Hồi 39 Đại Chiến Tương Dương
Cả đoàn người đi xuống phía nam, dọc đường hỏi dò tin tức về Kim Luân pháp vương và Quách Tương. Đi được mấy hôm, dọc đường nghe tin dồn dập, nói hai đạo quân Nam Bắc của đại quân Mông Cổ giáp công thành Tương Dương, đã giao chiến mấy trận với quân Tống dưới chân thành, có thắng có bại, tình hình Tương Dương thập phần nguy cấp. Hoàng Dung lo lắng nói:
- Bọn Thát tử mãnh công thành Tương Dương, chúng ta phải cấp tốc về đó, sự an nguy của Quách Tương đành tạm lo sau.
Mọi người đồng thanh khen phải.
Mấy người như Nhất Đăng, Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư vốn là các bậc cao sĩ siêu nhiên vật ngoại, không quan tâm thế sự, nhưng sự tồn vong của thành Tương Dương quá hệ trọng, hoặc Hán hoặc Lỗ, đều ở trận này, nên họ không thể khoanh tay làm ngơ.
Thế là không chút chậm trễ, cả bọn đi gấp, mấy hôm sau đã đến vùng ngoại vi thành Tương Dương. Chỉ nghe tiếng tù và nổi lên đây đó, nhìn xa xa tinh kỳ phấp phới, gươm giáo như rừng, ngựa phóng vùn vụt qua lại, bụi tung mù mịt, thành Tương Dương nằm trong vòng vây dày đặc của đại quân Mông Cổ. Mọi người nhìn thanh thế quân địch, không khỏi kinh hãi. Hoàng Dung nói:
- Quân địch dày đặc thế kia, phải chờ đêm tối mới có thể vào thành.
Bảy người bèn nấp trong một cánh rừng, trừ Chu Bá Thông cười hi hi như thường, sáu người còn lại đều ủ dột.
Chờ đến canh hai, Hoàng Dung là người đầu tiên xông vào doanh trại quân địch. Bảy người khinh công tuy cao, nhưng quân doanh Mông Cổ trùng trùng điệp điệp, vượt qua lớp này lại đụng lớp khác, cuối cùng họ bị một đội quân tuần tra phát giác. Tiếng trống, tiếng thanh la trong quân nổi lên, lập tức có ba đội bách phu vây họ lại. Các quân doanh khác hoàn toàn im lặng, không hề kinh động.
Chu Bá Thông đoạt hai ngọn giáo dài, đi trước mở đường. Hoàng Dược Sư và Nhất Đăng mỗi người cầm một cái thuẫn đi sau ngăn chặn truy binh, bốn nữ nhân đi giữa, cùng tiến nhanh về phía trước. May mà trong quân doanh Mông Cổ, quân địch sợ đả thương người ngựa của chúng, không dám bắn tên, bớt được một loại binh khí hết sức lợi hại, nếu không ở chỗ trống trải thế này, vạn mũi tên cùng bắn, bọn Hoàng Dược Sư, Chu Bá Thông dẫu ba đầu sáu tay cũng chẳng thể chống đỡ. Bảy người vừa đánh vừa tiến, quân địch càng lúc càng bu lại, mấy chục ngọn giáo dài xung quanh cùng đâm về phía bảy người. Chưởng phong của Chu Bá Thông, Hoàng Dược Sư, Nhất Đăng đánh tới đâu, gươm giáo của quân địch gãy đến đó. Quân địch tử thương không ít, nhưng chúng cậy đông, vẫn hăng hái lăn xả vào tấn công.
Chu Bá Thông cười nói:
- Hoàng lão tà, ba cái mạng già hôm nay khéo phải bỏ lại đây mất, nhưng lão phải nghĩ cách cứu bốn con nhóc kia mới được.
Anh Cô nguýt lão một cái, nói:
- Nói năng chẳng suy nghĩ gì hết. Lão thái bà đây mà cũng là một con nhóc hay sao? Đã bỏ mạng thì cùng bỏ, chỉ cần cứu ba con nhóc kia là được.
Hoàng Dung thầm kinh hãi: “Lão Ngoan đồng vốn không sợ trời sợ đất, chưa từng nói một câu nhụt chí. Hôm nay sa vào trùng vây, lại bảo phải bỏ cái mạng già, xem chừng nguy thật!” Nhìn bốn phía quân địch đông như kiến có, trừ liều chết khổ chiến, cũng chưa nghĩ ra kế gì khác.
Lại vượt qua mấy lớp quân doanh, Hoàng Dung thấy mé trái có hai doanh trướng lớn màu đen, năm xưa từng theo Thành Cát Tư Hãn tây chinh, biết đấy là chỗ cất giữ lương thực, chợt nảy ra một kế, xông tới cướp một cây đuốc từ tay quân địch, lao thẳng tới kho lương. Quân địch la hét đuổi theo. Hoàng Dung chạy nhanh như một tia chớp, cúi thấp đầu một cái đã chui tọt vào trong doanh trướng, châm lửa vào các xe lương trong đó, giây lát lửa đã bùng lên bảy, tám chỗ. Hoàng Dung mới chạy trở ra hội họp với cả đoàn.
Các xe lương có nhiều vật dễ cháy, gặp lửa liền bùng cháy đùng đùng. Chu Bá Thông thích thú nhìn lửa cháy, cướp luôn hai cây đuốc từ tay quân địch, lao đi đốt các nơi, vô ý đốt một chuồng ngựa, bầy chiến mã tức thời hý lên inh ỏi, bỏ chạy tán loạn, đại doanh quân Mông Cổ nhốn nháo cả lên.
Quách Tĩnh ở trong thành nghe bên ngoài cửa Bắc quân địch huyên náo, bèn chạy ra mặt thành, thấy có mấy đám cháy ngút trời trong quân doanh Mông Cổ, biết có người quấy rối quân địch, bèn điểm hai ngàn binh mã, lệnh cho huynh đệ Võ Đôn Nhu, Võ Tu Văn xuất thành tiếp ứng.
Nhị Võ tiến ra hơn một dặm, trong ánh lửa thấy Hoàng Dược Sư dìu Lục Vô Song, Nhất Đăng dìu Chu Bá Thông, bảy người cưỡi năm con ngựa phi gấp tới. Nhị Võ không xông lên, mà triển khai trận thế, ngăn chặn quân địch đuổi theo, rồi hạ lệnh hậu đội biến thành tiền đội, yểm hộ cho bảy người ung dung rút về thành.
Quách Tĩnh đứng bên bờ thành chờ đón, thấy nhạc phụ, ái thê, Nhất Đăng đại sư, Chu Bá Thông… tới thành thì cả mừng, vội cho mở cổng thành. Thấy Lục Vô Song bị trúng giáo vào lưng, Chu Bá Thông bị trúng ba mũi tên vào lưng, râu tóc cháy xém, hai người bị thương không nhẹ. Trình Anh, Hoàng Dung, Anh Cô cũng đều bị trúng tên, nhưng không vào chỗ yếu hại. Nhất Đăng và Hoàng Dược Sư tinh thông y đạo, sau khi xem kỹ vết thương cho Chu Bá Thông và Lục Vô Song, đều cau mày, không nói gì.
Chu Bá Thông cười, nói:
- Đoàn Hoàng gia, Hoàng lão tà, hai vị đừng buồn. Lão Ngoan đồng còn hăng hái lắm, biết chưa chết được đâu. Hai vị hãy dồn sức chữa cho con nhóc Lục Vô Song kia là được.
Lão vẫn cười đùa với Hoàng Dược Sư, còn đối với Nhất Đăng thì không chỉ kính nể, mà còn hơi sợ. Nhất Đăng xuất gia đã lâu, Chu Bá Thông vẫn cứ gọi là Đoàn hoàng gia. Hoàng Dược Sư và Nhất Đăng thấy Lão Ngoan đồng cố nén đau, cười đùa như thường thì cũng yên tâm hơn. Nhưng Lục Vô Song thì vẫn hôn mê chưa tỉnh.
Hôm sau trời vừa sáng, đã nghe ngoài thành tiếng trống, tiếng tù và inh ỏi. Đại quân Mông Cổ tiến công. An phủ sứ thành Tương Dương Lã Văn Đức, đại tướng giữ thành Vương Kiên đốc suất binh mã giữ bốn cổng thành. Quách Tĩnh và Hoàng Dung lên mặt thành nhìn xuống, thấy quân Mông Cổ hằng hà sa số, không thấy tận cùng. Đại quân Mông Cổ từng mấy phen vây công thành Tương Dương, chưa lần nào binh cường thế mạnh như lần này. May mà Quách Tĩnh ở lâu trong quân đội Mông Cổ, thông thạo rành rẽ các phương lược công thành của chúng, có chuẩn bị sớm, bất kể quân địch sử dụng cung tên, hoả khí, luỹ thạch, thang gỗ tấn công, quân Tống thủ thành từ trên cao đều phá giải tất cả. Đánh nhau đến lúc mặt trời lặn, quân Mông Cổ đã mất hai ngàn binh mã nhưng vẫn cứ dũng cảm xông lên.
