qua trước mặt Hoàng Dung, nghe “phựt” một tiếng. Hai người lấy nhanh đánh nhanh, cùng thi triển chiêu thuật tinh diệu, chẳng mấy chốc đã đấu mấy chục chiêu. Lý Mạc Sầu nội công thâm hậu, cây phất trần biến chiêu tinh vi, nhưng Đả cẩu bổng pháp của đối phương còn huyền diệu hơn, mụ miễn cưỡng chống đỡ đến vài chục chiêu, có thể nói đã là điều hiếm có trong võ lâm, nhìn cây bổng đánh tới, phương hướng bộ vị hết sức lạ lùng, tự biết cứ đấu tiếp kiểu này mình sẽ thua. Cây bổng tựa hồ không phải là thứ binh khí sắc bén giết người, song ba mươi sáu đại huyệt trên cơ thể chỉ cần bị đầu cây bổng chọc trúng một huyệt, cũng đủ mất mạng.
Lý Mạc Sầu cố chống trả thêm vài chiêu, trán đã vã mồ hôi, đánh nhanh hai chiêu, rồi nhún chân nhảy lùi, nói:
- Bổng pháp của Quách phu nhân quả nhiên tinh diệu, tiểu muội cam bái hạ phong. Nhưng tiểu muội có một điều chưa rõ, muốn được thỉnh giáo.
Hoàng Dung nói:
- Không dám!
Lý Mạc Sầu nói:
- Bổng pháp này là tuyệt kỹ của Cửu chỉ thần cái Hồng Thất Công. Võ công của đảo Đào Hoa rất lợi hại, tại sao Quách phu nhân không chịu học bản sự gia truyền của lệnh sư, lại đi học của người ngoài?
Hoàng Dung nghĩ thầm: “Mụ này miệng lưỡi sắc sảo, không địch nổi bổng pháp của ta, muốn ta bỏ sở trường đây”, bèn cười, đáp:
- Lý đạo trưởng đã biết bổng pháp này là do Cửu chỉ thần cái truyền thụ, chắc cũng phải biết tên gọi của nó.
Lý Mạc Sầu hừ một tiếng, cau mày, không nói gì.
Hoàng Dung cười, nói:
- Đã mang tên Đả cẩu bổng pháp, gặp chó phải đánh liền, đâu có thể khác?
Lý Mạc Sầu thấy không thể khích đối phương bỏ gậy sử chưởng, nếu đấu khẩu cũng sẽ thua miệng lưỡi Hoàng Dung, bèn giắt cây phất trần sau lưng, cười khẩy, nói:
- Bọn ăn mày trong thiên hạ đi ăn xin lại nói chữ hóa duyên, quả nhiên cả bang chủ cũng là hạng bẻm mép! Tiểu muội chịu đấy!
Nói rồi rảo bước tới bên mép rừng, ngồi xuống một gốc cây.
Lý Mạc Sầu nhận thua kiểu đó, Hoàng Dung còn muốn gì hơn. Nhưng thấy mụ ta ngồi xuống, không đi, chưa hiểu dụng ý thế nào, có lẽ quả thật mụ ta không nỡ rời Quách Tương, nếu bây giờ mình mang Quách Tương đi, mụ ta sẽ xông tới quyết đấu, tương quan mạnh yếu sẽ thay đổi bất lợi cho mình, xem ra nếu không đập chết mụ ta, mình chẳng thể bế con đi yên ổn, bèn vọt đến trước mặt Lý Mạc Sầu, chân trái đi ba bước, chân phải bốn bước, mấy bước đi trông đơn giản, không có gì lạ, nhưng bên trong ẩn chứa sự biến hóa bát quái, Lý Mạc Sầu bất luận né tránh về phương vị nào, cũng không thể thoát khỏi sự ngăn chặn. Cây gậy trúc nơi tay phải chọc tới khuỷu chân của Lý Mạc Sầu.
Lý Mạc Sầu vung chưởng đánh chặn, miệng quát:
- Từ khi Trần Huyền Phong, Mai Siêu Phong chết đi, Hoàng Dược Sư quả đã không còn truyền nhân.
