← Quay lại trang sách

Phần 4: Vương Quốc Loài Người.

Arnor là một vương quốc của người Dunedain tại vùng Eriador thuộc Trung Địa. Arnor hay được biết tới với cách gọi là Vương quốc phương Bắc để phân biệt với vương quốc Gondor ở phương Nam.Theo ngôn ngữ Tiên thì Arnor có nghĩa là “ vùng đất của Đức vua ”.

* Lịch sử

Arnor được sáng lập ở thời điểm gần cuối Thời đại thứ 2 bởi Elendil, cùng lúc đó thì các con trai của ông cũng đồng thời sáng lập ra vương quốc phía Nam là Gondor. Lịch sử của 2 vương quốc luôn có mối liên kết chặt chẽ với nhau; cả 2 đều được biết tới như là những vương quốc của người Dunedain tại Trung Địa.

Trước khi vương quốc Arnor được sáng lập thì tại vùng đất Eriador đã có một số lượng đáng kể cư dân gốc Numenor sống tại đây, họ là những người di cư đầu tiên của đế chế Numenor tới Trung Địa bắt đầu kể từ triều đại của vua Tar-Meneldur. Bên cạnh những người Numenor di cư thì vùng đất Arnor còn là nhà của một bộ phận người Edain cổ, những người đã định cư tại Trung Địa cách đây rất lâu.

Về phương diện tổng quát thì Arnor có nhiều thuận lợi hơn so với Gondor.Về mặt vị trí, Arnor chịu ít đe dọa từ các kẻ thù bên ngoài hơn vì lãnh thổ vương quốc nằm khá kín, phía Tây giáp vương quốc Lindon, phía Nam có vương quốc Gondor tạo thành thế tương trợ, phía Đông giáp núi và chỉ có một kẻ thù gần nhất là vương quốc Angmar ở phía Bắc. Về mặt văn hóa,kinh tế thì Arnor cũng có lợi thế khi họ giáp và có mối quan hệ tốt đẹp với vương quốc Lindon của người Elves, văn hóa và những kỹ nghệ phát triển xã hội bậc cao của người Elves cũng tạo nên một sự ảnh hưởng đáng ghi nhận đối với vương quốc này. Chính vì những lí do như vậy mà Arnor thuở ban đầu được nhiều con người tại Trung Địa chọn làm nơi định cư của họ.

Một điều quan trọng nữa đó là khi Elendil đến và thành lập ra vương quốc Arnor thì ông nhận ra rằng những người dân ở đây có mối quan hệ vô cùng tốt đẹp với người Elves và vẫn trân trọng những giá trị tình bạn cũng như là sự giao thoa văn minh cổ xưa giữa 2 giống loài. Ở Numenor thì những giá trị này đã ngày càng bị phai nhạt dần nhưng ở Arnor, vua Elendil lại có chủ trương tiếp tục bảo tồn và phát triển những giá trị cổ xưa này.

Đức vua đầu tiên của Arnor tất nhiên là Elendil, quyền thừa kế hợp pháp sau đó thuộc về con trưởng của ngài là Isildur. Sau khi Isildur cùng 3 người con lớn của mình bị giết tại Trận chiến trên cánh đồng Hoan hỷ thì người con trai út là Valandil, người duy nhất sống sót, đã trở thành đức vua tiếp theo của vương quốc Arnor.

2 vương quốc Arnor và Gondor đều phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên về thực chất thì quyền lực của Arnor vẫn cao hơn. Những người thống trị của vương quốc Arnor đều dùng danh xưng là Đức vua Tối cao trong khi ở Gondor thì người thống trị chỉ được gọi là Vua. Thủ phủ của Arnor là Annuminas,bên cạnh đó là các thành phố lớn khác như Fornost, Tharbad, Long Daer và Tyrn Gorthad.

* Sự suy tàn

Về sau, Annuminas không còn là thủ phủ của vương quốc Arnor bởi nó không còn là nơi lý tưởng để định cư như trước. Đến năm 862 của Thời đại thứ 3, thì Fornost đã thay thế Annuminas để trở thành trung tâm thủ đô của vương quốc.

Sau triều đại của vua Earendul,tức là năm 861, thì Arnor bị chia cắt bởi một cuộc nội chiến giữa 3 người con trai của đức vua. Người con trai cả là Amlaith, người danh chính ngôn thuận tuyên bố quyền lực trên toàn vương quốc Arnor thế nhưng thực chất lãnh thổ của ông ta lại chỉ là khu vực vương quốc Arthedain; trong khi 2 người con còn lại, mỗi người đều chiếm hữu 1 vùng đất và lập ra 2 vương quốc khác là Cardolan và Rhudaur. Vương quốc phương Bắc lúc này thực chất đã bị chia cắt thành 3 vương quốc nhỏ hơn.

Với sự chia rẽ cộng với sự trỗi dậy của vương quốc Angmar ở phía Bắc, Arnor đã bị Vua phù thủy của xứ Angmar chinh phạt và sụp đổ chỉ trong một thời gian ngắn.Mặc dù sau này,Vua phù thủy đã bị đánh đuổi và Angmar bị sụp đổ, thế nhưng vương quốc phương Bắc vẫn không thể phục hồi lại được trong hầu hết thời đại thứ 3.Những người Arnor còn sót lại lánh nạn tới phía Nam của Rivendell, nơi mà một số người họ được biết tới như là những Tuần Du của phương Bắc.

* Thời kỳ của Đại vương quốc

Sau chiến thắng của liên minh Trung Địa trước chúa tể bóng tối Sauron thì vua Aragorn II Elessar đã tái lập lại vương quốc Arnor như là một phần của Đại vương quốc Gondor và biến Annuminas thành kinh đô mùa hè của ông. Arnor dần dần được khôi phục và dân số ngày càng được tăng lên, mặc dù xét về độ phát triển thì nó vẫn chịu thua kém so với Gondor.Xứ Shire lúc này đã được ban cho quyền tự trị và không còn thuộc về lãnh thổ của Arnor như những ngày xa xưa trước đây.

Dale là một thành bang của Loài người nằm ở phía Đông Bắc Rhovanion, phía Nam Ngọn Núi Cô Đơn và là láng giềng thân cận nhất với vương quốc Erebor của người Dwarves.Trong các bản dịch tiếng Việt thì Dale thường được dịch là “ thành bang thung lũng” hay “vương quốc Dale”.

* Lịch sử

Trong tiểu thuyết Hobbit thì Dale được miêu tả là một thành bang trù phú của loài người nằm ở giữa Ngọn núi Cô Đơn và Hồ Dài. Nó được trị vì bởi thành chủ Girion cho đến khi bị hủy diệt bởi rồng Lửa Smaug vào năm 2770 của thời đại thứ 3.

Đặt vị ngay dưới bóng của Ngọn Núi Cô Đơn,Dale từng bị bỏ hoang trong suốt nhiều năm ở thời gian mà Smaug đang chiếm giữ quả núi.Thành bang được xây dựng và định cư trở lại sau khi kết thúc Trận chiến của 5 đạo quân. Lí do bắt nguồn từ việc nhóm đồng hành của Bilbo Baggin và Thorin Oakenshield thực hiện một kế hoạch và hành trình để lấy lại vương quốc Erebor bị chiếm giữ bởi Smaug.Trong quá trình đột nhập vào Erebor,Bilbo đã đánh thức giấc ngủ của Smaug và vô tình để lão đoán biết được về hành trình đi qua Esgaroth ( thị trấn vùng hồ ) của nhóm đồng hành. Trong cơn tức giận,Smaug đã bay đến Esgaroth với mục đích hủy diệt thị trấn để trả thù nhưng bị Xạ thủ Bard, hậu duệ của thành chủ Girion, bắn hạ ngay ở đó.