Trong thành Tương Dương ngoài mấy vạn tinh binh, còn có vài chục vạn dân, ai ai cũng hiểu, thành này bị hạ sẽ không còn người nào sống sót, cho nên các tráng đinh cầm vũ khí giữ thành đã đành, ngay cả phụ nữ, cụ già, em nhỏ cũng gánh đất khiêng đá, góp sức chống giặc. Nhất thời trong thành ngoài thành tiếng hò hét chấn động đất trời, tên bay trên không như châu chấu.
Quách Tĩnh tay cầm trường kiếm, đứng trên mặt thành đốc chiến. Hoàng Dung đứng bên cạnh chồng, nhìn nửa bầu trời đỏ hồng, cảnh sắc đẹp mê hồn, dưới chân thành, kỵ binh địch phóng qua như gió, có thể nhìn thấy diện mạo hung dữ của một số tên lính, nhìn lại Quách Tĩnh, thấy chồng đứng sừng sững, oai phong lẫm liệt, thì trong lòng dâng lên một niềm ái mộ khó tả. Hai vợ chồng tương kính tương ái, bao năm vẫn như thuở ban đầu, nay cường địch áp cảnh, liệu có thể một lần nữa đánh lui chúng hay chăng, không ai dám đoán trước. Hoàng Dung nghĩ: “Cuộc sống vợ chồng của mình và Tĩnh ca ca ba mươi năm nay phần lớn tâm huyết dành cho thành Tương Dương. Phen này chung sức chống địch, dẫu cả hai vợ chồng mình có phải đổ máu trên mặt thành, cuộc đời coi như cũng không uổng chút nào”. Liếc nhìn chồng, thấy tóc mai bên trái điểm vài sợi bạc, bất giác thương mến, nghĩ: “Mỗi lần quân địch tiến đánh, Tĩnh ca ca lại bạc thêm vài chục sợi tóc”.
Bỗng nghe dưới chân thành quân Mông Cổ cùng hô:
- Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!
Tiếng hô từ xa tới gần, ầm ầm như sóng thuỷ triều, cuối cùng hơn mười vạn người cùng đồng thanh hô lớn, thật đúng như trời đất rung chuyển. Chỉ thấy một lá cờ soái được giơ cao, quân thiết kỵ hộ vệ một cái kiệu xanh có che lọng vàng tiến đến gần, chính là đại hãn Mông Kha lâm trận đốc chiến.
Quan binh Mông Cổ thấy đại hãn thân chinh ra trận, thì sĩ khí tăng mạnh hẳn lên. Chỉ thấy hồng kỳ phất ngang phất dọc, đội ngũ dưới chân thành chia ra hai phía tả hữu, hai vạn nhân đội tiến công gấp cổng Bắc. Đây là thân binh của đại hãn, là đội quân tinh nhuệ nhất, lại chưa hề bị tổn thương, ai ai cũng muốn lập công trước mặt đại hãn, mấy trăm chiếc thang được tấp vào tường thành, binh tướng Mông Cổ như kiến leo lên bờ thành.
Quách Tĩnh thét lớn:
- Hỡi các huynh đệ, hôm nay chúng ta làm cho đại hãn Thát tử chính mắt chứng kiến thân thủ của hảo nam nhi đại Tống.
Tiếng thét của Quách Tĩnh trung khí sung mãn, giữa tiếng huyên náo của hàng vạn người mà ai cũng nghe rõ. Quân Tống trên mặt thành đã đánh suốt một ngày mệt mỏi, nhưng nghe tiếng kêu gọi của Quách Tĩnh, lập tức trở nên hăng hái, đều nghĩ: “Bọn Thát tử khi vũ chúng ta lâu nay, giờ phải làm cho đại hãn của chúng thấy rõ sự lợi hại của quân ta”. Thế là ai nấy ra sức tử chiến.
Thi thể quân địch dần dần chất cao dưới chân thành, đội ngũ phía sau lại trào lên như sóng, đạp lên xác kẻ đã ngã mà tấn công. Các quan tả hữu phi ngựa đi truyền lệnh của đại hãn điều binh khiển tướng. Trong thành ngoài thành hàng vạn bó đuốc đã được đốt lên, chiếu sáng như ban ngày.
An phủ sứ Lã Văn Đức thấy tình thế nguy ngập, cho rằng không giữ nổi thành, khiếp sợ, mặt tái mét, chạy đến chỗ Quách Tĩnh, gọi:
- Quách… Quách đại hiệp, giữ không nổi đâu, chúng… chúng ta rút khỏi thành, chạy về phía nam thôi!
Quách Tĩnh gằn giọng:
- An phủ sứ gì mà nói năng như thế? Thành Tương Dương còn, chúng ta còn. Thành Tương Dương mất, tất cả sẽ chết!
Hoàng Dung nghĩ Lã Văn Đức chỉ cần ra lệnh lui binh, lòng quân sẽ dao động, thành Tương Dương lập tức sẽ thất thủ, bèn chĩa kiếm, quát:
- Ngài chỉ cần nói thêm một lời về việc bỏ thành lui binh, ta sẽ đâm chết ngài tức thời!
Bốn thân binh tả hữu của Lã Văn Đức xông tới ngăn chặn, đều bị Hoàng Dung gạt chân đánh ngã.
Quách Tĩnh quát:
- Mọi người hãy cùng lên mặt thành chống đich, không tử chiến thì còn gì là nam tử hán.
Các thân binh vốn kính phục Quách Tĩnh, nghe tiếng quát oai nghiêm ấy đều đồng thanh khen phải, xông tới bờ thành chống giặc. Đại tướng Vương Kiên nói to:
- Chúng ta liều chết tử thủ, bọn Thát tử sẽ không chịu nổi đâu!
Bỗng nghe viên quan Mông Cổ truyền lệnh nói:
- Chúng quan binh nghe đây! Đại hãn có chỉ dụ, người nào leo lên mặt thành đầu tiên sẽ được làm chúa thành này.
Quân Mông Cổ hò reo hưởng ứng, tướng sĩ ai nấy cũng liều chết xông lên. Viên quan truyền lệnh tay cầm hồng kỳ, qua lại truyền chỉ của đại hãn. Quách Tĩnh giương cung, phóng đi một mũi lang nha tiễn, trúng ngực viên quan truyền lệnh, hắn ngã ngựa liền. Sĩ khí quân địch giảm đi. Không lâu sau, lại có một vạn nhân đội mới áp tới chân thành.
Gia Luật Tề tay cầm giáo dài, chạy tới trước mặt Quách Tĩnh, nói:
- Nhạc phụ, nhạc mẫu! Bọn Thát tử mãnh công không thoái. Con xin xông ra ngoài thành chém giết một trận.
Quách Tĩnh nói:
- Được lắm! Ngươi dẫn bốn ngàn người xông ra, nhưng phải cẩn thận.
Gia Luật Tề lui xuống, lát sau trống trận rền vang, cổng thành mở ra, Gia Luật Tề suất lĩnh một ngàn đệ tử Cái Bang, ba ngàn quan binh chĩa giáo xông ra.
Quân Mông Cổ đang hung hăng đánh thành ở cửa Bắc, thấy quân Tống tràn ra chém giết, bèn rút chạy. Gia Luật Tề dẫn quân đuổi theo. Đột nhiên trong quân Mông Cổ có ba tiếng pháo lệnh, hai vạn nhân đội từ hai phía tả hữu bao vây đội quân bốn ngàn người của Gia Luật Tề vào giữa.
Ba ngàn quan binh được huấn luyện bài bản, võ nghệ thành thạo, lại có một ngàn đệ tử Cái Bang làm cốt cán, tuy bị vây nhưng không hề run sợ. Quách Tĩnh, Hoàng Dung, Lã Văn Đức, Vương Kiên bốn người ở trên mặt thành nhìn xuống, thấy quân Tống trận thế không loạn, lấy một địch mười, hăng hái chống trả, đao quang loang loáng dưới ánh đuốc như hàng vạn con ngân xà chuyển động, thật là một trận đại chiến!
Quân Mông Cổ cậy đông, hai vạn nhân đội vây chặt bốn ngàn tinh binh của Gia Luật Tề, một vạn nhân đội khác lại leo thang công thành.
Quách Tĩnh thấy đội quân của Gia Luật Tề chặn ở bên ngoài, viện binh Mông Cổ điều động bất tiện, bèn hạ lệnh cho huynh đệ họ Võ lui binh một quãng, nhường cho quân Mông Cổ leo lên bờ thành. Nhị Võ vâng lệnh, dẫn binh tạm lui. Lập tức hàng trăm hàng ngàn tên lính Mông Cổ leo lên mặt thành. Ngàn vạn binh lính Mông Cổ bên dưới ngỡ thành đã bị phá, liền hò reo “Vạn tuế! Vạn tuế!”
Lã Văn Đức mặt như chàm đổ, toàn thân run rẩy, nói:
- Quách đại hiệp… giờ.. giờ phải làm sao? Chúng… ta… làm thế….