Câu này cốt châm biếm một là Hoàng Dung chỉ biết sử dụng Đả cẩu bổng pháp do Bắc Cái truyền thụ, hai là chê Hoàng Dược Sư chọn lầm đệ tử. Ngọc tiêu kiếm pháp gia truyền Hoàng Dung cũng đã luyện thành thạo, chẳng qua trong tay không có kiếm, nếu dùng cây gậy thay kiếm, e chưa chắc thắng được cường địch trước mặt, bèn mỉm cười, nói:
- Phụ thân tiểu muội thu nhận mấy đệ tử đúng là không ra hồn, chẳng được đoan trang trinh thục như Lý đạo trưởng và Long cô nương.
Lý Mạc Sầu cả giận, xáp tới, vung tay áo, phóng hai mũi Băng phách ngân châm tới bụng dưới của Hoàng Dung. Mụ tuy giết người không chớp mắt, thủ đoạn tàn bạo cùng cực, song giữ mình trong trắng như ngọc. Mụ cho rằng chỉ có sư muội Tiểu Long Nữ là mất đoan trang, nghe Hoàng Dung đem mình đặt ngang với sư muội, thì quá giận, lập tức sử dụng ám khí tối độc địa.
Hoàng Dung lúc này đứng rất gần, không kịp tránh, vội đưa cây bổng về gạt ngân châm. Nếu Đả cẩu bổng pháp không đạt đến cảnh giới xuất thần nhập hóa, e chỉ gạt được một mũi ngân châm. Hai mũi ngân châm bay qua, chỉ cách một tấc, mũi ngửi thấy mùi thuốc tẩm, quả là quá nguy hiểm. Hoàng Dung nhớ lại mấy năm trước, chân một con chim điêu bị sượt mũi ngân châm, phải chữa trị sáu, bảy tháng sau mới khỏi, còn đang rùng mình, thì hai mũi ngân châm khác lại bay tới trước mặt. Hoàng Dung vội né sang bên cạnh, hai mũi ngân châm lướt qua bên tai, nghĩ: “Chỗ này hơi gần Tương nhi, các mũi độc châm bay loạn thế kia, vạn nhất chạm vào da dẻ non nớt của con bé thì nguy to!” Bèn lao vút về hướng đông, xuyên qua rừng cây. Lý Mạc Sầu đuổi theo, cho rằng ngoài bổng pháp ra, các môn võ công còn lại đối phương đều không bằng mình, thấy Hoàng Dung bỏ chạy, liền quát:
- Chưa phân thắng bại, sao lại bỏ chạy?
Hoàng Dung quay người lại, mỉm cười. Lý Mạc Sầu nói:
- Quách phu nhân, phu nhân đỡ được ngân châm của tiểu muội, bây giờ không sử dụng cây gậy có dám hay không?
Hoàng Dung biết, nếu không cất cây gậy trúc, đối phương có thua cũng chưa chịu phục, bèn giắt cây gậy ra sau lưng, cười nói:
- Nghe đồn Ngũ độc thần chưởng của Lý đạo trưởng đã sát hại vô số người, vậy tiểu muội xin tiếp vài chưởng.
Lý Mạc Sầu sững lại, nghĩ: “Mụ ta thừa biết độc chưởng của ta lợi hại, thế mà vẫn muốn đấu chưởng với ta, cả gan như vậy, e rằng có gian trá”. Song mụ nghĩ chưởng pháp của Hoàng Dung dẫu có thần diệu, cũng không lợi hại chết người bằng thần chưởng của mụ, thế là song chưởng cùng đẩy, nội lực đã dồn ra lòng bàn tay, nói:
- Xin lĩnh giáo diệu kỹ Lạc anh thần kiếm chưởng của đảo Đào Hoa.