Smaug bị tiêu diệt nhưng Thị trấn vùng hồ cũng bị phá hủy nặng nề, rất nhiều người đã tình nguyện đi theo Bard đến Erebor để đòi khoản bồi thường từ Thorin. Nhưng tại đây họ bất ngờ bị lôi vào trận chiến với đạo quân yêu tinh đến từ phương Bắc.Sau khi kết thúc trận chiến,Bard có được số tiền bồi thường từ Erebor, với số tiền này, anh cùng với những người đi theo mình đã cùng nhau tái thiết lại Thành bang Thung Lũng mà về sau trở thành vương quốc Dale.Bard trở thành vị vua đầu tiên của vương quốc.

Trong thời kỳ Nhẫn chiến, Dale từng bị đánh phá lần thứ 2 bởi lực lượng Người Easterling của Sauron.Những con người của vương quốc Dale đã rút lui và cùng với người Dwarves cố thủ trong lòng của Ngọn Núi Cô Đơn.Trong Cuộc Bao vây Erebor, vua Dain II IronFoot của Erebor và vua Brand của Dale đã hi sinh bên cạnh nhau.Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của Sauron,cuộc bao vây đã bị đẩy lui, vương quốc Dale lại được tái xây dựng một lần nữa.

* Mối giao hảo với người Dwarves

Không ở đâu tại Trung Địa mà con người lại có mối giao hảo tốt đẹp với chủng tộc người Dwarves hơn tại Dale. Vương quốc này nằm ngay dưới bóng của Ngọn Núi Cô Đơn,là láng giềng thân cận nhất với vương quốc Erebor của người Dwarves.Giữa Dale và Erebor thường có sự trao đổi, qua lại trong thương mại, buôn bán cũng như rất nhiều lĩnh vực khác. Những phụ nữ Dwarves là những người cực kỳ khó bắt gặp đối với những người thuộc chủng tộc khác nhưng có nhiều người ở vương quốc Dale lại từng nhìn thấy họ. Điều đó cho thấy được sự gần gũi đặc biệt của người dân thuộc 2 vương quốc này.

Quân đội của Dale cũng mang dấu ấn lớn từ người Dwarves khi mà rất nhiều trang thiết bị chiến tranh của họ đều được chế tác bởi những thợ rèn người Dwarves.Liên minh quân sự giữa Dale và Erebor cũng là một liên minh vô cùng ăn ý và bù khuyết vào những yếu điểm của mỗi bên.Người Dwarves, bền bỉ, cứng cáp và mạnh mẽ là lực lượng xung phong cận chiến lý tưởng trên chiến trường nhưng họ lại không giỏi về thủy chiến và tiễn xạ, điểm này được bù đắp bởi những chiến binh của Dale, vương quốc được cho là có trình độ xạ thủ cao nhất trong số các vương quốc của loài người.

* Các nhân vật trị vì Vương quốc Dale

- Thành bang cũ: Giriron

- Tân Vương quốc:

+ Bard Xạ thủ

+ Bain

+ Brand

+ Bard II

Gondor là vương quốc lớn nhất của Con Người tại Trung Địa, có biên giới giáp với vương quốc Rohan ở phía Bắc, phía Tây giáp với Biển Belegaer, phía Nam giáp với Harad và phía Đông giáp với Mordor. Kinh đô đầu tiên của Gondor là Osgiliath, về sau lại chuyển về Minas Tirith vào năm 1640 của thời đại thứ 3. Minas Tirith là kinh đô của Gondor trong nửa sau của thời đại thứ 3 và trong suốt thời đại thứ 4.

Gondor được sáng lập bởi 2 anh em ruột Isildur và Anarion, họ đều là những người tha hương của đế chế Numenor. Gondor là vương quốc đồng minh với Arnor, dòng dõi các vua Arnor về sau chính là dòng dõi của Isildur,còn ở Gondor, dòng dõi các vua lại xuất phát từ Anarion.Gondor sớm ở đỉnh cao huy hoàng trong thời gian đầu của thời đại thứ 3 nhưng trải qua nhiều những cuộc xâm lược bởi các đồng minh của Chúa tể bóng tối Sauron,vương quốc đã dần dần bị suy yếu.Gondor chỉ được phục hồi sau sự sụp đổ của Sauron và sự lên ngôi của Vua Aragorn II Elessar.

* Những năm đầu thành lập

Trước khi đế chế Numenor bị sụp đổ thì Gondor đã là ngôi nhà của rất nhiều người Numenor tha hương ở Trung Địa. Những người Numenor tha hương sống lẫn lộn và hôn phối với nhiều giống Người Trung Địa khác nên bởi thế mà dòng máu thượng đẳng của người Numenor trong họ cũng dần bị pha tạp và yếu kém dần đi cả về sức mạnh,tố chất cũng như là độ dài tuổi thọ.Tuy nhiên,những thế hệ đầu của Người Gondor thì vẫn giữ được những phẩm chất thượng đẳng của Người Numenor mặc dù có phần kém hơn 1 chút, họ được gọi là những Người DuneDane.

Đế chế Numenor thời huy hoàng từng có rất nhiều những vùng thuộc địa tại Trung Địa. Về sau, những người sống tại Numenor đã bị chia rẽ ra thành 2 phe, phe Những người Trung thành ( những người trung thành với tình bạn đối với người Elves và các Valar ) và phe Thân Vua ( những người ủng hộ nhà vua ). Phe Trung Thành bị lép vế và tự rời khỏi Numenor để đến định cư tại Trung Địa.Thủ lĩnh của nhóm Trung Thành là Elendil được những người dân thuộc địa ở phía Bắc Sông Cả chào đón nhiệt liệt và có ý tôn ông lên làm vua của họ. Elendil ở lại với họ và thành lập ra một vương quốc lấy tên là Arnor, đây chính là Vương quốc phương Bắc.Về sau, 2 người con trai của Elendil là Isildul và Anarion đã đi về phía Nam và cùng nhau thành lập ra một vương quốc mới và đó chính là Gondor.

Tuy là 2 vương quốc riêng biệt nhưng Gondor và cả Arnor đều thuộc quyền trị vì của Đức Vua tối cao Elendil. Isildul và Anarion là những người đồng sáng lập ra vương quốc Gondor nhưng Isildul lại là con cả của Đức vua Elendil nên quyền thừa kế vương quốc Arnor sẽ thuộc về ông ta; còn Anarion,em trai của Isildul sẽ có quyền thừa kế vương quốc Gondor ( Vương quốc phương Nam ).

Gondor đã đưa quân đội của mình tham gia vào Liên minh cuối cùng của Elves và Người trong chiến dịch đánh bại Sauron vào cuối thời đại thứ 2.Trong trận đánh cuối cùng,chính Isildul là người đã cắt đứt được Chiếc Nhẫn Chủ ra khỏi tay của Sauron nhưng không lâu sau đó,ông cũng đã bị chết.

* Thời kỳ huy hoàng

Sau cuộc chiến với Sauron, vương quốc Gondor ngày càng trở nên mạnh mẽ và thịnh vượng.Sức mạnh của Gondor tiếp tục lớn mạnh cho đến tận thế kỷ thứ 9 của thời đại thứ 3.Sự xuất hiện của một loạt những thành phố lớn là trung tâm chính trị và quân sự ở Gondor như Minas Arnor,Minas Ithil,Osgiliath hay Pelagir đã tạo ảnh hưởng thống trị lên rất nhiều những nhóm người nhỏ hơn sống tại Trung Địa.Đa phần những nhóm người ở phía Bắc hay ở phía Tây Trung Địa đều thuần phục và là liên minh của người Gondor.

Thời kỳ cực thịnh của Gondor nằm vào khoảng 4 triều đại vua:

+ Vua Tarannon Falastur, từ năm 830 đến năm 913 của thời đại thứ 3, đức vua không có con.

+ Vua Earnil I, từ năm 913 đến năm 936 của thời đại thứ 3, Ngài là cháu của vua Tarannon.

+ Vua Ciryandil, từ năm 936 đến năm 1015 của thời đại thứ 3.