Quách Tĩnh không nói, chờ chừng năm ngàn quân Mông Cổ leo lên mặt thành, bèn phất lá cờ đen một cái, trống trận bỗng rền vang. Chu Tử Liễu và Võ Tam Thông mỗi người suất lĩnh một đội tinh binh từ chỗ mai phục xông ra, không để cho quân Mông Cổ leo lên mặt thành nữa. Năm ngàn quân Mông Cổ đã leo lên mặt thành liền bị vây chặt lại.
Lúc này quân Tống ở ngoài thành bị vây, quân Mông Cổ ở trong thành bị vây. Ba cửa Đông, Tây, Nam đều diễn ra ác chiến, tiếng hò hét chém giết dậy đất.
Đại hãn Mông Cổ cưỡi ngựa đứng trên một cái gò nhỏ, thân chinh đốc chiến. Hơn hai trăm chiếc trống lớn mặt da gõ ầm ầm điếc tai, át hết mọi tiếng nói chuyện. Chỉ thấy nào thiên phu trưởng, bách phu trưởng, kẻ chết, kẻ bị thương, áo giáp loang máu, được cáng từ trận tiền về. Đại hãn Mông Kha từng trải trăm trận, từng tây chinh, tiêu diệt liên quân các nước châu Âu, tiến đến tận sông Đa-nuýp, tận thành Viên, lúc này nhìn cảnh ác chiến cũng không khỏi kinh hãi: “Người ta cứ bảo bọn Nam man khiếp hãi vô dụng, kỳ thực họ chẳng thua gì tinh binh Mông Cổ ta!”
Lúc này đã là nửa đêm, trăng sao đều sáng, mây mỏng gió nhẹ, trên trời hiền hoà, nhưng dưới đất thì mười mấy vạn người đang liều mình ác chiến.
Trận chiến kéo dài từ sáng sớm đến nửa đêm, song phương đều tử thương nặng nề, bất phân thắng bại. Quân Tống chiếm địa lợi, quân Mông Cổ có ưu thế số đông.
Lại đánh hồi lâu. Bỗng nghe tiền quân có tiếng huyên náo, một đội quân Tống xông thẳng tới chiếc gò nhỏ. Thân binh hộ tống đại hãn vội bắn tên rào rào ngăn chặn. Mông Kha từ trên gò cao nhìn xuống, thấy một viên tướng hai tay cầm hai ngọn giáo, cưỡi một con ngựa cao lớn, tả xung hữu đột giữa chiến trận, tên bắn như mưa về phía viên tướng đó đều bị y gạt hết. Mông Kha giơ tay trái lên, tiếng trống liền ngưng, Mông Kha quay sang hỏi tả hữu:
- Người kia dũng mãnh thế, không biết là ai?
Một vị tướng bạc đầu ở bên trái nói:
- Khải bẩm bệ hạ. Người ấy là Quách Tĩnh. Năm xưa Thành Cát Tư Hãn phong y làm Kim đao phò mã, viễn chinh Tây Vực, lập nhiều chiến công.
Mông Kha lạc giọng nói:
- À, thì ra là y! Tướng quan thần dũng, quả nhiên danh bất hư truyền!!
Các tướng tả hữu nghe Mông Kha khen tướng địch, đều không bằng lòng. Bốn danh tướng liền cùng hô to, tế ngựa xông ra.
Quách Tĩnh thấy có bốn người thân cao ngựa lớn, hai đội mũ trắng của vạn phu trưởng, hai đội mũ hồng của thiên phu trưởng, thét vang như sấm, phi ngựa tới gần mình, keng một tiếng, làm gãy cán đại đao của một tên thiên phu trưởng, rồi đâm giáo xuyên qua ngực hắn. Hai vạn phu trưởng cùng xông tới, hai cây thiết thương ép mũi giáo của Quách Tĩnh lại, xà mâu của một tên thiên phu trưởng thì đánh tới bụng dưới của Quách Tĩnh. Cả bốn người đều sử dụng binh khí dài, không tiện chuyển gấp, Quách Tĩnh buông ngọn giáo dài, lách người sang bên phải tránh mũi xà mâu của tên thiên phu trưởng, đồng thời lật hai cổ tay chụp lấy mũi thương của hai vạn phu trưởng, quát to một tiếng như tiếng sấm nổ giữa trời xanh, giật mạnh hai mũi thương. Hai tên vạn phu trưởng tuy là dũng sĩ có tiếng trong quân Mông Cổ, nhưng chịu sao nổi thần lực của Quách Tĩnh? Lập tức cánh tay tê dại, thiết thương rời tay. Quách Tĩnh không kịp đảo mũi thương, tiện thể thúc ra, hự hự hai tiếng, hai cán thiết thương thúc vào ngực hai tên vạn phu trưởng, may mà chúng mặc áo giáp nên không bị thủng ngực, song cũng hộc máu, ngã lăn xuống ngựa.
Tên thiên phu trưởng rất quả cảm, tuy thấy ba người kia đều bỏ mạng, vẫn đâm xà mâu tới. Quách Tĩnh dùng thiết thương bên tay trái gạt xà mâu của hắn, thiết thương bên tay phải thì đánh xuống đỉnh đầu hắn, bộp một cái, hắn vỡ sọ liền.
Bọn thân binh thấy Quách Tĩnh trong giây lát đánh chết bốn viên dũng tướng, thảy đều kinh hãi, tuy ở bên cạnh đại hãn, cũng không ai dám xông ra trổ tài, chỉ không ngớt bắn tên. Quách Tĩnh định phi ngựa xông lên gò, nhưng mấy trăm mũi thương dài chĩa ra tua tủa nhiều lớp bảo vệ đại hãn, khiến Quách Tĩnh không thể tiến đến gần. Đột nhiên con ngựa hí một tiếng thảm thiết, khuỵa hai vó trước, nó đã bị trúng hai mũi tên vào ngực. Quân Mông Cổ hò reo xông tới.
Chỉ thấy Quách Tĩnh bật dậy, chĩa thương đâm chết một tên bách phu trưởng, nhảy lên ngựa của hắn, thoáng chốc đã giết thêm mười mấy quan binh Mông Cổ.
Mông Kha thấy Quách Tĩnh xung sát giữa ba quân như ở chỗ không người, quan binh Mông Cổ tuy đông nhưng không làm gì nổi, thì cau mày, hạ lệnh:
- Ai giết được Quách Tĩnh, lập tức thưởng hoàng kim vạn lượng, quan thăng ba cấp!
Phần thưởng khích lệ quan binh tràn lên như nước lũ.
Quách Tĩnh thấy tình thế nguy cấp, lại không thể tiến đến chỗ đại hãn, bèn vung giáo đánh dạt mấy tên lính Mông Cổ ở gần, lắp tên giương cung bắn về phía Mông Kha. Mũi tên xé gió lao đi nhanh như tia chớp, thẳng tới chỗ đại hãn. Thân binh hộ giá cả kinh, hai bách phu trưởng vội lấy thân mình che trước mặt đại hãn, mũi tên dài xuyên qua tên thứ nhất, vẫn còn đà, lại xuyên tiếp qua ngực tên thứ hai, thành một chuỗi ngay trước mặt Mông Kha.
Mông Kha thấy vậy không khỏi biến sắc, bọn thân binh vội hộ giá đại hãn rút khỏi chiếc gò.
Đúng lúc ấy trong quân Mông Cổ có tiếng kêu la, một cánh quân Tống xông tới, dẫn đầu là một người múa hai cái mái chèo bằng sắt, chính là Tứ Thuỷ Ngư Ẩn. Nguyên Hoàng Dung thấy Quách Tĩnh hãm trận, không yên tâm, lệnh cho Tứ Thuỷ Ngư Ẩn dẫn hai ngàn quân xông ra tiếp ứng. Quân Mông Cổ thấy đại hãn rút lui, trận thế hơi rối loạn.
Hoàng Dung trên mặt thành thấy rõ, hạ lệnh:
- Mọi người cùng kêu to lên, rằng đại hãn Mông Cổ chết rồi!
Binh sĩ liền hô lớn:
- Đại hãn Mông Cổ chết rồi! Đại hãn Mông Cổ chết rồi!
Binh sĩ thành Tương Dương nhiều năm đánh nhau với quân Mông Cổ, những người thông minh đều học nói vài câu tiếng Mông Cổ, lúc này có người hô to bằng tiếng Mông Cổ.
Quan binh Mông Cổ nghe tiếng hô, đều nghển cổ ngó lại phía sau, thấy đại hãn quả nhiên đã rút, cờ suý phía đó tản dần, nào biết thật giả, cứ tưởng đại hãn đã chết thật, lòng quân lập tức rối loạn, mất chí chiến đấu, lũ lượt tháo lui.
Hoàng Dung hạ lệnh truy sát, mở toang cổng thành. Ba vạn tinh binh ùa ra. Bốn ngàn quân do Gia Luật Tề suất lĩnh đã tổn thất một nửa, nửa còn lại thừa thế truy kích. Quan binh Mông Cổ từng trải chiến trận, tuy bại không loạn, tinh binh đoạn hậu, chậm rãi rút về phía bắc, quân Tống khó lòng lại gần. Riêng năm ngàn quân Mông Cổ tinh nhuệ leo được vào trong thành Tương Dương thì không một ai sống sót.