Thấy hữu chưởng của Hoàng Dung vỗ nhẹ tới, mụ bèn dùng tả chưởng áp vào lòng bàn tay Hoàng Dung, hữu chưởng thì đánh xương vai đối phương. Song chưởng của mụ vừa nhanh vừa mạnh, đã thế, khi hữu chưởng đánh tới, mụ còn phóng luôn hai mũi ngân châm vào bụng dưới của Hoàng Dung. Chiêu số nham hiểm chưởng kèm ám khí này là do Lý Mạc Sầu tự sáng tạo sau khi rời sư môn. Đối phương đang chăm chú đề phòng độc chưởng của mụ, không ngờ ở cự ly gần sát, mụ phóng ám khí, không ít danh gia võ học đã phải bỏ mạng bởi mũi ngân châm của mụ.
Hoàng Dung thu tả chưởng về hất cổ tay phải của đối phương, hóa giải đòn hữu chưởng, tay phải thò vào trong bọc, tựa hồ cũng lấy ám khí ra đánh trả, nhưng đã chậm một bước, khi Hoàng Dung rút tay ra khỏi bọc, hai mũi ngân châm chỉ còn cách sườn chưa đầy năm tấc, lúc này dù có bản lĩnh thông thiên, cũng chẳng tài nào tránh được nữa. Lý Mạc Sầu cả mừng, nhìn hai mũi ngân châm xuyên qua áo, cắm vào thân mình Hoàng Dung.
Hoàng Dung kêu:
- Úi chao!
Hai tay giữ bụng, gập lưng xuống, lập tức tung tả chưởng đánh tới ngực Lý Mạc Sầu. Chưởng này đến quá nhanh, Lý Mạc Sầu thốt lên: “Hay lắm!” và ngửa người ra sau để tránh, đồng thời song chưởng đẩy về phía ngực Hoàng Dung.
Lý Mạc Sầu biết Hoàng Dung sau khi bị trúng hai mũi ngân châm, độc tính sẽ lập tức phát tác, chiêu này chỉ cần đẩy đối phương ra xa mụ mà thôi, đối phương sẽ tự gục chết vì độc châm. Lý Mạc Sầu thấy Hoàng Dung nửa thân trên hơi động, hoàn toàn không chống đỡ, thì nghĩ: “Mụ ta bị trúng độc, đã tê dại toàn thân rồi”. Song chưởng vừa chạm đến vạt áo trước ngực của đối phương, thì đột nhiên hai lòng bàn tay cùng đau nhói như bị một vật nhọn đâm vào.
Lý Mạc Sầu cả kinh, vội nhảy lùi, nhìn lòng bàn tay, thấy mỗi bên có một cái lỗ, máu đen tụ xung quanh, chính là mụ bị Băng phách ngân châm của mụ đả thương. Mụ kinh hoàng, không hiểu nguyên do, chỉ thấy Hoàng Dung lôi từ trong bọc ra hai trái táo, mỗi tay cầm một trái, vừa cười hì hì vừa giơ lên cao, mỗi trái táo đều có cắm một mũi ngân châm. Lý Mạc Sầu bây giờ chợt tỉnh ngộ, thì ra Hoàng Dung để mấy trái táo trong bọc, khi mụ phóng ám khí, Hoàng Dung không né tránh kịp, bèn đưa tay vào bọc giơ trái táo hứng ngân châm, rồi dụ cho mụ xuất chưởng đánh đúng vào hai trái táo có châm độc ấy.
Lý Mạc Sầu vốn cũng là một người thông minh tuyệt đỉnh, nhưng hôm nay gặp phải đối thủ xảo trá gấp trăm lần, chỉ có cách nhận thua, vội thò tay vào túi lấy thuốc giải, thì chỉ nghe gió nổi ù ù, song chưởng của Hoàng Dung đã đánh tới trước mặt mụ. Lý Mạc Sầu đưa tay trái lên che đỡ, bỗng thấy năm ngón tay trắng muốt của Hoàng Dung đã xòe ra, điểm vào huyệt Tiểu Hải ở khuỷu tay phải, năm ngón tay thành hình bông hoa lan, tư thái đẹp tuyệt trần, mụ chợt nghĩ: “Phải chăng đấy là Lan hoa phất huyệt thủ lừng danh thiên hạ?” Tay phải chưa kịp lấy thuốc giải, vội rút ra chộp năm ngón tay của đối phương. Hoàng Dung thu tay phải về, tay trái hóa chưởng thành chỉ, lại điểm tới huyệt Khuyết Bồn ở gáy Lý Mạc Sầu.