+ Vua Hyarmendacil I (Ciryhaer), từ năm 1015 đến năm 1149 của thời đại thứ 3. Triều đại của vua Hyarmendacil là một thời kỳ rực rỡ trong lịch sử Gondor. Trong thời kỳ này, biên giới của vương quốc liên tục được mở rộng trải dài về Biển Rhun ở phía Đông, phía Nam kéo tới tận gần vùng đất của người Haradrim, phía Bắc tới sát Rừng Âm U và phía Tây kéo sát đến biên giới của Arnor.

Sự giàu có của Gondor được những người ở những vùng đất khác miêu tả như sau:!!!“ ở Gondor, đá quí không khác gì những viên đá bình thường để cho trẻ con chơi ”.

Với tiềm lực quân sự vô cùng lớn mạnh của vương quốc thì người Gondor đã có một thời gian dài được sống trong sự thái bình.

* Sự suy yếu của Gondor

Sau một thời gian dài phát triển rực rỡ, vương quốc Gondor dần dần bị suy thoái bởi những lí do chính như sau:

Một cuộc nội chiến lớn xảy ra ở Gondor vào thế kỷ thứ 15 của thời đại thứ 3 đã gây chia rẽ và thiệt hại nặng nề đối với vương quốc.Đức vua lúc bấy giờ của Gondor là Eldacar vốn là một người mang dòng máu lai tạp bởi mẹ ông là một Người Phương Bắc còn cha ông thì lại là một người Gondor.Cũng chính bởi lí do này mà ông bị một số người thuộc tầng lớp hoàng gia chính thống của Gondor ganh ghét mà trong đó có Castamir,đô đốc thống lĩnh toàn bộ lực lượng thủy quân của vương quốc.Castamir đã tiến hành một cuộc đảo chính để giành lấy ngai vàng từ vua Eldacar.Vua Eldacar thất bại và phải chạy về phương Bắc.

Castamir trở thành người thống trị mới của vương quốc Gondor.Trong 10 năm cầm quyền, Castamir đã áp dụng một lối cai trị vô cùng tàn bạo và khắc nghiệt.Ngoài ra,do bản thân xuất phát từ lực lượng thủy quân nên ông ta thường ưu ái và tập trung phát triển cho riêng các vùng đất ở gần biển mà bỏ mặc những vùng đất khác.Điều này khiến cho lòng dân tại Gondor trở nên xao động.

Tận dụng cơ hội,vua Eldacar đã trở về với một đạo quân từ Phương Bắc,nhân dân và các lực lượng vũ trang tại Gondor đều ủng hộ nhà vua bằng cách gia nhập vào lực lượng của ông.Cuộc nội chiến đầu tiên của Gondor đã diễn ra giữa phe của Castamir và phe của vua Elcadar.Kinh thành Osgiliath bị thiệt hại nặng nề trong cuộc nội chiến,cây cầu lớn bị phá hủy và Quả cầu Palantir ở đó cũng bị thất lạc.Về sau,vua Eldacar đã giết được Castamir và giành lại được ngai vàng.Các con trai của Castamir đã bỏ chạy về Umbar,gia nhập với lực lượng Người Corsair và gây rắc rối cho Gondor trong suốt nhiều năm.

Về sau này, Dịch Bệnh Lớn đã xuất hiện tại Trung Địa và gây ảnh hưởng lên hầu hết các vương quốc và xứ sở mà Gondor cũng không phải là ngoại lệ.Rất nhiều người Gondor đã chết bởi dịch bệnh. Cây Trắng, biểu tượng của Gondor cũng chết héo vào thời điểm này.Vua Tarondor lúc đó đã tìm được một mầm sống của Cây Trắng và chuyển kinh đô từ Osgiliath tới Minas Anor,thành phố của Anarion.Trong thời gian này,dân số của Gondor còn lại rất ít khiến cho tiềm lực kinh tế và quân sự của vương quốc bị sụt giảm đáng kể.Nếu các binh đoàn của kẻ địch Mordor tấn công Gondor vào lúc này thì vương quốc chắc chắn sẽ sụp đổ.Tuy nhiên thì Dịch Bệnh Lớn cũng tràn cả vào các vương quốc của Người Easterl hay Người Haradrim và cũng gây cho họ thiệt hại lớn đến mức không thể tiến hành chiến tranh đối với Gondor.

Sau Dịch Bệnh lớn,Gondor dần khôi phục lại dân số và sức mạnh của mình; nhưng đúng vào thời điểm đang hồi phục này thì vương quốc lại bị xâm lược bởi những Kỵ Sĩ Wain, một chi thuộc tộc người Easterl ở phương Đông.Cuộc chiến với quân xâm lược kéo dài đến gần 1 thế kỷ. Những kỵ sĩ Wain đã tiêu diệt được gần hết Binh Đoàn phương Bắc của Gondor.Nhưng những chiến binh sống sót của binh đoàn đã kịp rút lui và sát nhập vào Binh đoàn phương Nam của Gondor.Dưới sự dẫn dắt của danh tướng Earnil,Binh đoàn phương Nam đã đánh bại người Haradrim ở măt trận Sông Poros trước khi tiến về phía Bắc và đẩy lui được quân Wain ra khỏi bờ cõi trong Trận chiến Doanh Trại.

* Sự thất lạc của dòng dõi các Vua

Năm 1944 của thời đại thứ 3,hoàng thất Gondor đối mặt với một biến cố lớn khi Vua Ondoher cùng với 2 hoàng tử đều hi sinh trên chiến trường mà chưa kịp công bố người kế vị. Arveduil,hoàng tử của Arthedain,con rể của vua Ondoher cùng với danh tướng Earnil là 2 người duy nhất lúc bấy giờ có đủ tư cách để lên ngôi hoàng đế.Hội đồng chấp chính tại Gondor cuối cùng đưa ra quyết định sẽ ủng hộ Earnil lên ngôi vua bởi ông là dòng dõi của Anarion còn Arveduil lại tuyên bố ông thuộc về dòng dõi của Isildul mà vương quốc Gondor lại thuộc quyền thừa kế của Anarion.Thật ra,với chiến công đánh đuổi quân xâm lược thì Earnil tất nhiên là xứng đáng để tiếp nhận ngai vàng của Gondor hơn là Arveduil.

Trong Trận chiến Fornost, Earnur,người kế vị của vua Earnil đã dẫn dắt quân đội Gondor đánh bại được vương quốc Angmar của Vua Phù Thủy.Sau thắng lợi,vua Earnur dẫn quân trở lại Minas Anor ( Tháp Mặt Trời ). Trong thời gian này thì các Ma Nhẫn đã chỉ huy quân đội Mordor đánh chiếm được thành phố Minas Ithil ( Tháp Mặt Trăng ) và biến nơi đây thành Minas Morgul ( Tháp Ma Thuật ), hang ổ mới của Bộ Chín Nazgul. Minas Anor cũng vì đó mà đổi tên thành Minas Tirith tức là Tòa Tháp Canh.Giữa 2 nơi này thường xảy ra xung đột.

Vua phù thủy,Chúa tể Nazgul,đã 2 lần gửi thông điệp khiêu khích tới kẻ thù cũ của mình là Vua Earnur.Lần đầu tiên,vua Earnur đã từ chối lời thách đấu của kẻ thù nhưng sau đó nhiều năm, ông lại dẫn theo một nhóm chiến binh tới Minas Morgul để chấp nhận đấu tay đôi với Vua phù thủy.Họ mất tích kể từ ngày hôm đó,không ai biết được kết cục của nhà vua cùng với các chiến binh của ngài và dòng dõi Anarion ở Gondor cũng kết thúc từ đó.

* Thời kỳ của các quan chấp chính

Sau khi vua Earnur biến mất thì dòng dõi Anarion ở Gondor cũng không còn ai.Không ai có đủ tư cách và quyền lực để có thể kế vị ngai vàng Gondor.Người Gondor e ngại một cuộc nội chiến tranh giành ngai vàng sẽ lại nổ ra và làm suy yếu vương quốc nên vì thế mà họ bầu ra một chức danh mới là Quan Chấp Chính. Về thực tế thì Quan chấp chính sẽ cai trị Gondor với quyền lực như 1 vị vua nhưng về danh nghĩa thì vẫn không phải là vua và khi có một ai đó có đủ tư cách để thừa kế ngai vàng Gondor ( 1 người thuộc dòng dõi Anarion hoặc dòng dõi Isildul ) xuất hiện thì họ phải chuyển giao quyền lực lại cho người đó.