Khi quân Mông Cổ rút hết khỏi cả bốn cửa thành, thì trời đã sáng rõ. Trận đại chiến này kéo dài đủ mười hai canh giờ, máu chảy đầy đồng, thây chất thành núi. Ngựa chết, giáo gãy, cờ rách la liệt trong vòng mười dặm.
Trận này quân Mông Cổ tử thương hơn bốn vạn, quân Tống thủ thành cũng tử thương hai vạn ba ngàn người, từ khi Mông Cổ hưng binh xâm lăng phương nam đến nay, chưa bao giờ thảm liệt như trận này.
Quân Tống giữ thành Tương Dương tuy đánh lui quân địch, nhưng khắp nơi trong thành đều có tiếng khóc, mẹ khóc con, vợ khóc chồng.
Quách Tĩnh, Hoàng Dung không kịp cởi áo giáp nghỉ ngơi, phải đi tuần thị bốn cổng thành, thăm hỏi tướng sĩ. Khi ghé thăm Chu Bá Thông và Lục Vô Song, thấy hai người đã đỡ. Chu Bá Thông không chịu nằm bệt một chỗ, cứ đi đi lại lại trong hoa viên. Quách Tĩnh, Hoàng Dung nhìn nhau mỉm cười, mới trở về phủ nghỉ ngơi.
Sáng sớm hôm sau, Quách Tĩnh đang ở trong dinh An phủ sứ thương nghị quân tình với Lã Văn Đức và đại tướng Vương Kiên, thì có tin báo rằng có một vạn quân Mông Cổ đang tiến đến cửa Bắc. Lã Văn Đức kinh ngạc nói:
- Tại sao… vừa rút đi đã lại kéo đến? Thật là khó hiểu!
Quách Tĩnh đập bàn đứng dậy, lên mặt thành quan sát, thấy vạn nhân đội của địch bày trận cách thành mấy dặm, chứ không tấn công. Lát sau, hơn một ngàn thợ mộc gánh đá đóng cọc, khuân gỗ, dựng lên một cái đài cao hơn mười trượng.
Lúc này Hoàng Dược Sư, Hoàng Dung, Nhất Đăng, Chu Tử Liễu đều đã ra mặt thành quan sát, thấy quân Mông Cổ dựng cái đài cao, đều không hiểu. Chu Tử Liễu nói:
- Bọn Thát tử dựng cái đài cao, nếu để nhìn trộm quân tình trong thành, thì không làm cách xa như thế. Hơn nữa quân ta chỉ cần bắn hoả tiễn, sẽ lập tức thiêu huỷ. Cái đài cao ấy thật vô dụng.
Hoàng Dung trầm ngâm, nhất thời cũng chưa biết dụng ý của quân địch.
Cái đài cao dựng xong, thấy mấy trăm quân Mông Cổ đánh ngựa chở củi cỏ đến chất xung quanh đài, như thể chuẩn bị đốt cháy nó đi. Mọi người càng lấy làm lạ. Chu Tử Liễu nói:
- Chẳng lẽ quân địch công thành không nổi, đi dựng đàn cầu trời, hoặc giả bày trò yêu pháp gì đây?
Quách Tĩnh nói:
- Tiểu đệ ở lâu trong quân Mông Cổ, chưa hề thấy họ giở trò lạ lùng thế này bao giờ.
Vừa nói vừa nhìn, thấy cả ngàn binh sĩ Mông Cổ dùng cuốc xẻng đào xung quanh cái đài cao một cái hào vừa sâu vừa rộng, đất đào lên thì đắp thành bờ phía ngoài hào như một bức tường đất. Hoàng Dược Sư tức giận nói:
- Thành Tương Dương là quê của Gia Cát Lượng thời Tam Quốc, bọn Thát tử vô lễ, giở trò múa rìu qua mắt vị đại hiền, chẳng hoá ra coi khinh người Tống lắm sao?
Chỉ nghe tiếng tù và, tiếng trống vang lên, một vạn nhân đội tiến đến dàn trận bên trái cái đài cao, một vạn nhân đội khác dàn trận bên phải cái đài. Trận thế dàn xong, lại thêm một vạn nhân đội dàn ra phía trước đài, cùng ba vạn nhân đội kia, tổng cộng thành bốn vạn nhân đội xung quanh cái đài cao. Đại trận trải dài mấy dặm, gươm giáo, cung thủ, trường mâu thủ, trảm mã thủ, thiết xung thủ tầng tầng lớp lớp vây quanh cái đài cao.
Bỗng nghe pháo hiệu, tiếng trống ngừng bặt, mấy vạn người im phăng phắc, từ xa có hai người phi ngựa đến chân đài. Hai người xuống ngựa, dắt tay nhau đi lên cái đài cao, chỉ vì quá xa nên không nhìn rõ diện mạo hai người ấy, chỉ lờ mờ đoán là một nam một nữ.
Mọi người đang kinh ngạc, Hoàng Dung đột nhiên kêu lên một tiếng, ngã ngửa ra sau, ngất đi. Mọi người vội cứu tỉnh, cùng hỏi:
- Sao? Chuyện gì vậy?
Hoàng Dung mặt tái nhợt, run giọng, nói:
- Là Tương nhi, là Tương nhi!
Mọi người kinh hãi nhìn nhau. Chu Tử Liễu nói:
- Quách phu nhân, phu nhân nhìn rõ chứ?
Hoàng Dung nói:
- Muội nhìn không rõ mặt mũi, nhưng xét về lý, thì nhất định là Quách Tương. Bọn Thát tử đánh thành không được, cuối cùng thực thi gian kế. Thật là… thật là quá đê hèn.
Hoàng Dược Sư và Chu Tử Liễu nghe Hoàng Dung nói, đã hiểu ra, tỏ vẻ tức giận. Quách Tĩnh thì chưa hiểu, hỏi:
- Tương nhi sao lại ở trên cái đài kia? Bọn Thát tử thực thi gian kế gì?
Hoàng Dung đứng thẳng người, hiên ngang nói:
- Tĩnh ca ca! Tương nhi không may sa vào tay bọn Thát tử. Bọn địch dựng cái đài cao kia, chất củi cỏ bên dưới, là định thiêu sống Tương nhi để ép Tĩnh ca ca đầu hàng. Nếu ca ca không đầu hàng, chúng sẽ phóng hoả để vợ chồng ta đau đứt ruột, thần trí rối loạn, không thể chuyên tâm giữ thành.
Quách Tĩnh vừa kinh ngạc vừa tức giận, hỏi:
- Tương nhi tại sao lại sa vào tay bọn Thát tử?
Hoàng Dung nói:
- Mấy ngày qua quân vụ khẩn cấp, thiếp sợ tướng công phân tâm, nên chưa kể.
- Dung nhi! Nàng làm thế là sai. Dương Quá sống chết chưa rõ, sao nàng lại bỏ đấy mà đi?
Nhất Đăng nói:
- Quách phu nhân đã lặn xuống đầm nước băng giá, suýt bị đông cứng, để tìm Dương Quá dưới đáy cốc. Huống hồ tiểu cô nương nằm trong tay gian tặc, mọi người đều chủ trương đuổi theo hắn trước, không nên trách Quách phu nhân.
Nhất Đăng nói thế, Quách Tĩnh không dám trách thêm, chỉ bực bội nói:
- Con nhãi Quách Tương gây lắm chuyện rắc rối. Nếu Dương Quá có mệnh hệ gì, chúng ta làm sao có thể an tâm? Cứ để cho bọn Thát tử thiêu sống con nhãi đi.
Hoàng Dung không nói gì, quay mình rời khỏi mặt thành. Mọi người đang bàn cách làm thế nào cứu Quách Tương, bỗng thấy cổng thành mở, một người cưỡi ngựa phóng ra phía bắc, chính là Hoàng Dung. Ai cũng kinh ngạc. Quách Tĩnh, Hoàng Dược Dư, Nhất Đăng, Chu Tử Liễu vội lên ngựa đuổi theo.
Đoàn người phi ngựa về phía cái đài cao, dừng lại ở chỗ cũng tên của quân địch bắn không tới. Chỉ thấy trên đài cao có hai người, một mặc áo hoàng bào, chính là Kim Luân pháp vương, người kia bị trói vào một cây cột, chính là Quách Tương.
Quách Tĩnh tuy giận con thường gây lắm chuyện rắc rối, nhưng vẫn là tình cha con, làm sao không lo, bèn cao giọng gọi:
- Tương nhi! Đừng sợ! Có cha mẹ đến cứu con đây!
Quách Tĩnh nội lực dồi dào, tiếng nói vang rành rọt lên cái đài cao. Tương nhi bị ánh nắng hun nóng đang như người say nắng, bỗng nghe tiếng gọi của phụ thân, liền mừng rỡ đáp lại:
- Gia gia, má má!
Kim Luân pháp vương cười ha ha, dõng dạc nói:
- Quách đại hiệp! Đại hiệp muốn ta phóng thích lệnh ái thì không khó chút nào. Chỉ sợ đại hiệp không có can đảm mà thôi.