Lý Mạc Sầu thấy Hoàng Dung chỉ hóa thành chưởng, chưởng hóa thành chỉ, phối hợp sử dụng Lạc anh thần kiếm chưởng và Lan hoa phất huyệt thủ, đúng là khi tung chưởng thì như hoa rụng lả tả, lúc điểm huyệt như bông lan mùa xuân, chiêu số không chỉ lợi hại, mà còn mỹ lệ, thì mụ không khỏi tái mặt, nghĩ: “Hôm nay được thấy thần kỹ của đảo Đào Hoa, quả nhiên vô cùng cao siêu, đừng nói tay mình đã bị trúng độc, dẫu đang khỏe mạnh cũng không thể địch nổi”. Mụ muốn thoát thân thật gấp để lấy thuốc giải, nhưng Hoàng Dung tấn công dồn dập nào chưởng, nào chỉ, không để cho mụ rảnh tay một khoảnh khắc. Độc tính của Băng phách ngân châm lợi hại, nếu không phải ngày ngày Lý Mạc Sầu luôn sử dụng, thể chất quen với độc tính, thì đã ngất đi rồi. Tuy nhiên, chất độc cũng lan dần đi, chỉ cần lan đến tim thì vô phương cứu chữa.
Hoàng Dung thấy Lý Mạc Sầu mặt tái nhợt, chống đỡ càng lúc càng yếu ớt, biết rằng cứ bám riết một lát, đối phương sẽ không chịu nổi, nghĩ nữ ma đầu tác ác đa đoan, hôm nay bị chết bởi độc châm của chính mụ, như thế là mình đã giúp huynh đệ họ Võ trả thù cho mẹ chúng, liền từng bước sấn tới, liên tiếp xuất chiêu, đồng thời đề phòng trước khi chết Lý Mạc Sầu bất ngờ phản kích. Lý Mạc Sầu thoạt tiên cảm thấy hai cánh tay tê dại, lan dần đến khuỷu, vài chiêu sau thì lan đến nách. Lúc này hai tay cứng đờ, không tuân theo ý muốn nữa, đành kêu lên rầu rĩ:
- Hãy khoan, Quách phu nhân, tiểu muội quen giết người như ngoé, sớm đã không mong sống được đến ngày hôm nay. Đấu trí đấu lực, tiểu muội đều không bằng phu nhân, bỏ mạng dưới tay phu nhân thì tiểu muội cũng cam lòng. Nhưng tiểu muội đánh bạo cầu xin phu nhân một việc.
Hoàng Dung hỏi:
- Việc gì?
Hai mắt nhìn mụ ta chằm chằm, Hoàng Dung sợ mụ ta dùng kế hoãn binh để lấy thuốc giải độc, nhưng chỉ thấy hai tay mụ buông thõng. Mụ nói:
- Tiểu muội và sư muội vốn bất hòa. Nhưng đứa bé kia quả thật khả ái, xin phu nhân làm ơn làm phúc săn sóc nó, đừng giết nó.
Hoàng Dung nghe Lý Mạc Sầu nói mấy câu hết sức thành khẩn, bất giác xúc động, nghĩ: “Nữ ma đầu này tích ác như núi, thế mà trước khi chết lại tha thiết tâm ái con của ta như vậy”, bèn nói:
- Cha mẹ của đứa bé ấy hoàn toàn không phải hạng tầm thường, nếu để cho nó sống, ta sẽ phải lo liệu vất vả suốt đời hay sao…
Lý Mạc Sầu không hiểu ngụ ý lời nói ấy, cầu xin:
- Cúi mong cao đài quí thủ…
Hoàng Dung muốn thử mụ một lần nữa, bước lại gần, điểm huyệt mụ, rồi lấy lọ thuốc giải trong túi mụ, hỏi:
- Thuốc giải độc châm của Lý đạo trưởng đây phải không?
Lý Mạc Sầu đáp:
- Vâng!