Những quan chấp chính được biết tới nhiều nhất là Cirion,người đã ban tặng vùng đất Calenardhon cho Eorl và thiết lập mối liên minh vững chắc với những người Rohan.Trong Thời kỳ Nhẫn Chiến,Quan chấp chính của Gondor là Denethor II,cha của Boromir và Faramir.Denethor II bị chết vào đúng thời điểm mà Aragorn trở về.Aragorn là hậu duệ của cả 2 dòng dõi Isildul và Anarion nên ngôi Vua lại trở về với vương quốc Gondor.

* Thời kỳ Nhẫn Chiến

Trong suốt thời kỳ này,tại Mordor,Sauron đang tập trung lực lượng cho đợt chinh phạt cuối cùng của mình.Năm 3018,Chúa tể bóng tối cho quân vượt qua Ithilien nhằm tiêu diệt vương quốc Gondor; tuy nhiên thì cuộc tấn công này đã bị ngưng lại do cây cầu lớn vượt Sông Cả Anduin đã bị phá hủy.Vài năm sau, Minas Tirith, pháo đài vững chắc cuối cùng của Gondor phải đối mặt với một chiến dịch công kích toàn diện của Sauron. Các binh đoàn Haradrim hành quân từ phía Đông Nam,các Corsair ( Cướp biển đen ) của Umbar tấn công từ bờ biển phía Nam và quân chủ lực gồm Orcs và Trolls của Mordor vượt qua Sông Cả để tiến công từ phía Đông, tất cả là 3 mũi quân lớn cùng tiến vào Minas Tirith.

Vào cuối thời đại thứ 3, tại Cánh đồng Pelennor ngoại vi Minas Tirith đã diễn ra trận đại chiến lớn nhất của thời đại này là Trận chiến Pelennor. Cuối cùng, với sự tham chiến của Đội quân Người Chết, phe Con Người đã lật ngược tình thế và đánh bại được phe Mordor dù tổn thất là rất lớn.

Sau khi Nhẫn Chủ bị tiêu hủy và Sauron bị sụp đổ,Gondor chính thức chào đón sự trở lại của dòng dõi nhà vua bằng lễ đăng quang của Vua Aragorn Elessar.Vua Elessar sẽ là đức vua tối cao của vương quốc hợp nhất ( Đại Vương Quốc Gondor ), là sự sát nhập lãnh thổ giữa vương quốc phương Bắc cũ Arnor và vương quốc phía Nam Gondor.Faramir,dòng dõi các quan chấp chính,được thừa kế ngôi vị tể tướng phục vụ cho nhà vua và có quyền hạn cai trị ở vùng phía Đông Ithilien.

Mối liên minh với Rohan được củng cố,2 vương quốc cùng nhau đánh đuổi những tàn dư của người Easterl và người Haradrim; những vùng đất bị chiếm đóng trước đây cũng dần được lấy lại hết.Trong nhiều thế kỷ sau đó,Đại Vương Quốc Gondor còn được mở mang ra rất lớn thành một đế chế có lãnh thổ gần như bao trùm Trung Địa.

* Quân đội của Gondor

Người Gondor vốn là những hậu duệ của người Numenor nên các chiến binh của họ trong thời đại thứ 2 thường cao lớn,đẹp đẽ,khỏe mạnh và rất có đầu óc.Những chiến binh Gondor ở thời đại này thường được chú trọng vào việc huấn luyện tinh thần để có được một ý chí chiến đấu cao,dũng cảm và không sợ hãi dù phải chiến đấu tới chết.Do tuổi thọ của người Gondor ở thời kỳ đầu là khá dài nên hầu hết những chiến binh của họ đều rất có kinh nghiệm và kỹ năng điêu luyện.

Người Gondor có kỹ năng chế tác giáp trụ,vũ khí và quân dụng chiến tranh rất tốt và với những trang thiết bị đó, họ tạo nên những đạo quân hùng mạnh.Người Gondor thường dùng 3 loại vũ khí chính là giáo dài,kiếm và cung dài.Các đạo quân bộ binh của họ sử dụng kiếm hoặc giáo dài kết hợp với khiên lớn tạo thành các đội hình hình vuông có tác dụng công thủ toàn vẹn.Phải kể đến các đạo Quân cận vệ của Pháo Đài Gondor với khiên lớn, giáo dài và giáp trụ tinh xảo, họ được cho là chủng loại bộ binh lợi hại nhất trong thế giới Loài Người.

Các cung thủ của Gondor cũng vô cùng lợi hại bởi họ là những người DuneDane ( những Tuần Du ), tai thính, khả năng quan sát trong bóng tối tốt kết hợp với khả năng ngụy trang được học hỏi từ những cung thủ người Elves. Kỵ binh Gondor ở thời đại này phải kể đến Đạo Thần kỵ Dol Amroth,được cho là những chiến binh huyền thoại với giáp trụ,vũ khí, quân trang và kỹ năng chiến đấu đều vào hạng có 1 không 2. Chiến mã hay bản thân các chiến binh đều mang trên mình những bộ giáp trụ đặc biệt có thiết kế tinh xảo,1 tay họ dùng kiếm hoặc giáo dài, tay kia cầm khiên lớn. Có những lúc họ còn dùng cả 2 vũ khí ở cả 2 tay, lối tác chiến của họ còn nhanh và mạnh hơn cả những kỵ binh Rohan ở thời kỳ đỉnh cao.

Đến thời đại thứ 3,sức mạnh quân sự của Gondor đã bị suy yếu đi nhiều.Đạo kỵ binh Dol Amroth chỉ còn lại rất ít, những quân dụng chiến tranh tinh xảo trước đây cũng không còn lại nhiều.Giống người DuneDane ngày càng lai tạp,pha trộn với nhiều giống người thấp kém hơn làm cho chất lượng binh lính chung của vương quốc cũng bị thấp hơn so với trước đây.Tuy thế thì về mặt quân sự,Gondor vẫn là một vương quốc có tiềm lực lớn và là đối thủ khả dĩ nhất có thể chống lại thế lực của Sauron.

Ở thời đại này,các thể loại binh chủng của Gondor thực chất là vẫn còn nguyên so với trước kia chỉ khác là chất lượng và số lượng đã bị giảm đi nhiều. Họ chủ yếu dùng các đạo bộ binh với kiếm và khiên, Các đạo quân cận vệ giáo dài tinh nhuệ trước kia chỉ còn lại rất ít và được tập trung hết tại Minas Tirith.Đạo thần kỵ Dol Amroth không còn nhưng vẫn có các đạo quân kỵ binh khá mạnh mặc dù vào thời kỳ này họ bị đánh giá thấp hơn so với các kỵ sĩ Rohan.Các cung thủ mà đặc biệt là những đội quân trinh sát vẫn có khả năng xạ tiễn rất lợi hại nhưng số lượng của họ ngày càng ít đi.

Trong thời đại của các quan chấp chính,Gondor liên tục có chiến tranh với các quốc gia kẻ thù ở các vùng biên giới nên quân đội thời này được huấn luyện liên tục về kỹ năng chiến đấu trên bộ cũng như là kỹ năng thủy chiến.Các chiến binh Gondor thời này cũng rất mạnh nhưng họ dần dần bị sụt giảm về số lượng do chiến trận quá nhiều và cả bởi Dịch Bệnh Lớn.Vào thời điểm diễn ra Trận chiến Pelennor, quân lực của Gondor là còn lại rất ít và nếu không có sự tham chiến của Đội quân Người Chết thì Gondor sẽ bị sụp đổ.

* Các thành phố và cứ điểm quan trọng của Gondor trong thời đại thứ 3

+ Calembel – một thành phố tại vùng Lamedon.