Quách Tĩnh vốn trầm ổn hậu trọng, càng nguy cấp càng trầm tĩnh, nghe Kim Luân pháp vương nói thế vẫn không giận, nói:
- Pháp vương có việc gì khó, xin cứ cho biết.
Pháp vương nói:
- Nếu đại hiệp có lòng từ tâm của người làm cha, thì hãy lên đài chịu trói đổi người. Lão phu sẽ lập tức thả lệnh ái ra.
Pháp vương thừa biết Quách Tĩnh hiểu rõ đại nghĩa, không đời nào chịu vì nhi nữ mà thí bỏ trăm họ trong thành Tương Dương, nên mới nói khích để Quách Tĩnh bày tỏ sự can đảm mà mắc mưu lão ta. Nhưng Quách Tĩnh đâu dễ mắc lừa, nói:
- Thát tử nếu không sợ Quách mỗ, hà tất phải gây khó dễ đối với một tiểu nữ nhi? Thát tử đã sợ Quách mỗ, thì tấm thân này sao lại dễ dàng chịu chết?
Pháp vương cười khẩy, nói:
- Người ta bảo Quách đại hiệp võ công trác tuyệt kiêu dũng vô luân, kỳ thực chỉ là một kẻ tham sinh uý tử.
Cái kế khích tướng của Pháp vương nếu đem dùng với người khác thì có thể thu kết quả, nhưng Quách Tĩnh liên quan đến sự an nguy của cả thành Tương Dương, nên chỉ cười nhạt, không thèm lý đến.
Mấy câu nói của Pháp vương làm cho Võ Tam Thông và Tứ Thuỷ Ngư Ẩn tức giận. Hai người một vung thiết chuỳ, một vung cặp mái chèo, phi ngựa lên phía trước. Mấy ngàn xạ thủ Mông Cổ giương cung lắp tên, chờ hai người tới gần sẽ bắn, biến họ thành hai con nhím. Nhất Đăng thấy vậy liền phi thân xuống ngựa, nhảy ba bước đã tới chặn trước đầu ngựa hai đệ tử, quát:
- Quay trở lại!
Võ Tam Thông và Tứ Thuỷ Ngư Ẩn thừa biết xông lên chỉ có chết, thấy sư phụ ngăn cản, bèn quay ngựa chạy trở lại. Quan binh Mông Cổ thấy vị hoà thượng cao niên đuổi vượt cả ngựa phi, thì hoan hô rầm trời.
Kim Luân pháp vương nói:
- Quách đại hiệp! Lệnh ái thông minh lanh lợi, lão phu rất mến nó, có ý nhận nó làm đệ tử, truyền cho y bát. Nhưng đại hãn có chỉ, nếu Quách đại hiệp không quy hàng, sẽ thiêu sống nó trên đài cao. Chẳng riêng Quách đại hiệp đau đớn cho ái nữ, lão phu cũng lấy làm tiếc lắm, mong đại hiệp nghĩ cho kỹ.
Quách Tĩnh hừ một tiếng, nhìn bốn chục tên cầm đuốc đứng cạnh đống củi cỏ dưới chân đài cao, chỉ cần Kim Luân pháp vương phát lệnh sẽ châm lửa. Bốn vạn nhân đội vây kín cái đài cao, thân xác trần tục không tài gì vượt qua đó, huống hồ có xông đến gần, địch phóng hoả thì làm sao cứu được nữ nhi xuống?
Quách Tĩnh ở lâu trong quân Mông Cổ, biết quân Mông Cổ dụng binh tàn bạo, cướp đất hạ thành, trong một ngày có khi thảm sát hàng vạn phụ nữ trẻ thơ, nếu chúng thiêu sống Quách Tương thì cũng giống như chúng xéo lên một con kiến, mới ngẩng đầu lên, thấy sắc diện tiều tuỵ của nữ nhi, tự dưng lòng đau như cắt, bèn gọi to:
-Tương nhi! Con là hảo nữ nhi của Đại Tống, khẳng khái tựu nghĩa, chớ run sợ. Cha mẹ hôm nay không thể cứu con, mai sau nhất định sẽ giết tên ác tăng này trả thù cho con. Con hiểu chứ?
Quách Tương nuột lệ gật đầu, đáp to:
- Gia gia má ma! Hài nhi không sợ đâu!
Quách Tĩnh nói:
- Thế mới là hảo nữ nhi của ta!
Đoạn giương cung, bắn liền ba mũi tên dài, ba tên lính Mông Cổ cầm đuốc đứng dưới chân đài cao ngã vật xuống vì bị tên xuyên qua ngực. Quách Tĩnh học xạ thuật từ đại tướng Mông Cổ “Thần tiễn” Triết Biệt, cộng với mấy chục năm tu vi, chỗ Quách Tĩnh đứng tên của địch không thể bắn tới, song Quách Tĩnh vẫn có thể bắn tới kẻ địch. Quân Mông Cổ cùng kêu lên kinh hãi, giơ mộc hộ thân. Quách Tĩnh nói:
- Đi thôi!
Rồi quay đầu cùng Hoàng Dung quay về thành.
Mọi người về đứng trên mặt thành. Hoàng Dung thẫn thờ nhìn cái đài cao, tâm trí rối bời.
Nhất Đăng nói:
- Thát tử trị quân nghiêm chỉnh, muốn cứu Quách Tương, phải tìm cách trước tiên làm rối loạn bốn vạn nhân đội ở xung quanh cái đài cao.
Hoàng Dược Sư nói:
- Đúng thế!
Lão ngẫm nghĩ, rồi nói:
- Dung nhi, chúng ta sử dụng đại trận Nhị thập bát tú, đấu với Thát tử một phen.
Hoàng Dung cúi đầu, nói:
- Dù có thắng địch, Thát tử phóng hỏa đốt cái đài cao thì biết làm sao?
Quách Tĩnh hiên ngang nói:
- Chúng ta tận lực giết địch, Tương nhi sống hay chết còn tùy ý trời. Nhạc phụ, xin hỏi cách bày trận Nhị thập bát tú thế nào?
Hoàng Dược Sư cười, nói:
- Trận pháp này biến hóa rắc rối, năm xưa sau khi quan sát Thiên Cang Bắc Đẩu trận của phái Toàn Chân, ta ngẫm nghĩ mãi, tìm học trận pháp của cổ nhân, sáng tạo ra trận Nhị thập bát tú, định tranh cao thấp với các đạo sĩ phái Toàn Chân.
Nhất Đăng nói:
- Thuật Ngũ hành kỳ môn của Hoàng lão tà độc bộ thiên hạ, đại trận Nhị thập bát tú hẳn là huyền diệu.
Hoàng Dược Sư nói:
- Trận pháp Nhị thập bát tú vốn chỉ để đấu với vài chục người trong võ lâm, chứ không nghĩ đánh với thiên quân vạn mã. Nhưng nếu biến hóa, có khi cũng hữu dụng, chỉ tiếc thiếu mất đôi chim điêu.
Nhất Đăng nói:
- Xin được biết rõ hơn.
Hoàng Dược Sư nói:
- Đôi chim điêu giá không bị gã gian tăng giết hại, khi trận pháp phát động, đôi chim điêu sẽ có thể bay tới cái đài cao cứu Quách Tương, giờ thì chưa có cách nào hay hơn. Đại trận Nhị thập bát tú là dựa trên sự biến hóa ngũ hành sinh khắc, do năm vị cao thủ chủ trì. Chúng ta bốn phương vị Đông, Nam, Bắc, Trung đều có người, nhưng Lão Ngoan đồng bị trọng thương, thiếu một một người ở mé Tây. Nếu Dương Quá ở đây, võ công của y không thua gì Âu Dương Phong thời trước, bây giờ biết tìm đâu ra y? Chủ tướng mé Tây thiếu không được.
Quách Tĩnh nhìn lướt qua cái đài cao, nhìn xa tít về trời mây phương bắc, nghĩ đến Tuyệt Tình cốc, miệng lẩm bẩm:
- Quá nhi sống chết sao đây, thật khiến người ta lo quá!
Hôm Dương Quá đứng trước Đoạn Trường nhai, biết không thể gặp lại Tiểu Long Nữ, đau đớn nhảy xuống vực sâu, nghĩ rằng sẽ thịt nát xương tan, không ngờ rơi xuống hồi lâu, đột nhiên “ùm” một cái, lại rơi xuống một cái đầm nước. Chàng rơi từ trên cao hàng trăm trượng, xung lực cực mạnh, cứ thế chìm thẳng xuống, cũng không biết chìm sâu bao nhiêu thước nước, đột nhiên trước mắt sáng bừng, tựa hồ nhìn thấy một cái thủy động, đang ngưng thần nhìn kỹ, thì ở dưới sâu lực đẩy lên rất mạnh, người chàng tự nổi lên, đúng lúc ấy thấy Quách Tương rơi xuống đầm.
Lúc này chuyện lạ cứ thế nối tiếp, Dương Quá chưa kịp nghĩ kỹ, chờ Quách Tương nổi lên mặt nước, chàng giơ tay kéo nàng lên bờ đầm, hỏi:
- Tiểu muội tử, tại sao lại ngã xuống đây?
Quách Tương nói:
- Muội thấy đại ca ca nhảy xuống, thì muội cũng nhảy theo.