Hoàng Dung nói:
- Ta không thể tha cho cả hai người, nếu muốn ta cứu Lý đạo trưởng, thì ta phải giết đứa bé kia. Nếu đạo trưởng chịu chết, thì ta sẽ tha cho đứa bé.
Lý Mạc Sầu không thể ngờ cuối cùng mình còn cơ may sống sót, nhưng mụ dĩ nhiên không nỡ mở miệng bảo Hoàng Dung hãy giết đứa bé, mà lấy mạng mình đổi mạng cho đứa bé thì cũng chẳng muốn. Chỉ thấy Hoàng Dung lấy trong lọ ra một viên thuốc giải, hai ngón tay cầm viên thuốc rung rung, chỉ chờ mụ trả lời, mụ run giọng:
- Tiểu muội… tiểu muội…
Hoàng Dung nghĩ: “Mụ ta do dự lâu như vậy, thực cũng không dễ. Bất kể mụ ta trả lời thế nào, chỉ riêng thiện ý của mụ cũng đáng để ta tha chết cho mụ. Mụ ta mang nhiều nợ máu, rồi sẽ có người tìm mụ báo thù”. Bèn cướp lời, cười nói:
- Lý đạo trưởng, đa tạ đạo trưởng đã quan hoài Tương nhi của tiểu muội như thế.
Lý Mạc Sầu kinh ngạc, hỏi:
- Sao kia?
Hoàng Dung cười, nói:
- Đứa bé ấy họ Quách, tên Tương, là con của Quách Tĩnh gia và tiểu muội, vừa chào đời thì Long cô nương bế đi, không hiểu tại sao Lý đạo trưởng lại có sự hiểu lầm như thế. Tiểu muội xin đa tạ Lý đạo trưởng đã nhiều ngày dưỡng dục đứa bé.
Nói đoạn hành lễ, nhét một viên thuốc vào miệng Lý Mạc Sầu, hỏi:
- Đủ chưa?
Lý Mạc Sầu nói:
- Tiểu muội trúng độc đã sâu, phải nhai liền ba viên.
Hoàng Dung nói:
- Được!
Bèn nhét cho hai viên nữa, nghĩ bụng thuốc này còn có khi cần đến, nên không trả cho Lý Mạc Sầu mà nhét vào túi mình, cười, nói:
- Ba canh giờ nữa, huyệt đạo sẽ tự giải khai.
Rồi chạy trở vào rừng, nghĩ: “Mình bỏ đi lâu thế, không biết Phù nhi đã đi chưa? Nếu để cho tỷ muội hai đứa được gặp nhau một chút, thì rất hay”. Chạy vào bên trong lớp rào bằng song mây, vừa nhìn một cái, bất giác như rơi xuống hố băng, toàn thân lạnh toát.
Các lớp rào bằng song mây vẫn còn y nguyên, nhưng bé Quách Tương thì đã không cánh mà bay. Hoàng Dung trống ngực đập thình thình, đa mưu túc trí vô song mà lúc này cũng rụng rời hoảng hốt. Định thần, tự nhủ: “Đừng hoảng, đừng hoảng! Khi mình và Lý Mạc Sầu ra khỏi cánh rừng giao đấu, cũng không lâu lắm, Tương nhi có bị kẻ nào ẵm đi, cũng chưa đi xa”. Bèn leo lên ngọn cây cao nhất mà nhìn tứ phía. Thành Tương Dương ở vùng bình nguyên, có thể đưa mắt nhìn xa cả chục dặm, không thấy có vật gì khả nghi. Hiện thời quân Mông Cổ đã rút đi xa, không có một ai đi xe, nếu có người nào cưỡi ngựa, thì dù người ấy ở rất xa, cũng nhìn thấy được. Hoàng Dung nghĩ: “Người ấy chưa đi xa, tất ở gần đâu đây”. Bèn tìm kỹ xem có dấu chân ở bên các lớp rào bằng song mây, chỉ thấy các lớp rào bằng song mây không hề bị xê dịch, nhất định không phải dã thú nhảy vào tha mất đứa bé. Nghĩ thầm: “Mình đã bố trí các lớp rào bằng song mây theo phương vị bát quái cửu cung, là thuật Kỳ môn do phụ thân sáng tạo, trên thế gian trừ đệ tử đảo Đào Hoa không ai nắm được, tài trí như Kim Luân pháp vương cũng không thể qua lại dễ dàng giữa các lớp rào bằng song mây, chẳng lẽ là phụ thân đến ư?… Thôi chết, nguy rồi!”