+ Dol Amroth – một thành phố ở Belfalas,được cai trị bởi các Hoàng tử của Dol Amroth.

+ Ethring – một thị trấn lớn được xây dựng bên bờ Sông Ringio.

+ Henneth Annun – một cứ điểm quan trọng của các Tuần Du người Gondor ở phía Bắc Ithilien.

+ Linhir – một thành phố cảng tại Lebennin.

+ Minas Tirith ( khởi nguồn là Minas Anor ),Thành phố của các vị Vua,là kinh đô và là thành phố lớn nhất của Gondor.

+ Osgilliath, cố đô của vương quốc Gondor nằm bên bờ Sông Cả Anduin,nơi đây bị tàn phá hoàn toàn trong thời kỳ Nhẫn Chiến và được Vua Aragorn Elessar xây dựng lại sau sự sụp đổ của Sauron.

+ Pelagir, thành phố biển nằm ở bờ phía Nam của vương quốc,nơi bị chiếm đóng bởi người Corsair trong suốt thời kỳ Nhẫn Chiến.

+ Tarnost – một thị trấn vùng đồi tại Belfalas.

+ Minas Ithil – Tháp Mặt Trăng, về sau bị chiếm đóng bởi các Nazgul và đổi tên thành Minas Morgul.

+ Cirith Ungol – tòa tháp canh ở phía Tây của Mordor ( nơi mà Sam đã đột nhập vào để cứu Frodo ).Nơi này từng bị bỏ hoang bởi dịch bệnh và về sau dễ dàng bị chiếm đóng bởi lực lượng Mordor.

* Ngoài lề

Gondor mang nhiều nét tương đồng với đế quốc Byzantine ( Đông Roma ) ở ngoài đời thực. Cả hai đều có biên giới giáp với nhiều kẻ thù và phải thường xuyên chiến tranh; Gondor phải đối đầu với người Haradrim,người Easterl và lực lượng Mordor của Sauron; còn đế quốc Byzantine cũng phải đối đầu với người Ba Tư,người Thổ Nhĩ Kỳ và với cả các lực lượng tôn giáo phía Tây.Ngoài ra, vương quốc Gondor mang hình ảnh tôn giáo cao hơn so với các vương quốc khác ở Trung Địa. Điều này cũng đúng với Byzantine vì nơi đây chính là đầu não của Giáo Hội Thiên Chúa.

Trong các bộ phim của Peter Jackson thì kiến trúc tại Minas Tirith tuy không giống lắm so với lối kiến trúc ở Byzantine nhưng lối trang phục của dân thường hay binh lính ở đây lại khá giống với người Byzantine ở trước thế kỷ 11.

Harad là tên gọi để chỉ một vương quốc có vùng lãnh thổ khổng lồ nẳm ở phía nam của Mordor, những con Người định cư ở vương quốc này đều được gọi là những người phương Nam ( Southrons ) hay phổ biến hơn là những người Haradrim.

+ Về Lãnh thổ và địa hình

Lãnh thổ của Harad bao gồm tất cả những vùng đất nằm ở giữa biển Umbar và vùng đất Khand. Ta có thể phân lãnh thổ của vương quốc thành 4 vùng chính như sau:

Vùng thứ nhất là Harondor nằm tiếp giáp với phía Nam của Gondor. Nơi đây là một vùng đất tươi tốt với nhiều những khu đất cỏ và cây cối. Con sông Poros tạo nên vùng bờ phía Bắc của Harondor còn bờ phía Nam lại được tạo nên nhờ vào con sông Harnen. Khí hậu ở đây là kiểu khí hậu bán khô hạn.

Vùng thứ 2 là Umbar và một chuỗi những bến cảng gần đó. Trong những ngày cổ xưa, nơi đây từng là một thành phố rất lớn, được xây dựng hoàn toàn bởi những người khai phá gốc Numenor. Đây còn từng là một trung tâm buôn bán sầm uất trước khi bị rơi vào bóng tối.

Vùng thứ 3 là Near Harad, vùng đất nằm ở phía Đông của Harad và là nơi có đường biên giới với vùng đất láng giềng Khand. Địa hình chủ yếu ở Near Harad là hoang mạc và những người Haradrim ở đây thường tìm nơi định cư ở các khu vực gần với các nhánh sông, nơi gần nguồn nước và có khí hậu dịu mát hơn.

Vùng cuối cùng là Far Harad. Đường ranh giới giữa Near Harad và Far Harad là không mấy rõ ràng. Far Harad là một vùng đất vô cùng rộng lớn và có khí hậu cũng như địa hình rất tương đồng với Châu Phi. Loài voi khổng lồ Mumakil, hay còn gọi là Oliphaunt trong truyền thuyết của người Hobbit, sinh sống chủ yếu tại đây. Mumakil hiếm khi được nhìn thấy ở bên ngoài vùng đất Far Harad kể từ sau Thời đại thứ 3.

* Về con người và các thị tộc

Người Haradrim có rất nhiều các thị tộc, mỗi thị tộc lại có những người đứng đầu, những người đứng đầu này lại làm bá chủ ở mỗi vùng đất của riêng họ. Chính bởi điều này mà người Haradrim không mấy hòa thuận với nhau, việc các thị tộc trong vương quốc thường xuyên có xung đột với nhau là một điều rất bình thường. Nhưng kể từ khi Sauron lấy lại được quyền lực của mình, ông ta bằng sức mạnh vũ lực đã làm cho người Haradrim khiếp sợ và thuần phục, từ đó họ cũng không dám chém giết lẫn nhau nữa mà cùng đồng lòng phục vụ dưới trướng của Chúa tể bóng tối.

Về ngoại hình, người Haradrim được miêu tả là có nước da ngăm nâu với mái tóc đen và mắt đen. Còn về bản chất, họ được cho là những con người vô cùng dữ dằn và hiếu chiến.

* Lịch sử phát triển của Harad

Sau Thời đại thứ nhất, tất cả những con người sống tại vùng đất Harad đều rất nể phục những người khai phá có nguồn gốc từ Numenor, họ coi những người Numenor như những vị thánh bởi những người này sau khi đến đây đã không ngừng khai sáng và chỉ dạy cho họ những văn minh nghệ thuật trong việc phát triển xã hội. Vào giữa Thời đại thứ 2, tà tâm làm thay đổi đáng kể lối tư duy của những người Numenor, khát vọng quyền lực ngày càng tăng lên trong họ, thay vì mục đích khai sáng tốt đẹp như trước kia thì giờ đây, họ lại chuyển sang thống trị và đô hộ những con người tại Harad. Từ đó, những người Numenor như vậy đều được gọi là những người Numenor Đen.

Trước khi diễn ra Cuộc chiến của Liên minh cuối cùng thì tại Harad đã xuất hiện 2 lãnh chúa người Numenor có tên là Herumor và Fuinur, 2 người này có quyền lực vô cùng lớn tại vương quốc nhưng số phận đặc biệt của họ lại không được ghi chép nhiều.

* Thời đại thứ 3

Trong rất nhiều thế kỷ, những người Haradrim đều nằm dưới quyền thống trị của những lãnh chúa người Numenor Đen và bằng một cách nào đó mà ở những thế kỷ về sau này của Thời đại thứ 3, vương quốc Harad lại rơi vào tầm ảnh hưởng của Mordor.

Vào thời đại thứ 3, các Mumakil gần như chỉ được nhìn thấy ở vùng Far Harad. Các chiến binh ở đây đã thuần hóa những con voi khổng lồ và sử dụng chúng như là một chủng loại quân độc nhất vô nhị chỉ có thể có được ở riêng vương quốc này.