Dương Quá lắc đầu, nói:
- Loạn quá, loạn quá! Tiểu muội tử chẳng lẽ không sợ chết?
Quách Tương mỉm cười, nói:
- Đại ca ca không sợ chết, thì tiểu muội cũng chả sợ.
Dương Quá chợt nghĩ: “Chẳng lẽ tiểu cô nương này cũng có thâm tình với ta như vậy?” Nghĩ vậy, bất giác tay run run.
Quách Tương rút trong bọc ra cây kim châm cuối cùng, nói:
- Đại ca ca, lần ấy đại ca ca đưa cho tiểu muội ba cây kim châm, bảo cho tiểu muội ba điều ước, đại ca ca đều sẽ đáp ứng. Hôm nay tiểu muội cầu xin đại ca ca, bất kể Dương đại tẩu có thể tái hợp với đại ca ca hay không, đại ca ca cũng đừng tự vẫn.
Đoạn đưa cây kim châm cho chàng.
Dương Quá nhìn cây kim châm trong tay, run giọng hỏi:
- Tiểu muội tử từ thành Tương Dương đến đây, chỉ để cầu xin một việc ấy thôi ư?
Quách Tương vui vẻ nói:
- Đúng vậy, đại trượng phu nói sao làm vậy, đại ca ca đã hứa đáp ứng tiểu muội rồi đấy.
Dương Quá thở dài, một người vừa trải qua một phen từ sống đến chết, lại từ cõi chết sống lại, hẳn sẽ không muốn chết một lần nữa. Chàng nhìn Quách Tương từ đầu xuống chân, thấy nàng ướt sũng cả người, răng đánh cầm cập, nhưng sắc diện vui vẻ, bèn nhặt củi khô định đốt lửa, nhưng đồ đánh lửa hai người mang theo đều bị ướt, không sử dụng được, chàng đành nói:
- Tiểu muội tử, hãy vận nội công để hàn khí khỏi ngấm vào người dễ sinh bệnh.
Quách Tương vẫn chưa yên tâm, hỏi:
- Đại ca ca có đáp ứng tiểu muội sẽ không tự vẫn nữa chứ?
Dương Quá đáp:
- Có!
Quách Tương mừng rỡ nói:
- Vậy hai chúng ta cùng vận công.
Hai người ngồi kề bên nhau, vận khí điều tức.
Dương Quá từ nhỏ đã luyện nội công trên chiếc giường hàn ngọc, chút khí lạnh này chẳng đáng gì, chàng đưa tay xoa xoa huyệt Thần Đường ở sống lưng Quách Tương, một luồng khí dương hòa ấm áp truyền sang cơ thể nàng. Lát sau Quách Tương cảm thấy huyết mạch toàn thân thông suốt dễ chịu.
Đợi khi Quách Tương dễ chịu hoàn toàn, Dương Quá mới hỏi tại sao nàng đến Tuyệt Tình cốc. Quách Tương kể lại. Dương Quá tức giận nói:
- Kim Luân pháp vương thật đáng ghét, chờ khi nào chúng ta tìm được lối leo lên, đại ca ca của tiểu muội tử sẽ đánh cho lão ta một trận thừa sống thiếu chết.
Lời chưa dứt, bỗng có một con chim điêu rơi xuống đầm, chìm xuống rồi nổi lên, nó bị thương rất nặng.
Quách Tương kêu lên:
- Là con chim điêu của nhà tiểu muội.
Lại thấy con chim điêu mái bay xuống, cõng con chim điêu trống đưa lên. Lần thứ hai con chim điêu mái bay xuống, Dương Quá đặt Quách Tương lên lưng con chim điêu, đoán rằng nó sẽ trở xuống đưa chàng lên, ai ngờ chờ mãi vẫn không thấy, chàng đâu biết con chim điêu mái đã tuẫn tình mà chết.
Chờ chim điêu không thấy, Dương Quá bèn quan sát cảnh vật bên đầm nước. Thấy trên cây lớn có treo mấy chục cái đõ ong. Đõ ong ở đây to hơn loại đõ ong thông thường, và bay lượn quanh đõ ong chính là loài ong ngọc phong Tiểu Long Nữ từng nuôi ở tòa cổ mộ.
Dương Quá vừa nhìn thấy liền kêu lên kinh ngạc, sững người một lát, mới lại bên quan sát các đõ ong, biết đó là do tay người làm ra, không chừng có dấu tích của Tiểu Long Nữ.
Chàng định thần, nghĩ: “Không lẽ năm xưa Tiểu Long Nữ nhảy xuống đây, hiện vẫn còn sống?” Chàng đi quanh đầm nước lạnh quan sát một lượt, thấy bốn phía đều là vách đá dựng đứng, giống như mình đang ở dưới đáy một cái giếng khổng lồ, có câu “ếch ngồi đáy giếng nhìn trời”, nhưng từ đây nhìn lên chỉ thấy sương mù, nào thấy ánh nắng?
Dương Quá bẻ mấy thân cây, gõ mạnh vào vách núi bốn phía, không thấy dị trạng, nhưng nhìn kỹ, phát hiện một số cây bị người ta bóc vỏ, một số hòn đá được kê ngay ngắn cạnh cây hoa, không phải là tự nhiên, mà có bàn tay con người sắp đặt, thì chàng hồi hộp, trống ngực đập mạnh, lúc này chàng đoán chắc Tiểu Long Nữ ở đây, chỉ không biết đằng đẵng mười sáu năm rồi, người ngọc giờ đây thế nào? Dương Quá vốn không tin quỉ thần, nhưng lúc này hồi hộp quá, chàng quì xuống mà khấn:
- Lạy trời phù hộ cho con gặp lại Long nhi!
Khấn cầu mấy lần, tìm kiếm một hồi, vẫn không thêm dấu tích gì. Dương Quá ngồi dưới một gốc cây ngẫm nghĩ: “Nếu Long nhi đã chết, cũng phải còn hài cốt chứ, trừ phi hài cốt ở dưới đáy đầm”. Nhớ lúc chìm xuống đầm từng thấy có một vầng sáng rộng, thật khó hiểu, chắc phải có gì dưới đó, chàng liền đứng dậy.
Chàng nói to:
- Lành dữ gì cũng phải tìm cho ra chân tướng, tìm bao giờ thấy hài cốt của nàng mới thôi.
Chàng liền nhảy xuống đầm, lặn hẳn xuống chỗ sâu. Càng xuống sâu càng lạnh buốt, lặn một hồi, thấy bốn phía toàn là băng màu xanh sẫm. Dương Quá tuy không sợ lạnh, nhưng ở chỗ sâu lực đẩy lên rất mạnh, chàng cố gắng mấy lần cũng chỉ lặn sâu thêm vài trượng, vẫn chưa tới đáy, đã tức thở, phải ngoi lên mặt nước.
Chàng lên bờ bưng một hòn đá lớn, rồi lại nhảy xuống. Lần này chàng chìm rất nhanh, chợt thấy trước mắt sáng bừng, vội bơi tới chỗ quầng sáng, chỉ thấy một dòng nước chảy mạnh cuốn chàng đi, hóa ra quầng sáng quả nhiên là một cái động. Chàng quẳng hòn đá đi, tay chân cùng bơi trong động, đây là một cái hố băng chênh chếch lên cao. Chàng thuận thế bơi lên, không lâu thì lên tới mặt nước, cảm thấy ánh nắng lóa mắt, mùi hoa thơm nức, như lạc vào một thế giới khác. Chàng chưa vội bò lên bờ, đưa mắt nhìn quanh, chỉ thấy cỏ xanh và vô vàn hoa lá, như thể trong một hoa viên cực lớn, nhưng im ắng không một bóng người. Chàng vừa kinh ngạc vừa vui mừng, vọt lên bờ, thấy cách hơn mười trượng có một ngôi nhà tranh.
Chàng chạy nhanh về phía đó, nhưng được ba, bốn trượng, thì dừng lại bước thong thả, nghĩ: “Nếu trong nhà không có dấu vết gì về Long nhi thì sao?” Càng đến gần ngôi nhà, chàng càng bước chậm hơn, trong thâm tâm chỉ sợ tất cả chỉ là ảo ảnh, còn cách một trượng cuối cùng, chàng dỏng tai nghe ngóng, bốn phía vẫn im ắng, không tiếng chim tiếng người, chỉ có tiếng ong vo ve.
Chàng chờ một lát, cuối cùng đánh bạo nói, giọng run run:
- Dương mỗ mạo muội bái yết, xin cho gặp mặt.
Trong nhà không có tiếng trả lời, chàng giơ tay đẩy nhẹ, cửa mở ra nghe két một cái.
Dương Quá bước vào, vừa nhìn lướt qua đã chấn động toàn thân, thấy bên trong bầy biện đơn giản, nhưng vô cùng sạch sẽ, gian ngoài chỉ có một cái bàn một cái ghế, không còn vật gì khác, vị trí kê bàn ghế cũng vô cùng quen thuộc, chẳng khác gì ở trong tòa cổ mộ. Không cần suy nghĩ, chàng tự dưng đi sang bên trái, quả nhiên thấy một gian buồng nhỏ, qua gian này tới một gian rộng hơn, giường ghế ở đây kê y hệt ở trong phòng ngủ của tòa cổ mộ, chỉ khác là ở đây dụng cụ toàn làm bằng cành cây ghép lại.