Chợt nhớ vài tháng trước ngẫu nhiên chạm trán với Kim Luân pháp vương, trong cơn nguy cấp đã bố trí loạn thạch trận để ngăn cản lão ta, được Dương Quá đến cứu, mình đã nói qua thuật Kỳ môn cho Dương Quá biết. Dương Quá là đứa cực kỳ thông minh, nói một hiểu mười, tuy chưa thể thông thạo thuật Kỳ môn, nhưng mấy lớp rào bằng song mây sơ sài này, hắn có thể hóa giải không khó lắm. Hoàng Dung vừa nghĩ đến Dương Quá, thì lo lắng thêm ba phần: “Phù nhi đã chặt lìa cánh tay hắn, hắn càng thù Quách gia sâu hơn. Tương nhi rơi vào tay hắn, mạng coi như hết. Hắn chẳng cần hạ độc thủ, cứ quẳng đứa bé sơ sinh ở bất cứ chỗ nào giữa chốn hoang dã này, nó cũng mất mạng”. Nghĩ đứa con ra đời chưa được bao lâu mà phải chịu đa tai đa nạn, nước mắt cứ thế rơi lã chã.
Nhưng Hoàng Dung đã từng trải nhiều biến cố, há đau khổ như một thiếu phụ tầm thường. Ngẫm nghĩ một lát, rồi lau nước mắt, truy tìm đường đi của Dương Quá. Nhưng lạ thay, quanh quẩn không thấy một dấu chân, Hoàng Dung lấy làm lạ: “Hắn dù khinh công đạt tới mức tuyệt đỉnh, cũng phải để lại dấu chân trên lớp đất mềm thế này. Không lẽ hắn bay từ trên trời xuống hay sao?”
Hoàng Dung đoán quả không sai, Quách Tương đúng là do Dương Quá ẵm đi, và chàng vượt qua các lớp rào bằng song mây đúng là theo lối phi hành.
Đêm qua Dương Quá nấp trên cây bên ngoài cửa sổ, thấy Hoàng Dung điểm huyệt Quách Tĩnh, đưa tiễn Quách Phù, chàng bèn theo lối cũ ra khỏi thành, bám theo xa xa phía sau, nghĩ: “Quách bá mẫu, con gái bá mẫu nợ ta một cánh tay, Quách bá bá không chém được, thì ta sẽ chém. Bá mẫu ở ngoài sáng, ta ở trong bóng tối, bá mẫu muốn mãi mãi giữ cánh tay phải cho con gái mình, thật chẳng dễ đâu!”
Hoàng Dung đưa tiễn con, buồn lòng nên chẳng để ý có người bám theo phía sau, sau đó Hoàng Dung trong tiểu thị trấn gặp Lý Mạc Sầu, rồi hai người giao đấu thế nào, Dương Quá ở bên ngoài cánh rừng đều thấy rõ. Chờ hai người đuổi nhau ra khỏi cánh rừng, chàng nhảy lên một cây cao, chập ba sợi song mây làm một, buộc một đầu trên cành cây, tay trái cầm một đầu, từ trên cây đu người vào bên trong vòng rào bằng song mây, hai chân cắp vào ngang lưng Quách Tương, kéo người lên, đu ra ngoài vòng. Thấy Hoàng Dung và Lý Mạc Sầu đang mải giao đấu với nhau ở ngoài cánh rừng, chàng ẵm bé Quách Tương chạy thật nhanh, chẳng mấy chốc đã tới thị trấn. Thấy Quách Phù đứng bên đường, tay dắt con tiểu hồng mã, mắt ngó ngược ngó xuôi chờ mẹ quay lại, Dương Quá lẳng lặng tới gần, từ khoảng cách hơn một trượng vọt ngay lên lưng con ngựa.