Vùng Near Harad có mối quan hệ đồng minh với các Cướp biển đen Corsair ở Umbar, 2 phe này thường hợp tác với nhau trong một loạt các trận chiến liên tiếp dồn dập vào vùng biên giới phía Nam của Gondor. Vào năm 3019, Harad với tư cách là một quốc gia chư hầu của Mordor đã hợp nhất lực lượng của mình với quân đội của Sauron trong chiến dịch san bằng Minas Tirish. Ở thời điểm này, mỗi khi ra trận, các chỉ huy người Haradrim đều mang cờ hiệu có biểu tượng là một con rắn đen đang khè lưỡi một cách hung dữ trên nền cờ màu đỏ. Trong Trận chiến trên cánh đồng Pelennor, cùng với thất bại của quân đội Sauron, gần như tất cả các chiến binh Haradrim tham gia vào chiến dịch đều đã bị tiêu diệt sạch bởi liên minh Gondor và Rohan.

* Thời đại thứ 4

Thời đại thứ 4 chứng kiến sự phát triển rực rỡ của Đại Vương quốc Gondor do vua Aragorn Elessar trị vì. Ở thời điểm này, các dân tộc vùng Harad không bị truy giết, họ vẫn là một dân tộc tự do, tuy nhiên, vẫn phải giao cho Đại Vương Quốc 2 phần lãnh thổ trước kia của họ là vùng đất phía Nam Gondor và vùng bến cảng Umbar. Tại một số nơi, vẫn có những nhóm người Haradrim nhỏ lẻ vẫn giữ thái độ thù địch với Gondor, tuy nhiên, sức mạnh của họ vốn chẳng thể gây ra bất cứ mối nguy hại nào cho Đại Vương Quốc hùng mạnh lúc bấy giờ.

Numenor là một hòn đảo lớn có hình ngôi sao năm cánh được các Valar tạo nên để dành tặng riêng cho những con Người dòng Edain sau khi vùng Beleriand ở Trung Địa bị hủy diệt trong Cuộc Chiến Thịnh Nộ. Phần lớn người Edain đều nhận món quà này từ các Valar, họ dong thuyền từ Trung Địa tới Numenor để định cư tại đây. Kể từ đó, những người Edain sống tại đây đều được gọi là những người Numenor, còn bản thân họ về sau lại tự gọi mình là những người DuneDane. Về vị trí trên bản đồ thì Numenor nằm ở giữa đại lục phía Tây Aman và đại lục phía Đông Arda.

* Một đế chế rực rỡ của Loài Người

Numenor là vương quốc của người DuneDane, với những tư chất và phẩm chất thượng thừa của giống người này cộng thêm với sự trợ giúp từ các Valar và người Elves mà Numenor ngày càng phát triển rực rỡ toàn diện về mọi mặt kinh tế, văn hóa và quân sự. Vào thời kỳ huy hoàng của Numenor thì Con Người trỗi dậy trở thành một chủng tộc vô cùng mạnh mẽ. Họ không chỉ xây dựng và phát triển tại Numenor mà còn dong thuyền trở về Trung Địa nhằm khai phá và khai sáng văn minh cho những con người và các vùng đất tại đó. Thời điểm chiếc thuyền đầu tiên khởi bến đến Trung Địa là vào năm 600 của Thời đại thứ 2.

Người Numenor có tuổi thọ rất cao và các vua của họ cũng vậy. Elros, con trai của Earendil, em trai của Elrond, chính là vị vua đầu tiên của vương quốc Numenor, triều đại trị vì của ông kéo dài từ năm thứ 32 cho tới tận năm 442 của Thời đại thứ 2. Dưới các triều đại còn lại, Numenor vươn rộng quyền lực ra khỏi cả lãnh thổ của đảo quốc, họ mở rộng tầm ảnh hưởng của mình tới Trung Địa, từ vùng Cảng Xám cho tới tận các vùng đất xa xôi ở phía Đông Arda. Kết quả là một hệ thống các thuộc địa của Numenor đã hình thành ở Trung Địa, vương quốc của người DuneDane giờ không chỉ giới hạn trong quốc đảo mà đã thực sự trở thành một đế chế khổng lồ.

* Sự thay đổi của người Numenor

Người Numenor là giống người có tuổi thọ cao nhất trong tất cả các giống Người từng tồn tại ở thế giới. Tuổi thọ của mỗi người họ thường có thể kéo dài từ 500 cho tới 600 năm. Tuy sống lâu đến như vậy nhưng họ vẫn là con Người, mà con Người thì không bất tử như các Valar hay người Elves bởi ngay từ đầu tạo ra Loài Người, Thượng Đế Eru đã ban cho họ một món quà đặc biệt chính là sự Không bất tử. Cũng bởi vậy mà các Valar tuy hết sức thương yêu con người nhưng không cho phép những người Numenor được đi tới Vùng đất bất tử bởi như vậy là làm trái với ý muốn ban đầu của Thượng Đế. Đây còn là hẳn một lệnh cấm mà các Valar đã ban ra dành cho người Numenor.

Theo thời gian, quyền lực và nền văn minh tại Numenor ngày càng phát triển rực rỡ, một bộ phận hoàng gia quí tộc tại đây đã phát sinh tư tưởng sợ hãi cái chết, họ muốn được bất tử như người Elves để có thể mãi mãi tận hưởng và phát triển viễn cảnh đầy vinh quang của đế chế. Tham vọng bắt đầu nhen nhúm trong tư tưởng của người Numenor, họ bắt đầu có những sự thay đổi.

Ở chính đảo quốc đã bắt đầu có sự chia rẽ thành 2 phe, một phe ủng hộ tham vọng và quan điểm của Đức Vua, trong họ dần xuất hiện cảm giác đố kỵ với người Elves bởi người Elves bất tử và được quyền cho phép tới Vùng đất bất tử, họ dần chối bỏ mối quan hệ tình bạn lâu năm mà 2 chủng loài đã gây dựng tại Numenor, những người này được gọi là phe Thân Vua; Phe còn lại là những người ủng hộ quan điểm của các Valar và vẫn duy trì tình bạn thân thiết với người Elves. Những người này được gọi là Faithful ( những người bạn Trung Thành ).

Mặc dù đích thân các Valar đã đến và giải thích cho người Numenor hiểu rằng cái chết không phải là một điều tồi tệ mà ngược lại nó còn là một món quà đặc biệt mà Thượng đế đã ưu ái dành cho Loài Người. Không có sự bất tử, trách nhiệm bó buộc của Con người với thế giới sẽ giảm đi, con người sẽ biết trân trọng cuộc sống hơn bởi họ có thể chết, tâm trí của con người cũng sẽ được tự do hơn so với người Elves.

Tuy nhiên, người Numenor vẫn không cảm thấy hài lòng với lời giải thích của các Valar, ngày càng nhiều người trong số họ ủng hộ quan điểm của phe Thân Vua. Phe Faithful ngày càng lép vế và buộc phải di rời tới Trung Địa. Đứng đầu những người Faithful phải ra đi này là Elendil.

Còn ở Trung Địa, sự thay đổi cũng bắt đầu thể hiện khi những người Numenor đến đây không còn mang mục đích khai sáng văn minh tốt đẹp như ban đầu nữa. Họ bắt đầu thiết lập quyền lực tại những vùng thuộc địa và quay sang đô hộ những người dân bản xứ sống tại đó.

* Ảnh hưởng bởi Sauron

Vào năm 1600 của Thời đại thứ 2, ở Trung Địa, Chúa tể bóng tối Sauron dưới hình dạng của một vị thần kim hoàn đã lừa dối các thợ rèn ở Tiên Quốc Eregion để tạo ra một bộ những chiếc nhẫn quyền lực và phân chia chúng cho những người đứng đầu của các vương quốc. Sau đó, hắn bí mật luyện ra Chiếc Nhẫn Chủ trong lòng núi Doom để điều khiển những chiếc nhẫn còn lại. Nhiều vua chúa của các vương quốc tự do đã rơi vào tầm ảnh hưởng của Sauron và biến thành tay sai của hắn.