Gian bên phải có một cái giường, kiểu như cái giường hàn ngọc chàng luyện công hồi nhỏ, cạnh đó chăng ngang một sợi dây, để chàng nằm luyện khinh công, một ô cửa sổ nhỏ, nơi chàng đọc sách, viết chữ. Từ lúc bước vào đây sờ giường sờ ghế, Dương Quá đã rưng rưng nước mắt, lúc này chàng không nhịn được nữa, lệ chảy ròng ròng.
Bỗng cảm thấy có một bàn tay mềm mại vuốt nhẹ tóc chàng, một giọng nói dịu dàng:
- Quá nhi, sao chàng không vui mừng?
Giọng nói này, cái vuốt tóc này hệt như xưa, mỗi lần Tiểu Long Nữ an ủi chàng. Dương Quá quay phắt lại, thấy trước mặt một bạch y nữ tử, da trắng như tuyết, diện mạo như xưa, chính là Tiểu Long Nữ chàng vẫn đêm ngày tương tư mười sáu năm qua.
Hai người đứng ngây hồi lâu, cùng kêu khẽ một tiếng “a”, rồi ôm chầm lấy nhau, ngỡ ngỡ ngàng ngàng, chưa biết là thật hay ảo?
Lát sau, Dương Quá mới nói:
- Long nhi, diện mạo của nàng chẳng thay đổi gì, còn ta thì đã già.
Tiểu Long Nữ chăm chú nhìn, nói:
- Không phải già, mà là Quá nhi của thiếp đã trưởng thành.
Tiểu Long Nữ hơn Dương Quá vài tuổi, nhưng nàng từ bé sống trong cổ mộ, theo sư phụ tu tập nội công, rũ bỏ mọi tư lự dục niệm. Dương Quá thì lo nghĩ đủ thứ, đại bi đại lạc, cho nên đến khi hai người thành hôn, trông hai người như cùng tuổi với nhau.
Phép tu luyện dưỡng sinh của “Ngọc nữ công” phái Cổ Mộ có mười hai yếu quyết chữ “Thiểu” là “Thiểu tư, Thiểu niệm, Thiểu dục, Thiểu sự, Thiểu ngữ, Thiểu tiếu, Thiểu sầu, Thiểu lạc, Thiểu hỉ, Thiểu nộ, Thiểu hiếu, Thiểu ố (Ít: suy, nghĩ, ham muốn, làm việc, nói, cười, buồn, sướng, vui, giận, ưa thích, ghét bỏ). Bởi lẽ suy nhiều ắt mệt mỏi tinh thần, nghĩ nhiều ắt tinh tán, muốn nhiều ắt trí tổn, làm nhiều ắt mệt mỏi, nói nhiều ắt hụt hơi, cười nhiều ắt hại gan, buồn nhiều ắt mệt tim, sướng nhiều ắt ý lạm, vui nhiều ắt hại trí nhớ, giận nhiều ắt huyết mạch bất định, ưa thích nhiều ắt mê muội bất trị, ghét bỏ nhiều ắt nôn nóng bất an. Không trừ bỏ mười hai cái “nhiều” ấy, chính là gốc của việc mất mạng vậy. Tiểu Long Nữ tu vi từ nhỏ, không vui không buồn, vô tư vô lự, công lực tinh thuần có điểm còn hơn cả sư tổ Lâm Triêu Anh. Nhưng sau đó Dương Quá đến tòa cổ mộ, hai người sống với nhau nhiều năm, tình ý nảy sinh, những điều “Thiểu sự, Thiểu ngữ, Thiểu lạc, Thiểu hỉ” dần dần không theo được nữa. Thành hôn xong lại biệt ly mười sáu năm, Dương Quá phiêu bạt giang hồ, tóc mai nhuốm bạc, Tiểu Long Nữ thì ở dưới u cốc, tuy không tránh khỏi nỗi khổ tương tư, song công phu tu luyện hai mươi năm không nhỏ, mấy năm sau tái tu luyện mười hai yếu quyết chữ “Thiểu”, dần dần “Thiểu tư, Thiểu niệm, Thiểu dục, Thiểu sự”, độc cư dưới đáy sơn cốc, nên khi hai người gặp lại nhau thì trông Dương Quá rõ ràng lại già hơn Tiểu Long Nữ. Tiểu Long Nữ mười sáu năm không nói, ban đầu nói năng khó khăn. Hai người nói ít, chỉ nhìn nhau mỉm cười. Sau đó Dương Quá nhiệt huyết trào dâng, chàng cầm tay Tiểu Long Nữ chạy ra bên ngoài, nói:
- Long nhi, ta sung sướng quá!
Rồi chàng tung mình nhảy lên, cao đến ngang ngọn một cây đại thụ, lộn người bảy, tám vòng.
Cái trò lộn người mấy vòng vì quá vui này có từ hồi Dương Quá chung sống với Tiểu Long Nữ ở chân núi Chung Nam. Ngót hai chục năm nay Dương Quá đã quên hẳn, không ngờ hôm nay sắp bước sang tuổi trung niên, đột nhiên chàng lại lộn người. Chỉ khác là bây giờ võ công cao siêu, nên lúc thân hình ở trên không trung chàng tự nhiên hiển lộ ra khinh công thượng thừa. Tiểu Long Nữ cười phá lên, những qui tắc “Thiểu ngữ, Thiểu tiếu, Thiểu lạc, Thiểu hỉ” đều quẳng cả xuống đầm.
Tiểu Long Nữ rút ra chiếc khăn tay, hồi còn ở chân núi Chung Nam, mỗi lần Dương Quá lộn người, rồi cười hi hi bước đến bên nàng, nàng lại rút khăn lau mồ hôi trán cho chàng, lúc này nhìn chàng lại gần, mặt không đỏ, hơi thở không dồn dập, làm gì có mồ hôi trán? Nhưng nàng vẫn dùng khăn chấm chấm vài cái trên trán chàng.
Dương Quá cầm chiếc khăn xem, thấy nó được đan bằng các gân sợi vỏ cây rất thô, hình dung nỗi khổ sở bao năm nay của nàng dưới đáy sơn cốc, bất giác quặn lòng, nhè nhẹ vuốt tóc nàng, nói:
- Long nhi, nàng phải chịu đựng mười sáu năm ở đây thật là khổ!
Tiểu Long Nữ thở dài, nói:
- Nếu thiếp không trưởng thành từ nhỏ ở trong tòa cổ mộ, chắc là không chịu đựng nổi mười sáu năm vừa rồi.
Hai người ngồi kể cho nhau nghe mọi chuyện.
Dương Quá luôn miệng hỏi hết câu này câu kia. Tiểu Long Nữ nói một hồi, bớt dần ngượng nghịu, mới thong thả thuật lại các biến cố mười sáu năm qua.
Hôm Dương Quá ném nửa viên Tuyệt Tình đơn xuống vực, Tiểu Long Nữ biết chàng nghĩ nàng trúng độc khó trị, không muốn sống một mình trên đời. Đêm ấy nàng suy đi tính lại, chỉ có cách nàng phải chết trước mới có hi vọng chàng chịu giải độc hoa Tình. Nhưng nếu nàng hé lộ ý định tự tận sẽ chỉ đẩy chàng chọn cái chết mau hơn, nên nghĩ đến nửa đêm, nàng bèn lên Đoạn Trường nhai, dùng kiếm khắc hai dòng chữ, cố ý ước hẹn mười sáu năm tái hợp, rồi mới nhảy xuống thâm cốc. Bấy giờ nếu nàng nghĩ Dương Quá may mắn thoát chết, cách mười sáu năm chàng vẫn không nguôi thương nhớ nàng, thì nàng đã chẳng tự tận.
Nàng kể đến đây, Dương Quá thở dài, nói:
- Tại sao nàng lại hẹn những mười sáu năm? Nếu hẹn tám năm thôi, chẳng phải chúng mình đã đoàn tụ sớm tám năm rồi không?
Tiểu Long Nữ nói:
- Thiếp biết thâm tình của chàng đối với thiếp, chỉ tám năm thì quyết chưa phai nhạt. Ôi, mười sáu năm sau mà chàng còn nhảy xuống vực tuẫn tình.
Dương Quá cười nói:
- Thế mới biết một người càng có thâm tình càng tốt. Giả dụ lòng ta sớm phai nhạt, chỉ đứng bên Đoạn Trường nhai khóc một hồi rồi bỏ đi, thì suốt đời chúng mình không còn được gặp lại nhau
Tiểu Long Nữ nói:
- Mọi việc đều do ý trời!
Hai người vào sinh ra tử, sau bao biến cố, cuối cùng lại được đoàn tụ, giờ đây ngồi tựa bên nhau, trong thâm tâm đều cảm tạ ông trời.
Hai người im lặng hồi lâu. Dương Quá hỏi:
- Lúc nàng nhảy xuống vực, sự việc thế nào?