Quách Phù giật mình, ngoảnh nhìn, thấy người cưỡi trên lưng ngựa chính là Dương Quá, thì kêu “Ối”, vội rút kiếm khỏi bao. Thanh kiếm Thục nữ của Tiểu Long Nữ tuy rất sắc, nhưng Quách Phù không muốn dùng, thanh kiếm nàng đang cầm trong tay chỉ là một thanh kiếm thông thường.
Dương Quá thấy nàng mặt tái nhợt, mục quang đầy vẻ kinh hãi, lúc này nếu chàng muốn chém cánh tay phải của nàng, thật dễ như trở bàn tay, nhưng chàng lại không nỡ hạ độc thủ. Chàng vung ống tay áo bên phải một cái, nó đã cuốn lấy thanh kiếm của Quách Phù mà hất đi. Quách Phù không giữ được, thanh kiếm tuột tay, bay thẳng vào góc tường. Dương Quá tay trái giật cương ngựa, hai chân kẹp lại, con tiểu hồng mã lao đi vùn vụt.
Quách Phù cả sợ, chân tay luống cuống, lát sau mới đến bên góc tường nhặt thanh kiếm lên, thân kiếm văng mạnh vào tường đã bị cong gập như cái thước thợ.
Dùng vật mềm mà thi triển cường kình, vốn là chỗ tinh yếu của võ công phái Cổ Mộ, Lý Mạc Sầu sử dụng cây phất trần, Tiểu Long Nữ sử dụng dải lụa, đều là môn công phu đó. Dương Quá hiện thời nội kình đã mạnh, tay áo phất một cái, thật không khác gì ngọn roi cứng, cây búa lớn ra đòn.
Dương Quá ẵm bé Quách Tương, cưỡi con tiểu hồng mã phóng nhanh về hướng bắc, chẳng mấy chốc qua thành Tương Dương, đã chạy được vài chục dặm, cho nên khi Hoàng Dung leo lên ngọn cây cao nhất mà nhìn tứ phía, không còn thấy chàng đâu nữa.
Ngồi trên mình ngựa phi nhanh, cây cối hai bên đường cứ vùn vụt trôi về phía sau, Dương Quá cúi đầu nhìn Quách Tương trong bọc, thấy nó đang ngủ rất say, khuôn mặt thanh tú xinh xắn, nghĩ: “Đứa con gái nhỏ này của Quách bá bá, Quách bá mẫu, mình không trả lại cho họ, cũng coi như đã trả được mối thù mất cánh tay. Nỗi buồn khổ của họ lúc này e rằng còn đau đớn hơn ta nhiều”. Đi một quãng nữa, chàng lại nghĩ:“Dương Quá ơi là Dương Quá, có phải mi nhiễm tính phong lưu quá nặng rồi sao, thấy thiếu nữ Quách Phù xinh đẹp liền quên luôn mối thù lớn của mi? Nếu kẻ chém mất cánh tay mi là nam nhân, liệu hôm nay mi có tha cho hắn hay chăng?” Nghĩ một hồi, chàng lắc đầu cười khổ. Đối với cái tính nết dễ thay đổi của mình, chàng chẳng những không quản chế được, mà thật ra cũng không hiểu rõ lắm.
Sau khi đi hơn hai trăm dặm, dọc đường bắt đầu có nhà dân, chàng vào xin sữa cừu, sữa bò cho Quách Tương uống, quyết ý trở về tòa cổ mộ tìm Tiểu Long Nữ, vài ngày sau đã đến chân núi Chung Nam.
Nhớ chuyện cũ, chàng phóng ngựa lên núi, tìm đường đến trước tòa cổ mộ. Tấm bia đá lớn đề dòng chữ “Hoạt tử nhân mộ” vẫn sừng sững đứng đó, không khác gì trước kia, cửa mộ đã bị sập xuống khi Lý Mạc Sầu công nhập, muốn vào bên trong, chỉ có cách lội qua dòng suối ngầm, theo địa đạo bí mật mà thôi. Với nội công tu vi hiện thời của chàng, việc vượt địa đ?