Cho đến năm 1693, chiến tranh đã nổ ra giữa Sauron và người Elves, 6 năm sau đó, người Elves ngày càng bị thất thế. Eregion bị tiêu diệt còn Lindon thì đứng trước nguy cơ bị chinh phạt. Diễn biến cuộc chiến ở Trung Địa được Numenor chú ý theo dõi, Đức vua Tar-Minastir của lúc đó, đã gửi một đạo quân tới Trung Địa để giải vây cho Lindon. Liên minh Lindon-Numenor đã đẩy lui và giành lại được quyền kiểm soát khu vực Eriador từ Sauron vào năm 1701. Cuộc chiến giữa 2 phe vẫn tiếp tục diễn ra trong hơn 1000 năm tiếp sau đó.

Vào năm 3225 của Thời đại thứ 2, Đức vua đời thứ 25 của Numenor là Ar-Pharazon, đã chỉ huy một đạo quân khổng lồ và vô cùng thiện chiến cập bến Trung Địa. Trước sức mạnh của họ, Sauron buộc phải giả vờ đầu hàng. Đức vua chấp nhận sự đầu hàng của Sauron và áp giải hắn về Numenor.

Đầu tiên, khi mới tới Numenor, Sauron đã rất choáng ngợp trước sự hùng vĩ và phát triển của đế chế. Hắn biết là không thể dùng sức mạnh để đánh bại được Numenor. Vậy là hắn bắt đầu chuyển sang sử dụng một cách thức mềm mỏng hơn nhưng lại thâm độc hơn. Trong thời gian ở đây, Sauron bắt đầu gây dựng được thiện cảm và lòng tin của những người thuộc hoàng gia quí tộc Numenor. Hắn nắm được tâm lý thèm khát sự bất tử của những người này và ngày càng gièm pha, kích động họ chống lại những ý chỉ của Valar.

Bị đầu độc bởi những lời nói thâm hiểm của Sauron, tầng lớp thân quý tại Numenor ngày càng có những hành động quá đáng, họ công khai bộc lộ sự khó chịu của mình với các Valar cũng như người Elves. Thậm chí, vua Ar-Pharazon còn cho xây một đền thờ lớn để tôn thờ Melkor, Chúa tể bóng tối đầu tiên của thế giới; Trong khi mà Cây Trắng Nimloth, một món quà từ các Valar thì lại bị đốn hạ và đem đốt để hiến tế cho Melkor. Chính Isildur đã cứu được một quả cây của Nimloth và về sau chính từ hạt của quả cây này mà mọc thành Cây Trắng của Gondor.

Đỉnh điểm của những hành động điên rồ là việc cho xây dựng các tháp tọa lạc lớn ở vùng biển phía Tây để có thể quan sát được Thiên giới Aman, tiếp đó, những chiến thuyền, những đạo quân lớn bắt đầu rục rịch chuẩn bị cho một kế hoạch tấn công vào vương quốc Valimar của người Elves Vanya tại rìa biển phía Đông của Aman. Kế hoạch này về sau đã được thực hiện thật.

* Sự sụp đổ

Trước thái độ ngông cuồng của người Numenor, Manwe, vua của các Valar, đã đến xin lời khuyên của Thượng Đế Eru Illuvatar. Ngay sau đó, Thượng đế đã quyết định thay đổi thế giới, Ngài làm cho lãnh thổ của Aman bao gồm đại lục lớn phía Tây và đảo Tol Eressea mãi mãi tách xa khỏi tầm nhìn của Arda. Tiếp đó, những đám mây có hình đại bàng liên tục được gửi tới Numenor như là một dấu hiệu cảnh báo cho những con người sống tại đây. Dấu hiệu của Thượng Đế đã được đưa ra, một tai họa sắp ập đến với đế chế hùng mạnh này. Một số người nhận ra điềm báo này còn một số người thì không, những người nhận ra liền nhanh chóng sơ tán khỏi Numenor.

Lúc bấy giờ, ở ngoài biển khơi, đạo hùng binh của vua Ar-Pharazor đã bắt đầu cảm nhận được sự sợ hãi nhưng không còn kịp nữa. Một cơn bão lớn đã tạo nên một vũng nước xoáy khổng lồ nhấn chìm toàn bộ các hạm đội. Cơn bão lớn sau đó tiếp tục hướng tới Numenor, dân chúng Numenor hốt hoảng trước sự trừng phạt của Thượng Đế, họ không còn cơ hội để sửa sai bởi toàn bộ quốc đảo đã bị cơn bão khổng lồ nhấn chìm xuống lòng biển khơi cùng với toàn bộ cư dân đang sống tại đó. Vương quốc mạnh mẽ nhất trong lịch sử Loài Người đã bị diệt vong theo cách như vậy.

Một lời tiên tri đã nói rằng trong tương lai về mãi sau này, sau khi kết thúc trận chiến cuối cùng của thế giới là Dagor Dagorath thì Numenor sẽ được hồi sinh bởi suy cho cùng vương quốc này cũng là một nạn nhân của phe bóng tối.

* Về địa lý

Numenor có hình dáng hệt như một ngôi sao năm cánh tọa lạc trên vùng biển ở giữa Thiên giới Aman và đại lục Arda. Mỗi cánh của ngôi sao lại là một vùng đất, thứ tự của chúng như sau:

+ Forostar (vùng đất phía Bắc).

+ Andustar (vùng đất phía Tây).

+ Hyarnustar (vùng đất phía Tây Nam).

+ Hyarrostar (vùng đất phía Đông Nam).

+ Orrostar (vùng đất phía Đông).

+ Và cuối cùng là Mittalmar, vùng đất nằm ở trung tâm của đảo quốc. Tại Mittalmar có một ngọn núi tên là Meneltarma, đây cũng là ngọn núi cao nhất tại Numenor và là một nơi linh thiêng đối với người dân đảo quốc bởi trên đỉnh núi có đặt một đền thờ Thượng Đế Eru Illuvatar. Chỉ có duy nhất các Đức vua người Numenor mới được phép nói chuyện khi ở trên đỉnh núi. Tương truyền rằng, vào một ngày quang đãng, người ta có thể nhìn thấy hòn đảo truyền thuyết Tol Eressea khi đứng quan sát từ trên đỉnh của ngọn núi.

* Về văn hóa và con người

Dân số chủ yếu của Numenor được tạo nên từ những người Edain còn sót lại sau Cuộc Chiến Thịnh Nộ. Sau khi định cư tại đây, người Edain đã phát triển giống nòi lên một tầm cao hơn và tự gọi mình là những người DuneDane. Người DuneDane là giống người chủ yếu của vương quốc. Ngoài ra thì vùng đất phía Tây, mà đặc biệt là thành phố Andunie còn xuất hiện một lượng nhỏ dân số những người Elves, họ là những người ghé thăm và định cư tới từ hòn đảo huyền bí Tol Eressea ở vùng biển Tây.

Người Numenor là những người cực kỳ xuất chúng trong 2 lĩnh vực nghệ thuật và chế tác. Họ xây dựng nên những công trình, những đô thị vàng cực kỳ hoàng tráng và rực rỡ. Những vũ khí, giáp trụ và khí cụ quân đội tại đây cũng vô cùng đa dạng và tinh xảo, mỗi một thứ đồ bất kỳ được làm ra đều có thể được coi là một bảo vật. Những hoa văn trang trí đẹp đẽ được nhìn thấy ở mọi nơi, mọi vật tại Numenor.

Về bản chất, người Numenor vốn không có tính hiếu chiến, họ làm mọi thứ chỉ để nhằm vào những mục đích tốt đẹp. Nghệ thuật chế tạo thuyền đi biển của họ phát triển rất rực rỡ, những người Numenor về sau cũng trở thành những nhà thám hiểm và khai phá vô cùng tài ba, họ được phép dong thuyền đi thám hiểm tất cả các hướng ngoại trừ vùng biển ở xa phía Tây, nơi tọa lạc của Vùng đất bất tử Aman. Những nhà thám hiểm Numenor thường xuyên đi tới Trung Địa, sau khi cập bến, họ giúp đỡ những người bản địa bằng cách truyền dạy lại những kỹ năng phát triển xã hội tiên tiến của mình.