Tiểu Long Nữ nói:
-Thiếp nửa tỉnh nửa mê rơi xuống đầm nước, lúc đang nổi lên thì bị dòng nước đẩy vào một hố băng, thông lên đây, thế là sống ở nơi này. Chỗ này không có cầm điểu dã thú, nhưng trong đầm có nhiều thuỷ sản, hoa quả dưới đáy cốc ăn không hết, chỉ không có vải, phải bóc vỏ cây may quần áo mà thôi.
Dương Quá nói:
- Bấy giờ nàng trúng “Băng phách ngân châm”, chất cực độc đã ngấm vào kinh mạch, không thứ thuốc nào trên thế gian chữa đuợc, làm sao ở đây lại vẫn khoẻ?
Chàng nhìn kỹ Tiểu Long Nữ, thấy dung mạo nàng trắng trẻo, không hồng hào, nhưng hắc khí ẩn hiện ở hai đầu lông mày sau khi trúng độc đã biến mất.
Tiểu Long Nữ nói:
- Thiếp xuống đây mấy ngày sau thì độc tính phát tác, người sốt nóng như lửa, đầu nhức như muốn nổ tung, thật không chịu nổi. Thiếp nhớ lại đêm động phòng hoa chúc trong toà cổ mộ, chàng dạy thiếp ngồi trên giường hàn ngọc nghịch vận kinh mạch, tuy không thể trừ độc nhưng cũng đỡ khổ sở đau đớn. Thế là thiếp lặn xuống chỗ hố băng, tựa đầu vào đó một hồi, thấy hiệu nghiệm. Sau đó thiếp thường quay lại bờ đầm, nơi mình rơi xuống, ngẩng lên xem có tin tức gì của chàng hay không. Một hôm bỗng thấy có mấy con ong ngọc phong xuyên qua lớp sương mù bay xuống, hẳn là bầy ong mà Lão Ngoan đồng mang đến Tuyệt Tình cốc. Thiếp như gặp hảo hữu, bèn làm các tổ ong cho ong ở lại. Sau ong kéo đến ngày càng nhiều. Thiếp ăn mật ong, lại bắt bạch ngư dưới đầm mà ăn, cảm thấy bệnh đỡ dần, không ngờ mật ong và bạch ngư dưới hàn đầm lại là thứ giải độc rất công hiệu. Số lần độc tính phát tác trong cơ thể ít dần và cách quãng xa dần. Thoạt đầu phát tác ngày một lần, sau vài ngày một lần, rồi một tháng một lần, cuối cùng năm sáu năm nay không phát tác lần nào nữa, chắc đã khỏi hẳn.
Dương Quá cả mừng nói:
- Đủ thấy người hảo tâm tất được báo đáp. Năm xưa nếu nàng không tặng đàn ong ngọc phong cho Lão Ngoan đồng, thì lão không thể mang ong đến Tuyệt Tình cốc này, bệnh của nàng khó bề chữa trị.
Tiểu Long Nữ nói:
- Sau khi khỏe lên, thiếp rất nhớ chàng, nhưng thâm cốc sâu hàng trăm trượng, bốn phía toàn vách đá dựng đứng, không thể leo lên. Thế là thiếp dùng gai nhọn xăm lên cánh ong sáu chữ “ta ở dưới đáy tình cốc”, chỉ mong ong bay lên, có người phát hiện ra mình. Mấy năm qua, thiếp đã xăm chữ lên cánh mấy ngàn con ong, song chẳng có một chút hồi âm. Mỗi năm thiếp lại thêm nản lòng, xem chừng kiếp này không còn được gặp chàng nữa.
Dương Quá vỗ đùi ân hận, nói:
- Ta cũng ngốc thật, mỗi lần trở lại Tuyệt Tình cốc đều gặp ong ngọc phong, mà không bắt một vài con xem sao, có phải đã bớt được vài năm khổ sở cho nàng rồi không…
Tiểu Long Nữ nói:
- Cái đó chỉ là hạ sách khi thiếp không biết cách gì khác, chứ ai lại nghĩ trên cánh con ong bé nhỏ có xăm chữ bao giờ? Chữ xăm quá nhỏ, dẫu có hàng trăm con ong bay qua trước mắt, chàng cũng chẳng đọc được hàng chữ xăm trên cánh ong. Thiếp chỉ mong một lúc nào đó, một con ong sa vào màng nhện, trời rủ lòng để cho chàng nhận thấy, chàng nhớ đến tình nghĩa đôi ta, thò tay cứu con ong ra, chàng sẽ phát hiện cánh nó có xăm chữ.
Tiểu Long Nữ không ngờ rằng người phát hiện cánh ong có xăm chữ là Chu Bá Thông, và Hoàng Dung đã đoán ra hàm ý của sáu chữ xăm.
Hai người trò chuyện rất lâu, Tiểu Long Nữ vào nhà nướng một xâu cá, ăn kèm với trái cây, mật ong. Nước đầm lạnh giá, giống bạch ngư trong đầm tuy thân nhỏ nhưng thịt béo ngậy. Dương Quá ăn một bữa no nê, cảm thấy trong bụng rất ấm áp dễ chịu, bây giờ chàng mới kể những gì mình trải qua trong mười sáu năm. Chàng tung hoành giang hồ, uy danh chấn động quần hào, gặp phiền toái nguy hiểm gấp trăm lần so với Tiểu Long Nữ độc cư dưới thâm cốc này.
Nhưng Tiểu Long Nữ vốn không quan tâm đến sự đời, chỉ cần gặp được Dương Quá là đủ, cho nên nghe những chuyện kinh tâm động phách, nàng chỉ cười nhạt, nghe như thoảng qua tai, chẳng chú tâm. Còn Dương Quá thì cứ hỏi nàng cặn kẽ việc bắt cá hái quả, làm nhà may áo, việc nhỏ nhất cũng hỏi tỉ mỉ từ đầu chí cuối, làm như chốn đáy cốc nhỏ hẹp này là ngũ hồ tứ hải không bằng.
Hai người trò chuyện một đêm, gần sáng mệt quá mới ngủ thiếp đi. Tỉnh giấc thì đã ngả chiều, Dương Quá nói:
- Long nhi, chúng mình sống ở đây đến già, hay tìm cách trở lại chốn thế gian phồn hoa?
Cứ theo tâm ý của Tiểu Long Nữ, thà ở dưới đáy cốc thái bình yên ổn còn hơn, nhưng nghĩ Dương Quá thích náo nhiệt, tuy tình nghĩa sâu nặng với nàng, nhưng chàng không quen cảnh u tịch thế này, bèn nói:
- Chúng mình nghĩ cách leo lên trên kia, nếu ở trên đó không tốt, thì lại xuống đây. Có điều… có điều là muốn leo lên cũng không dễ chút nào.
Hai người lặn xuống hố băng, sang bờ đầm bên kia, thấy có một sợi dây dài bằng vỏ cây thòng từ trên xuống, ven đầm có rất nhiều vết chân, một đống lửa còn chưa nguội tro. Xem xét một hồi, thấy trên một thân cây có người dùng mũi kiếm khắc hai hàng chữ: “Nhất Đăng, Bá Thông, Anh Cô, Hoàng Dung, Trình Anh, Vô Song xuống đây tìm Dương Quá không gặp rất buồn leo trở lên”.
Dương Quá thầm cảm kích, nói:
- Họ rốt cuộc không hề quên ta.
Tiểu Long Nữ nói:
- Không ai quên được chàng đâu.
Dương Quá nói:
- Họ tuy lặn xuống đầm, nhưng vì họ không ngã từ trên cao trăm trượng, nên lực chìm không mạnh, không đủ chìm tới hố băng. Nếu ta cũng dùng dây leo xuống, cũng sẽ không tìm được nàng.
Tiểu Long Nữ nói:
- Thiếp đã bảo từ sớm, rằng vạn sự tiền định, ông trời đã an bài tất cả.
Dương Quá lắc đầu cười, nói:
- Cái đó gọi là thành tâm hết mực, gỗ đá cũng động lòng.
Chàng đưa tay kéo sợi dây, thử xem bên trên có được buộc chắc hay không, rồi nói:
- Ta lên trước, xem Kim Luân pháp vương còn ở đó hay không.
Nhưng nghĩ Nhất Đăng đại sư, Hoàng đảo chủ, Lão Ngoan đồng… đã tới đây, chắc Kim Luân pháp vương đã bỏ chạy rồi, lại nói:
- Võ công của nàng thế nào? Nếu không leo được, để ta cõng nàng.
Tiểu Long Nữ mỉm cười, nói:
- Mười sáu năm qua tuy không tăng tiến, nhưng công phu sở học quá nửa vẫn còn.
Dương Quá ngoảnh đầu cười, tay trái nắm lấy sợi dây, hơi vận kình, thân mình đã bật lên hơn một trượng. Tiểu Long Nữ cũng bám dây leo lên. Không lâu sau, hai người lên khỏi thâm cốc.
Họ kề vai đứng trước Đoạn Trường nhai, nhìn hai hàng chữ năm xưa Tiểu Long Nữ khắc trên vách đá, tưởng như sang kiếp k