Người Numenor còn rất tài giỏi trong nghệ thuật nuôi trồng. Tại Mittalamar, trên những đồng cỏ lớn, có tới hàng ngàn những con ngựa lớn thuộc các dòng giống cao quý nhất được chăn thả. Với đàn ngựa và những vũ khí đa dạng, quân đội Numenor ngày càng trở nên hoàn thiện. Mặc dù không có tính hiếu chiến nhưng kỹ năng chiến đấu của các chiến binh Numenor ở mọi mặt là thiên hạ vô địch nếu chỉ xét trên toàn chốn Arda.

* Về thực vật

Numenor là vùng đất có rất nhiều loại thảo thực vật quý hiếm. Hầu như chúng không thể được tìm thấy ở bất cứ nơi nào khác tại Arda, một phần lí do là bởi rất nhiều những giống cây ở nơi này là của các Valar dành tặng riêng cho người Numenor. Trong số này phải kể đến giống Cây Trắng được trồng tại Cung điện của Đức vua ở Armenelos, đó cũng chính là biểu tượng của Con Người tại Numenor, Arnor và cả Gondor.

Tiếp sau Cây Trắng thì có thể kể đến loại cây Laurinque, những người ở Numenor rất yêu thích hoa của loại cây này. Họ tin rằng những cây Laurinque đều có nguồn gốc từ cây thần Laurelin của Valinor. Chính những loại cây lạ kết hợp với những công trình hùng vĩ đã biến Numenor trở thành một kỳ quan có một không hai trong lịch sử phát triển của Loài Người.

Rhovanion or Wilderland was a large region of northern Middle-earth. The Great River Anduin flowed through it, and the immense forest of Greenwood the Great also lay within its borders.

Properly speaking Rhovanion was the name of a small region east of Greenwood, which later was the Kingdom of Rhovanion, but the name was used for all of Wilderland by the late Third Age.

* History

In the First Age the Elves passed through Rhovanion on their Great Journey, and much later the Atanatári (Fathers of Men) followed them. The region is not otherwise mentioned until tales of the Second Age.

Rhovanion was host to two Silvan Elf kingdoms ruled by Sindarin lords: Northern Greenwood and Lórinand (later named Lórien).

The great battlefield (or Dagorlad) of the War of the Last Alliance against the host of Sauron lay in the south of Rhovanion, and in the Gladden Fields of the Great River the High King of Gondor and Arnor, Isildur, son of Elendil, was killed.

In the early Third Age, it was a quite populated area: in the north lay the Dwarven kingdoms of Erebor and the Dwarf halls in the Ered Mithrin, and the Mannish kingdom of Dale, in the north of the Great River Anduin lay the Mannish realm of Éothéod, and in and around the south and east of Greenwood the Great lived the Men of Rhovanion.

In TA 1248, Rómendacil II of Gondor destroyed all camps of the Easterlings even beyond the Sea of Rhûn, and a strong alliance with Rhovanion was forged. The King of Rhovanion at this time was Vidugavia, and Prince Valacar of Gondor served in his army. Vidugavia's daughter Vidumavi married Valacar, and their son Vinitharya became King Eldacar in TA 1432, which led to the Kin-strife in TA 1437. Eldacar fled to Rhovanion, and with a Rhovanion army he reclaimed his Kingdom in TA 1447.

In the north of Greenwood lived the Silvan elves ruled by Thranduil, and in the south of Greenwood and across the river in Lórinand ruled Amdír and later Amroth. In the far south, near the great falls of Sarn Gebir, watched the northern guard of Gondor, and in the valleys of the Anduin lived Stoors (Hobbits).

In TA 1636 the Great Plague devastated Rhovanion, killing more than half its people. This left Rhovanion weakened, and in TA 1851 the Wainriders overran and enslaved Rhovanion. For 43 years Rhovanion was enslaved, but in TA 1899 Rhovanion revolted, while Gondor attacked the Wainriders from the west. Rhovanion was freed but left extremely weakened. Many Men of Rhovanion left for Gondor, where they were welcomed as distant relatives.

In c. TA 2460 Sauron returned as "the Necromancer", taking residence at Dol Guldur in the south of Greenwood, which became evil and was renamed "Mirkwood". The Dwarves of Erebor and Men of Dale were destroyed and scattered when the Dragon Smaug took Erebor, and Gondor retreated from the Falls. Some Men still lived along the forest, notably the Beornings and the Men of Esgaroth upon the Long Lake. The Men of Éothéod removed south at the invite of Gondor, and settled the plains of Calenardhon, later Rohan. After being driven out of Erebor the Dwarves relocated, some went to the Iron Hills, but most went to the Ered Luin in Eriador.

At the end of the Third Age, the Kingdoms of Erebor and Dale were restored as a result of the death of Smaug and the Battle of Five Armies, and Sauron was removed from Mirkwood by the wizard Gandalf. During the War of the Ring it held off an invasion by Sauron's forces, and after Sauron was defeated Mirkwood was clean again, and renamed Eryn Lasgalen, or "Wood of Greenleaves". Some time during the Fourth Age Gondor claimed large parts of it.

* Boundaries

- To the east: the River Running and the inland Sea of Rhûn.

- To the north: the Grey Mountains and Iron Hills, home of the Dwarves.

- To the west: the range of the Hithaeglir, or Misty Mountains.

- To the south: the line marked by the Limlight river, Anduin, Emyn Muil, Dagorlad, and the Ered Lithui.

Important rivers were the Anduin or Great River, the Celduin or Running, and the Carnen or Redwater.

Major features were the forest of Mirkwood, and the Long Lake of Esgaroth.

* Etymology

Rhovanion is Sindarin for "wilderland" and contains rhovan, with the place-name ending -ion.

Wilderland was a Hobbit name. Tolkien made Wilderland based on wilderness but with a side-reference to the verbs wilder, "wander astray" and bewilder.

Rhûn, also known as The East and Eastlands in the Westron tongue, is a large region in the far eastern part of Middle-earth. It was the home and kingdom of the Easterlings in the Second and Third Ages. It had many different groups who ultimately fought together and were in Sauron's service.

* Overview

"Rhûn" is a name used for all lands lying east of Rhovanion, around and beyond the inland Sea of Rhûn, from where many attacks on Gondor and its allies came during the Third Age.

Very little is known of the lands beyond the great Sea of Rhûn that stood on its borders with the western lands. Even Gandalf had never explored there, and although Aragorn visited once, his activities are not recounted.

Something is known of its ancient geography from The Silmarillion; far beyond the Sea of Rhûn was another inland sea, the Sea of Helcar, and beyond that a range of mountains known as the Orocarni (Red Mountains). Somewhere in the lost east, too, lay Cuiviénen and Hildórien, where Elves and Men first awoke: all the Children of Ilúvatar could trace their ancestries back to the eastward regions of Middle-earth.

The Easterlings were a race of Men who ultimately followed both Dark Lords and fought as their allies in war in different parts of history. Both the Balchoth and Wainriders were factions of the Easterlings at least by the Third Age.

During the Third Age, Rhûn was visited by three Wizards; Saruman, Alatar, and Pallando, and though Saruman returned to the west, the two Blue Wizards remained. Their fates are unknown and whether they were successful in inspiring the peoples they had contact with to resist Sauron's influence is unknown. Sauron himself journeyed into the eastward lands, in hiding from the White Council during the centuries known in the west as the Watchful Peace.

Gondor conquered western edge of Rhûn twice: under the Kings Rómendacil I and Rómendacil II, but the Númenóreans never had full control over it.

The people of Rhûn were finally subdued in the Fourth Age under King Elessar (Aragorn) and his son Eldarion. King Elessar eventually made peace with the Easterlings, and they were allowed to remain in Rhûn.

* Geography

The western part of Rhûn was visible in maps of the Westlands of Middle-earth. It contained the great Sea of Rhûn, into which ran the River Running from the northwest. A forest lay to the northeast of the Sea, and near the southwestern shores, there were many hills. Southwest of the Sea of Rhûn lay also the land of Dorwinion.

The Inland Sea of Rhûn was located in western Rhûn on the border between Rhûn and Wilderland. There were mounta